
Thẩm định tài chính dự án đầu tư của
Ngân hàng thương mại
Biên tập bởi:
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân

Ngân hàng thương mại
Các quan niệm về Ngân hàng thương mại.
Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử phát triển của nền
sản xuất hàng hoá: Các ngân hàng thương mại xuất hiện trong nền kinh tế với tư cách là
các nhà tổ chức trung gian, nhận tiền gửi của các tổ chức kinh tế có dư thừa và trên cơ
sở đó cấp tín dụng cho các đơn vị kinh tế có nhu cầu tức là luân chuyển vốn một cách
gián tiếp. Hệ thống ngân hàng thương mại có phạm vi hoạt động rộng rãi vì nó cung cấp
các dịch vụ tài chính cho tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế và các tầng lớp dân cư. Tuỳ
theo cách tiếp cận mà có các quan điểm khác nhau về NHTM, điều đó còn phụ thuộc
vào tính chất và mục tiêu của nó trên thị trường tài chính của từng nước.
• Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại.
Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp: Một doanh nghiệp đặc biệt – hoạt
động và kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ và tín dụng.
• Theo quan điểm của các nhà kinh tế Hoa Kỳ.
Ngân hàng thương mại là một công ty kinh doanh chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và
hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính.
• Theo quan điểm của các nhà kinh tế Pháp.
Ngân hàng thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở nào hành nghề thường xuyên nhận
được của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng
cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính.
• Theo quan điểm của các nhà kinh tế Việt Nam.
Ngân hàng thương mại là một tổ chức mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận
tiền gửi, trên nguyên tắc hoàn trả, tiến hành cho vay, chiết khấu và làm các phương tiện
thanh toán.
Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về NHTM, nhưng tựu chung lại có thể hiểu tổng
quát: Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân hoạt động kinh
doanh trên lĩnh vực tiền tệ với hoạt động chính là huy động tiền gửi dưới các hình thức
khác nhau của khách hàng, trên cơ sở nguồn vốn huy động này và vốn chủ sở hữu của
ngân hàng để thực hiện các nghiệp vụ cho vay, đầu tư, chiết khấu đồng thời thực hiện
các nghiệp vụ thanh toán, môi giới, tư vấn và một số dịch vụ khác cho các chủ thể trong
nền kinh tế.
2/40

Các chức năng của Ngân hàng thương mại.
• Tạo tiền:
Chức năng này được thực hiện thông qua các hoạt động tín dụng và đầu tư của Ngân
hàng thương mại. Sức mạnh của hệ thống NHTM nhằm tạo tiền mang ý nghĩa kinh tế
to lớn. Hệ thống tín dụng năng động là điều kiện cần thiết cho sự phát triển kinh tế theo
một hệ số tăng trưởng vững chắc. Nếu tín dụng ngân hàng không tạo được tiền để mở
ra những điều kiện thuận lợi cho quá trình sản xuất và những hoạt động của nó thì trong
nhiều trường hợp, sản xuất không thực hiện được và nguồn tích luỹ từ lợi nhuận và các
nguồn khác sẽ bị hạn chế. Hơn thế nữa, các đơn vị sản xuất có thể phải gánh chịu tình
trạng ứ động vốn luân chuyển không được sử dụng trong quá trình sản xuất. Một thực tế
như thế có thể không mang lại hiệu quả, trong khi xuất hiện tình trạng vốn không được
sử dụng vào những giai đoạn cụ thể của quá trình sản xuất, nhưng trong các thời kỳ cao
điểm mang tính thời vụ của các hoạt động doanh nghiệp lại không đủ vốn để thúc đẩy
nhu cầu sản xuất kinh doanh.
Nền kinh tế cần một số cung tiền tệ vừa đủ và không được phép vượt. Nếu tiền cung ứng
tăng quá nhanh, tất yếu lạm phát sẽ xuất hiện và những hậu quả xấu mà quá trình kinh
tế sẽ phải chịu đựng.
• Cơ chế thanh toán:
Việc đưa ra một cơ chế thanh toán, hay nói một cách khác, sự vận động của vốn là một
trong những chức năng quan trọng do các NHTM thực hiện và nó càng trở nên quan
trọng khi được sự tín nhiệm trong việc sủ dụng séc và thẻ tín dụng.
Các Ngân hàng đã và đang trang bị máy tính và các phương tiện kỹ thuật nhằm làm cho
quá trình thanh toán bù trừ được thực hiện nhanh chóng, giảm bớt chi phí và đạt trình
độ chính xác cao. Trong những năm gần đây đã có những đổi mới quan trọng và được
đưa vào sử dụng như nghiệp vụ ngân hàng không séc hoặc xã hội không séc, nghĩa là sử
dụng một vài hình thức chuyển tiền bằng điện tử và chính điều này, có thể dẫn đến việc
huỷ bỏ séc ngân hàng đã từng sử dụng lâu nay và phần lớn công việc có liên quan. Điều
này có thể mạng hoá các máy tính trong các Ngân hàng đặt khắp nơi trong nước và như
vậy, nó thực hiện việc chuyển vốn của người mua sang tài khoản của người bán. Nét
thuận lợi cơ bản của hệ thống này là hiện đã lắp đặt và sử dụng hệ thống máy tự động
trong nhiều ngân hàng và do đó, thẻ tín dụng ngân hàng có thể được sử dụng để rút tiền
từ tài khoản cụ thể, thực hiện gửi tiền và thanh toán nợ và chuyển vốn giữa tiền gửi tiết
kiệm và tài khoản séc của cùng một thân chủ.
• Huy động tiết kiệm.
3/40



