
1
Tham nhũng là rào cản mọi sự phát triển
kinh tế đất nước ?
Tiền lại đẻ ra tiền", liệu có đồng cảnh và đồng ngữ với "Có tiền mua tiên
cũng được" hay "Dùng tiền để mua quyền và dùng quyền để kiếm lại tiền
nhiều hơn"?
Thực tế Tham nhũng xuất phát từ nghĩa cái nghĩa của "Quyền và Tiền"!
Dùng tiền để mua quyền và lại vì tiền mà dùng quyền để kiếm tiền chỉ có
điều đồng tiền nén bạc ấy nó từ đâu mà có vì trong thực tế phát triển của
kinh tế xã hội dù ở điều kiện nào nếu kiếm tiền chân chính là phải có điều
kiện cần và đủ năng lực,tài năng và trí tuệ, ở nền kinh tế thị trường thì quy
luật kinh doanh tiền đẻ ra tiền khi và chỉ khi đồng tiền đưa vào kinh doanh là
đồng tiền sạch và giá trị đúng của sản phẩm là tập hợp các chi phí và những
tinh túy của sức lao động đem lại chất lượng và giá thành của nó. khi giá trị
của hàng hóa sản phẩm ngày một phát triển thì nền kinh tế xã hội ấy cũng
tiến theo chiều thuận của thời gian. Còn nếu đồng tiền"không sạch" mà có
được do những "vi phạm các kiểu" mà có rồi từ đó lại đẻ thêm những đồng
tiền"không sạch" khác đó chính là quy trình kiếm tiền của một vòng "luẩn
quẩn" nói tóm lại dư luận cho một định nghĩa chung có tiền do tham và
nhũng nhiễu hay là "tham nhũng" chắc chắn sẽ là rào cản mọi sự phát triển
nền kinh tế của một quốc gia,vùng,tỉnh... và mọi nơi nếu lợi ích dựa trên mối
quan hệ là tham nhũng sẽ cản trở quá trình cải cách và phát triển đất nước.
Khi nghiên cứu về động lực thúc đẩy cải cách kinh tế tại các tỉnh ở Việt
Nam. Báo cáo được công bố hôm 5.7 tại Hà Nội đã nhận định tham nhũng là
rào cản quá trình cải cách và phát triển kinh tế từ địa phương đến trung ương
và lan tỏa cả quốc gia , Nội dung báo cáo quan trọng này dựa trên kết quả
nghiên cứu tại bốn tỉnh thuộc khu vực đồng bằng sông Hồng và đồng bằng
sông Cửu Long là Bắc Ninh, Hưng Yên, Đồng Tháp, Cà Mau, do viện
Nghiên cứu Phát triển(IDS) của đại học Sussex, Vương quốc Anh và phòng
Thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) thực hiện.
Nhóm nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, cả hai trường hợp thành công cho thấy
ảnh hưởng của phong cách lãnh đạo năng động, có trình độ và ổn định của
chính quyền tỉnh. Thiếu những yếu tố này, những cố gắng vận động của
hành lang của khối DN tư nhân cũng sẽ chỉ dừng ở việc phục vụ lợi ích cá

2
nhân và không được chuyển biến thành những cải cách sâu rộng hơn. Như
vậy “Rõ ràng là sự kết hợp của một khu vực tư nhân có năng lực được tổ
chức tốt và một bộ máy lãnh đạo địa phương năng động sẽ làm gia tăng sự
thành công”.
Mặt khác quá trình phân cấp hay cải cách hành chính đã diễn ra thành công,
nhưng cũng gây ra không ít vấn đề cho địa phương sau đó. Các vấn đề được
đề cập nhiều nhất là sự lãng phí đầu tư công, đặc biệt là xây dựng quá nhiều
sân bay, bến cảng, khu công nghiệp tại các địa phương. Các tỉnh đua nhau
xây dựng cơ sở hạ tầng đắt tiền nhằm khẳng định uy tín với nhà đầu tư
nhưng lại nhận được kết quả ngược lại: cơ sở hạ tầng không được sử dụng
hết công suất.“Chúng tôi nhận được nhiều câu trả lời có nội dung: Nhờ có
quá trình phân cấp, giờ đây bộ mặt nông nghiệp của Việt Nam có “14 lỗ” với
hàm ý các cánh đồng lúa bị phá hủy để chuyển hóa thành sân golf”...và rất
nhiều dự án vô lý khác không phù hợp với vùng, miền và địa lý khí hậu hay
điều kiến phát triển...
Hay giới nghiên cứu kinh tế đã nhận định là "phát triển kinh tế mũi nhọn
như quả mít" vì tình trạng đầu tư lãng phí dàn trải và chỗ nào cũng nhọn ví
như ở Đồng Tháp: ngành công nghiệp mũi nhọn của Đồng Tháp những năm
gần đây là công nghiệp chế biến thủy sản và thức ăn gia súc do vậy trên địa
bản tỉnh, hiện có tới 42 dự án đầu tư với công suất 280.000 tấn/năm, tổng
vốn đầu tư 5.100 tỷ đồng, nhưng chỉ hoạt động 50% công suất do nhiều
nguyên nhân như thiếu nguyên liệu đầu vào, thị trường xuất khẩu…, như
vậy đã lãng phí của cải xã hội gần 2.600 tỷ đồng.
Về động lực cải cách có nhiều yếu tố, nhưng quyết định là từ lãnh đạo, chính
quyền, cơ quan quản lý. “Cải cách đâu phải người dân quyết định được.
Nhưng động lực để thúc đẩy phát triển lại chính là từ người dân, từ DN, mà
ở đây chúng ta nhấn mạnh là DN tư nhân”.
Có thể nhận định "Việt Nam đạt mức tăng trưởng cao hàng chục năm nay và
các tỉnh hiện cũng ráo riết cho mục tiêu tăng trưởng, nhưng sự tăng trưởng
ấy có bền vững không?" thực sự là sự tăng trưởng ảo Vì nếu phân cấp quản
lý mà bản thân nó là phân chia quyền lực và trách nhiệm, nhưng nếu trao
hết cho địa phương là không đúng, mà là việc hiện đúng chức năng được
phân cấp, bảo đảm năng lực giải trình của cả trung ương và địa phương.
“Tuy nhiên, nội dung này trong báo cáo còn mờ nhạt. Báo cáo cũng nói rằng
phân cấp cho địa phương tạo ra lãng phí, nhưng ở trung ương còn lãng phí
hơn nhiều,mà trường hợp Vinashin, Vinalines là điển hình”,Hay sự phân cấp

3
này chính là cái "bẫy" để thực hiện mối quan hệ giữa "quyền và tiền" ở từng
cấp độ và tham nhũng cũng nảy sinh theo cấp độ này? Vì vậy nó là rào cản
lớn cho sự phát triển kinh tế cũng theo cấp độ phân chia?
Thực tế hiện nay cải cách quản lý chưa hẳn là trao quyền, mà có phàn là
chính quyền trung ương chạy trốn trách nhiệm, trong khi thiết chế giám sát
vẫn còn hạn chế. vì thực tế “Đúng là có chuyện tỉnh nào cũng mải mê chạy
theo mô hình tăng trưởng nhưng không trách họ được, vì cách thức phân bổ
kinh tế như hiện nay, tư duy nhiệm kỳ như hiện nay. Nếu các tỉnh cạnh tranh
nhau về năng lực điều hành thì tốt, nhưng cạnh tranh nhau về sân bay, bến
cảng hoành tráng thì hiệu quả ngược”. Mà lại mỗi dự án này lại mất khoảng
30-40 % vốn ban đầu theo kiểu "luật bất thành văn" cứ thế mà làm rồi đi tìm
người để thực hiện quy chế "xin cho " hoặc "chế độ chỉ định thầu " cũng
chẳng khác nhau là mấy?
Kết luận: Nhìn nhận tổng thế nếu ở bất kỳ điều kiện nào xã hội nào mà hiện
tượng tham nhũng hiển diện và phát triển thì sẽ là rào cản quá lớn đến sự tồn
tại và phát triển kinh tế xã hội tại thời điểm ấy ? Vì vậy muốn kinh tế xã hội
ổn định và phát triển cần phải tìm bài thuốc triệt tiêu mọi tham nhũng ở mọi
ngóc ngách của nền kinh tế mà xuất phát điểm phải từ khâu tổ chức nhân sự
phải là độc lập và cần theo quy định. tiêu chí. chỉ tiêu về tầm và tâm của
người cán bộ quản lý ở mọi cấp ngành và cần được nhân dân nhìn nhận đánh
giá và tín nhiệm khi tranh cử. Đó chính là khâu cải cách cần thiết và phải
thực hiện càng sớm càng tốt.
PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG CẦN XÓA CƠ CHẾ XIN CHO HIỆN
NAY Cơ chế xin cho đã có từ thời kỳ bao cấp, cho đến nay đã thực hiện theo
cơ chế thị trường, cơ chế này vẫn tiếp tục tồn tại dưới hình thức tinh vi hơn.
Khi đã nói đến từ Xin thì nghỉ đến ngay cấp dưới, còn người Cho phải là cấp
trên. Thực tế hiện nay đất nước ta còn nghèo , ngân sách thu trong nước
không đảm bảo chi cho sự phát triển kinh tế, do đó phải vay từ bên ngoài tập
trung cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng của đất nước. Vì vậy chi ngân sách
nhất là đầu tư công, phải hết sức tiết kiệm làm sao mang lại hiệu quả chống
lãng phí . Tình hình thu ngân sách hiện nay của các tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương , đa phần thu không đảm bảo chi phải được cân đối hổ trợ

4
từ ngân sách trung ương . Một số tỉnh , thành phố có nguồn thu khá sau khi
cân đối đã điều tiết về cho ngân sách trung ương , như Thành phố Hồ chí
Minh, Bình dương vv…đã chủ động ngân sách cấp mình trong bố trí kế
hoạch đầu tư cơ sở hạ tầng hàng ngàn tỷ đồng . Còn các tỉnh thành phố còn
lại thu ngân sách không đủ chi, nên phải ra các bộ ban ngành trung ương xin
kinh phí để đầu tư cho địa phương mình , có nhiều địa phương ở xa phải đặt
văn phòng tại Hà nội để tiện giao dịch. Để khắc phục được cơ chế xin cho
hiện nay, đồng thời đảm bảo sự công bằng của các địa phương , Chính phủ
cần đẩy mạnh phân cấp ủy quyền cho địa phương các lãnh vực hết sức nhạy
cảm như phân cấp ngân sách, phân cấp đầu tư công, phân cấp nguồn đầu tư
xây dựng cơ bản, các loại giấy phép hiện nay cấp bộ cấp, đây là các lãnh vực
rất dễ tạo sơ hở cho tiêu cực . Các Bộ ban ngành cấp trên nên tập trung tăng
cường kiểm tra, thanh tra, giám sát từng lãnh vực chuyên môn của ngành
mình phụ trách, phát hiện kịp thời sai phạm ở các địa phương vi phạm pháp
luật và có biện pháp xử lý chấn chỉnh đối với các địa phương cố tình vi
phạm. Hiện nay các nguồn vốn đầu tư lớn đầu tập trung ở các bộ ban ngành
trung ương, như nguồn các chương trình mục tiêu quốc gia, các chương trình
đầu tư từ nguồn trái phiếu chính phủ , nguồn ODA vv…Các địa phương
muốn có nguồn vốn trên để đầu tư cho địa phương mình phải đi xin thôi .
Chưa có dự án phải chạy nhưng có dự án rồi vẫn phải chạy, mới nghe qua
thấy không tin nhưng thực tế cũng phải tin là sự thật.Năm nay 2012 thời
gian đã 6 tháng đầu năm , phần lớn các dự án thuộc nguồn vốn của trung
ương các địa phương không triển khai được, qua tìm hiểu, ngày 28/10/2011
Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có công văn số 7356/BKHĐT-TH V/v hướng dẫn
thực hiện Chỉ thị của TTCP về tăng cường quản lý đầu tư từ NSNN và
TPCP, theo đó các dự án mới phải được thẩm định nguồn vốn và khả năng
cân đối vốn các dự án đầu tư từ vốn NSNN và vốn trái phiếu chính phủ. Do
vậy, tòan bộ các dự án đầu tư ở các địa phương từ tỉnh và huyện thuộc
nguồn vốn ngân sách trung ương như các chương trình mục tiêu quốc gia,
trái phiếu chính phủ vv…mặc dù Quốc hội, Chính phủ đã thông qua có
quyết định giao chỉ tiêu phân bổ vốn từng danh mục về cho các địa phương ,
trong đó đã ghi rõ nguồn vốn cụ thể như trái phiếu chính phủ, vốn chương
trình mục tiêu quốc gia vv…nhưng theo tinh thần văn bản hướng dẫn trên
của Bộ Kế họach đầu tư, các danh mục mới đã được bố trí trong kế họach
vốn 2012 phải có báo cáo thẩm định nguồn vốn của Bộ Kế họach đầu tư phê
duyệt thẩm định, khi nào thẩm định nguồn vốn xong các địa phương mới
được phép làm các bước thủ tục tiếp theo , theo trình tự xây dựng cơ bản, rồi
mới đến bước đấu thầu hay chỉ định thầu đơn vị thi công, chủ đầu tư mới
khởi công công trình được. Chúng ta biết cả nước có đến hàng trăm ngàn
công trình tập trung ở Bộ Kế họach đầu tư để được phê duyệt thẩm định

5
nguồn vốn, địa phương nào cũng thấy hết sức cần thiết phải sớm làm xong
thủ tục để sớm khởi công công trình, nếu không kịp thời sẽ bị mất vốn, do
vậy các địa phương từ huyện đến tỉnh trong cả nước, phải ra Bộ Kế họach
đâu tư để làm việc sớm có báo cáo phê duyệt thẩm định vốn cho địa phương
mình. Với khối lượng công việc đồ sộ quá lớn như thế , với một số ít cán bộ
chuyên viên ở các Vụ thuộc Bộ có thể giải quyết nhanh chóng kịp thời giúp
cho các địa phương hay không? Đây có phải là cải cách thủ tục hành chính
hay không? Hay tiếp tục cơ chế xin cho dễ dẫn đến tiêu cực ? Về hướng lâu
dài xóa dần cơ chế xin cho, làm thế nào cho các địa phương tự cân đối được
thu chi ngân sách của cấp mình, không phải ra các bộ ngành trung ương xin
kinh phí nữa. Để thực hiện được điều này , thì trước tiên các ngành trung
ương cần tạo điều kiện cho các địa phương về cơ chế chính sách, đồng thời
sớm nâng cấp đầu tư nâng cấp mở rộng tuyến đường quốc lộ đi qua địa
phương, nhằm để tạo điều kiện cho địa phương dễ dàng thu hút các nhà đầu
tư trong và ngoài nước vào đầu tư đến đầu tư ở địa phương mình. Như các
tỉnh tây nguyên, duy nhẩt chỉ có tuyến đường quốc lộ 14 đi qua, nay đã
xuống cấp trầm trọng, từ thành phố Hồ chí Minh đến Buôn ma thuột được
khoảng cách chỉ có 350km mà phải đi cả ngày trời. Nếu như tỉnh Gia lai hay
Kon tum còn xa hơn nữa thì như thế nào! Thử hỏi các nhà đầu tư trong và
ngoài nước có mạnh dạn đến tây nguyên để đầu tư giúp các tỉnh này sớm
phát triển hay không ?