LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và kết
quả nghiên cứu nêu trong đề tài là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ
một công trình nào khác.
Sinh viên
Trần Thị Trung Anh
Xin trân trọng gửi lời tri ân đến cô giáo ThS. Trần Thị Mỹ Hồng, người đã tận
tình hướng dẫn tôi thực hiện và hoàn thành đề tài này.
Xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến quý thầy cô đã giảng dạy và đóng góp
những ý kiến quý báu cho tôi trong quá trình học tập.
Xin chân thành cảm ơn Khoa Sư phạm Tiểu học - Mầm non, Trường Đại học
Quảng Bình đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi nghiên cứu.
Nhân dịp này cho phép tôi được bày tỏ lòng biết ơn chân thành nhất!
Sinh viên
Trần Thị Trung Anh
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ..............................................................................................................i
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề .............................................................................................................. 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................... 5
3.1. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................................... 5
3.2. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................................. 5
4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................. 5
5. Đóng góp của đề tài ..................................................................................................... 5
6. Cấu trúc của đề tài ....................................................................................................... 6
NỘI DUNG ...................................................................................................................... 7
Chương 1: HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN NHẬT ÁNH .... 7
1.1. Tác giả Nguyễn Nhật Ánh ........................................................................................ 7
1.1.1. Vài nét về cuộc đời và quan điểm sáng tác cho thiếu nhi của Nguyễn Nhật Ánh . 7
1.1.2. Hành trình sáng tác văn chương của Nguyễn Nhật Ánh ..................................... 12
1.2. Tác phẩm “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” ......................................................... 16
Chương 2: CÁC KIỂU NHÂN VẬT TRONG TÁC PHẨM “TÔI THẤY HOA VÀNG
TRÊN CỎ XANH” .......................................................................................................... 19
2.1. Khái niệm nhân vật và thế giới nhân vật ................................................................ 19
2.1.1. Khái niệm nhân vật .............................................................................................. 19
2.1.2. Thế giới nhân vật ................................................................................................. 20
2.1.3. Vai trò của nhân vật trong các tác phẩm văn học ............................................... 21
2.2. Các kiểu nhân vật trong tác phẩm "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh" .................... 23
2.2.1. Nhân vật trẻ em .................................................................................................... 23
2.2.2. Nhân vật người lớn .............................................................................................. 34
2.2.3. Nhân vật là loài vật ............................................................................................. 42
Chương 3: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG TÁC PHẨM “TÔI
THẤY HOA VÀNG TRÊN CỎ XANH” .......................................................................... 48
3.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình ................................................................................ 48
3.2. Nghệ thuật miêu tả hành động ................................................................................ 50
3.3. Nghệ thuật miêu tả nội tâm .................................................................................... 53
3.4. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ ................................................................................. 54
KẾT LUẬN ................................................................................................................... 60
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................. 62
PHỤ LỤC ..................................................................................................................... 65
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bất cứ một nền văn học nào trên thế giới cũng chứa đựng trong lòng nó một bộ
phận không thể thiếu là văn học thiếu nhi. Assen Bossev – nhà văn Bungari đã từng
nói : “những cuốn sách hay đều là người bạn đời vĩnh viễn của tuổi nhỏ; chính chúng
cho trẻ con đôi cánh để bay lên mà chinh phục cuộc sống”. Văn học thiếu nhi chính là
"món quà của một bạn nhỏ ngày xưa tặng các bạn bây giờ” (Xuân Quỳnh). Đây là
những sáng tác mà tác giả, dù là trẻ em hay nhà văn lớn tuổi, đều phải biết nhìn con
người, nhìn cuộc đời bụi bặm của chúng ta bằng con mắt trong veo và ngơ ngác của
con trẻ, phải biết hiến dâng trọn vẹn cái phần tinh tuý nhất của đời mình, của tâm hồn
mình cho trẻ. Đó là những tác phẩm văn học hàm chứa tất cả những xúc cảm và
tình cảm tinh tế, hồn nhiên của trẻ thơ, được các em thích thú, say mê và có giá trị giáo
dục, hình thành tâm hồn và nhân cách trẻ thơ. Nó có vai trò quan trọng đối với sự hình
thành và phát triển toàn diện nhân cách con người ngay từ thuở nhỏ, là hành trang cho
mỗi người trên suốt đường đời. Văn học không chỉ góp phần làm giàu có tâm hồn,
nâng cao năng lực cảm thụ cái đẹp, mà còn giúp cho lứa tuổi thiếu nhi phát triển trí
tuệ, mở rộng sự hiểu biết và hướng tới một lối sống giàu lòng nhân ái. Với những lí do
đó mà văn học về đề tài trẻ thơ là mảng đề tài cực kì quan trọng.
Văn học thiếu nhi Việt Nam từ sau cuộc kháng chiến chống Mĩ, đặc biệt từ 1986
có sự phát triển mạnh mẽ và đa dạng cùng với sự phát triển chung của nền văn học dân
tộc. Công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước đã thực sự đem lại một không khí mới
cho văn học nước nhà, trong đó có bộ phận văn học thiếu nhi. Sáng tác cho các em, từ
những năm đầu thời kì đổi mới đến nay, đã đạt được những thành tựu đáng kể. Nổi lên
trong mảng đề tài viết cho thiếu nhi là các tác giả Duy Khán, Nguyễn Quang Sáng,
Phùng Quán, Vũ Đức Nguyên, Vi Hồng, Vũ Bảo,… giai đoạn tiếp theo có Thu Trân,
Nguyễn Nhật Ánh, Kim Hài, Nguyễn Thị Minh Ngọc, Trần Thiên Hương, Nguyễn Thị
Mai… Có thể nói, đội ngũ sáng tác văn học thiếu nhi từ đầu thời kì đổi mới đã phát
triển hùng hậu thể hiện rõ tính chuyên nghiệp của bộ phận sáng tác cho các em. Và
cũng vì vậy mà chưa bao giờ, văn học thiếu nhi Việt Nam lại phát triển phong phú như
1
ở thời kì này.
Truyện của Nguyễn Nhật Ánh không chỉ là “không gian” cho tuổi thơ mà dành
cho tất cả những ai đã từng trải qua tuổi thơ. Trong buổi tọa đàm mới đây nhất về nhà
văn Nguyễn Nhật Ánh, PGS.TS Văn Giá nhận định: “Nói Nguyễn Nhật Ánh là nhà
văn thiếu nhi e chừng cái danh xứng ấy trở nên chật chội với nhà văn này. Anh là
người viết nhiều, và viết hay. Anh viết cho thiếu nhi, và không chỉ thiếu nhi. Thực ra,
anh viết cho tất thảy người lớn – những người đã từng có một thuở thiếu nhi, và đang
còn giữ được con người trẻ thơ trong tâm hồn. Anh viết cho tất cả. Và anh thuộc về tất
cả”.[7]
Trong mỗi tác phẩm văn học không thể thiếu vắng nhân vật. Nhân vật là phương
diện quan trọng bậc nhất của tác phẩm văn học, là phương tiện cơ bản giúp người nghệ
sỹ miêu tả đời sống con người thông qua những hình tượng nghệ thuật. Do đó, nghiên
cứu văn chương từ góc độ này sẽ làm sáng tỏ nhiều điều về thể loại, trào lưu, quan
niệm văn học, phong cách sáng tạo… Như vậy, việc chiếm lĩnh các mặt giá trị của tác
phẩm sẽ khó có thể thực hiện, nếu không tìm hiểu phương diện nhân vật - một thành
quả nghệ thuật quan trọng trong sáng tác của mỗi nhà văn.
Với khối lượng sáng tác khổng lồ và hầu hết là truyện viết cho tuổi thơ và tuổi
mới lớn, nhân vật chủ yếu trong các sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh là nhân vật trẻ
em. Sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh thu hút được nhiều sự quan tâm của giới chuyên
môn. Hiện nay đã có khá nhiều công trình nghiên cứu lớn nhỏ, nhưng bản thân tôi xuất
phát từ lòng yêu mến trẻ thơ, khâm phục tài năng của tác giả, yêu thích những sáng tác
của nhà văn, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài “Thế giới nhân vật trong tác phẩm
Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh của Nguyễn Nhật Ánh” làm vấn đề cho lí luận của
mình. Khóa luận có mong muốn mang lại cái nhìn mới về thế giới nhân vật, đồng thời
muốn chiếm lĩnh giá trị nhân văn - thẩm mỹ của ngòi bút Nguyễn Nhật Ánh, cũng như
lí giải sức sống mãnh liệt của tác phẩm trong lòng bạn đọc.
2. Lịch sử vấn đề
Từ thập niên 90 của của thế kỉ XX, tên tuổi của Nguyễn Nhật Ánh và một loạt
tác phẩm của ông xuất hiện khá nhiều trên các báo, tạp chí, các trang thông tin điện tử,
trong các cuốn sách nghiên cứu về văn học thiếu nhi Việt Nam cũng như ở cả những
2
tài liệu không trực tiếp liên quan đến văn học.
Trước hết là ở các ấn phẩm mang tính chất chuyên ngành như các sách nghiên
cứu về văn học thiếu nhi, đáng chú ý nhất là công trình Bách khoa thư Văn học thiếu
nhi Việt Nam do hai tác giả Vân Thanh và Nguyên An biên soạn. Hai tác giả đã sưu
tầm và giới thiệu một loạt các bài viết về văn học thiếu nhi Việt Nam, trong đó có
nhiều bài của các tác giả khác nhau như Lã Thị Bắc Lý, Nguyễn Hương Giang, Thu
Việt, Văn Hồng, có đề cập đến Nguyễn Nhật Ánh và tác phẩm của ông. Trong bài viết
của Lã Thị Bắc Lý, mặc dù vẫn trích dẫn Nguyễn Nhật Ánh và các tác phẩm của ông
như một minh họa cho các luận điểm về văn học thiếu nhi trong thời kì đổi mới nhưng
tác giả đã có nhiều đoạn mang tính chất giới thiệu, phân tích khái quát giá trị của tác
phẩm Kính vạn hoa, bộ truyện dài đầu tiên của Nguyễn Nhật Ánh. Thêm vào đó, tác
giả Hương Giang đã dành một bài viết để nói về Nguyễn Nhật Ánh và một loạt các tác
phẩm của nhà văn như: Cô gái đến từ hôm qua, Chú bé rắc rối.
Lê Phương Liên trong bài viết Văn xuôi và trẻ em đã nhận xét: “Nhà văn Nguyễn
Nhật Ánh là một tác giả thành công với bạn đọc trẻ, anh là người có một “khóe
văn” riêng. Anh chiếm được tình cảm của hàng triệu người đọc cũng không ngoài quy
luật tự sự và đối thoại nội tâm của tuổi thơ, không ngoài sự tự phát hiện ra chất hài
hước của chính mình” [17]. Các sáng tác như Tôi là Bêtô, Cho tôi xin một vé đi tuổi
thơ và Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh chính là những tác phẩm được không chỉ trẻ em
mà cả người lớn yêu thích.
Nhà nghiên cứu Vân Thanh đã từng nhiều lần nhắc đến thành công của Nguyễn
Nhật Ánh trong sáng tác dành cho thiếu nhi. Trong bài viết “Nguyễn Nhật Ánh - nhà
văn lôi cuốn trẻ thơ”, tác giả đã đề cập đến đề tài, chủ đề, nhân vật, giọng điệu và giới
thiệu khái quát về tập truyện “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh”. Nguyễn Nhật Ánh đã
làm được một điều kì diệu, đó là đem đến cho bạn đọc trẻ thơ sự thú vị và niềm vui
háo hức mong chờ những tác phẩm tiếp theo của anh. “Và quả nhiên, Nguyễn Nhật
Ánh đã không làm bạn đọc thất vọng. Anh tiếp tục trình làng Cho tôi xin một vé đi tuổi
thơ. Vẫn với lối viết dí dỏm kiểu Kính vạn hoa, Tôi là Bê tô nhưng dấu ấn tâm trạng
tác giả đã in đậm nét hơn, tâm trạng của con người càng đi xa tuổi thơ càng da diết
nhớ về tuổi thơ. Đây là tập sách được giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam và giải
thưởng ASEAN, 2010. Cùng với “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” và Lá nằm trong
lá, Có hai con mèo ngồi bên cửa sổ… Nguyễn Nhật Ánh đã thể hiện sức viết bền bỉ của
3
mình” [18].
Nhà văn Lê Minh Khuê trên báo Tiền phong đã nhận xét: “Nguyễn Nhật Ánh
trong sáng từ cách nghĩ, cách cảm, từ ngôn ngữ đối thoại, từ cách miêu tả đến xây
dựng nhân vật. Tất cả đều đầy sức khơi gợi tới cái đẹp. Anh khơi dậy sự tự tin, tin vào
sức mạnh của trí tuệ, tin vào con đường của mỗi người trong đời. Tác phẩm của
Nguyễn Nhật Ánh in hàng chục ngàn bản mỗi cuốn, là sự chờ đợi háo hức như chờ đợi
người “hò hẹn” của các em. Mấy ai được hạnh phúc như anh” [15]. Nhà văn có một
khoảng trời riêng và thực sự làm chủ khoảng đất sáng tạo của mình. Đó chính là lý do
người đọc háo hức chờ đón tác phẩm mới của Nguyễn Nhật Ánh. “Mỗi cuốn truyện là
một tuổi thơ trọn vẹn, lần nào cũng như bắt đầu lại từ đầu, với những ký ức lung linh
hoa lá và những trải nghiệm khóc cười rất thật tưởng chừng không có bóng dáng của
“hư cấu văn học”. Cũng vì thế mà khó có thể xác định nhà văn viết cho về thế hệ nào,
thời đại nào. Có cảm tưởng, người đọc sau trăm năm nữa vẫn sẽ có được một Nguyễn
Nhật Ánh đồng hành với ký ức tuổi thơ của mình như thế này mà thôi” [1].
Tác giả Nguyễn Thụy Anh cảm thấy tuổi thơ của chính mình và bạn bè cũng như
thế hệ sau sẽ luôn đồng hành cùng ký ức trong mỗi cuốn truyện của Nguyễn Nhật Ánh.
Bên cạnh các ấn phẩm trên, các bài viết về Nguyễn Nhật Ánh và các tác phẩm của ông
còn xuất hiện trên các báo như báo Lao động, Thanh niên, các tạp chí và nhiều trang
thông tin điện tử như Evan.net, Phongdiep.net,... Bộ truyện Tôi thấy hoa vàng trên cỏ
xanh đã được dựng thành phim cho thiếu nhi, các tác phẩm khác cũng được dựng
thành phim như Cô gái đến từ hôm qua, Kính vạn hoa và một số truyện của Nguyễn
Nhật Ánh đang có dự án chuyển thể thành truyện tranh.
Luận văn Đặc điểm truyện Nguyễn Nhật Ánh của tác giả Bùi Thu Thủy đã chỉ ra
đặc điểm nổi bật về nội dung và hình thức trong bốn tập truyện gồm Kính vạn hoa,
Chuyện xứ Lang Biang, Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ và Tôi là Bêtô. Từ những khái
quát đó, chúng ta có thể đánh giá được đóng góp và vị trí của Nguyễn Nhật Ánh trong
nền văn học thiếu nhi Việt Nam.
Từ những đánh giá, nhận xét cùng với những công trình nghiên cứu công phu
của các tác giả vừa nêu đã cho thấy sự quan tâm của độc giả, giới nghiên cứu đến
“hiện tượng” Nguyễn Nhật Ánh là không hề nhỏ. Mặc dù vậy, đến nay vẫn chưa có
công trình nào tập trung nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện về “Thế giới nhân
vật trong Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh của Nguyến Nhật Ánh”. Bởi vậy, chúng tôi
mạnh dạn đưa ra một hướng tiếp cận mới về phương diện này. Tất cả những ý kiến
đánh giá, nhận xét, những công trình khoa học nêu trên là những tư liệu quý báu giúp
4
chúng tôi triển khai đề tài.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là thế giới nhân vật trong tác phẩm “Tôi
thấy hoa vàng trên cỏ xanh” của Nguyễn Nhật Ánh.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài khảo sát tác phẩm “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh”, Nhà xuất bản trẻ,
2015 và một số tác phẩm khác của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản
sau:
Phương pháp phân tích – tổng hợp: Phương pháp phân tích giúp người viết chỉ
ra những biểu hiện cụ thể của hệ thống nhân vật và các biện pháp nghệ thuật đặc sắc
trong tác phẩm “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh.
Phương pháp hệ thống: Tìm hiểu thế giới nhân vật trong tác phẩm “Tôi thấy
hoa vàng trên cỏ xanh” của Nguyễn Nhật Ánh phải đặt các phương diện của nhân vật
trong một hệ thống, chúng không tách rời, không độc lập mà nằm trong một chỉnh thể.
Phương pháp hệ thống giúp người viết hệ thống hóa các đặc điểm nghệ thuật tiêu biểu
của tác phẩm.
Phương pháp so sánh: Để làm nổi bật những đặc điểm về nhân vật trong tác
phẩm “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh”, đồng thời góp phần khẳng định những thành
công của nhà văn, về phương diện này người viết sử dụng phương pháp so sánh. Đối
tượng được so sánh là các tác phẩm khác của các nhà văn Nguyễn Nhật Ánh như Kính
vạn hoa, Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ... Bên cạnh đó còn có các tác phẩm khác của
nhà văn Nguyễn Ngọc Thuần,...
Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng phương pháp chuyên ngành Thi pháp học.
5. Đóng góp của đề tài
Về mặt lí luận: Với đề tài này, người nghiên cứu sẽ làm nổi bật nét đặc sắc về thế
giới nhân vật và nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tác phẩm “Tôi thấy hoa vàng trên
cỏ xanh” của Nguyễn Nhật Ánh.
Về mặt thực tiễn: Đề tài góp phần vào việc tiếp nhận, tìm hiểu, nghiên cứu thế
thế giới nhân vật, qua đó là tài liệu quý cho giáo viên, sinh viên, quý bậc phụ huynh
5
quan tâm và tham khảo.
6. Cấu trúc của đề tài
Ngoài mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của đề tài được
thể hiện trong 3 chương:
Chương 1: Hành trình sáng tạo của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh
Chương 2: Các kiểu nhân vật trong tác phẩm “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh”
Chương 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tác phẩm “Tôi thấy hoa vàng
6
trên cỏ xanh”
NỘI DUNG
Chương 1: HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO CỦA NHÀ VĂN
NGUYỄN NHẬT ÁNH
1.1. Tác giả Nguyễn Nhật Ánh
1.1.1. Vài nét về cuộc đời và quan điểm sáng tác cho thiếu nhi của Nguyễn Nhật Ánh
Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh sinh ngày 07/05/1955 tại xã Bình Quế, huyện
Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Nơi đây có vùng cát mênh mông trắng xóa, vùng đất
chịu nhiều thiệt thòi, gian khó bởi thời tiết khắc nghiệt, nhưng bù lại cũng được thiên
nhiên ban tặng nhiều cảnh đẹp hấp dẫn, phong cảnh kì thú, đặc sản tươi ngon:
Quảng Nam có lụa Phú Bông
Có khoai Trà Đõa, có sông Thu Bồn
Trăng rằm đã tỏ lại tròn
Khoai lang đất cát đã ngon lại bùi.
Và
Đất Quảng Nam chưa mưa đã thấm
Rượu hồng đào chưa uống đã say.
Có thể nói, mảnh đất Quảng Nam với các đặc trưng văn hóa riêng đã in sâu vào
tâm hồn nhà văn, để rồi đi vào các sáng tác của ông một cách tự nhiên và sâu lắng.
Một tuổi thơ với miền kí ức xa xăm nhưng không thể phai mờ dần trở lại trong các
sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh. Nếu như không có quê hương với xóm làng và tuổi
thơ nhiều trải nghiệm, chắc thật khó để Nguyễn Nhật Ánh có thể viết được những
trang sách hay đến thế về tuổi thơ nơi miền quê nghèo dân dã. Theo những chia sẻ của
ông, ông chỉ sống ở ngôi làng Đo Đo, Bình Quế khoảng 8 năm nhưng nó đã trở thành
một miền kí ức rực rỡ và tươi đẹp nhất: “Tôi xa quê hương, gia đình từ rất sớm – do
đó nỗi nhớ xứ sở trong tôi bao giờ cũng vẹn nguyên và rực rỡ. Như một người đánh
mất tuổi thơ sớm nên khi cầm bút viết về tuổi thơ mới lớn là biết bao kỉ niệm ùa về,
xúc cảm cứ tràn vào trang viết”. Một lần khác Nguyễn Nhật Ánh viết: “Tôi là nhà
văn. Nên tôi thỏa nỗi nhớ quê của mình theo cách của người hành nghề con chữ.
Những kỉ niệm những vùng đất những gương mặt bạn bè ấu thơ thi nhau hiện lên
7
trong hết cuốn sách này đến cuốn sách khác. Đến bây giờ tôi vẫn băn khoăn tự hỏi:
có phải đó là nguyên nhân sâu xa khiến tôi trở thành nhà văn chuyên viết cho tuổi thơ
– một thế giới lung linh mà một kẻ tha hương không nguôi nhớ đến và tìm mọi cách
tái tạo trong những trang viết của mình” [25, tr 10].
Dường như quê hương và tuổi thơ chính là chất xúc tác đầu tiên, là cơ duyên đưa
Nguyễn Nhật Ánh trở thành một nhà văn chuyên viết cho thiếu nhi. Khi viết, nhà văn
như đang trở về với chính mình, chìm trong những cảm xúc của bản thân. Ở đâu đó,
những câu chuyện của tuổi học trò như chính một phần kí ức của nhà văn, là phần hòa
quyện của trí tưởng tượng sáng tạo và những chi tiết có thực của đời sống, là sự “nhập
nhằng” của quá khứ và hiện tại. Trên trang facebook cá nhân của mình, ông đã có
nhiều bài viết chia sẻ về cảm xúc khi quay lại miền quê xưa, gặp lại những con người
xưa. Trong những chia sẻ đó, ta bắt gặp hình ảnh của một cậu bé tinh nghịch, hồn
nhiên, giàu cảm xúc và tinh ý. Một trong những phẩm chất của cậu bé tinh nghịch
ngày nào đó là sự say mê với những trang sách: “Thuở bé tôi rất mê đọc sách. Tôi bị
quyến rũ bởi các tác phẩm của Thạch Lam, Khái Hưng, Tô Hoài, Thế Lữ, đắm chìm
trong những trang sách của Edmonnd de Amicis, Victo Huygo, Hector Ma lot, và tôi
mơ ước sau này mình sẽ trở thành một nhà văn” [25, tr. 14]. Dường như những phẩm
chất ấy cũng góp phần làm nên một nhà văn sau này. Được trải nghiệm với những vốn
sống và cảm xúc phong phú chính là đôi cánh cho tâm hồn mỗi con người được thăng
hoa và sáng tạo.
Thuở nhỏ, Nguyễn Nhật Ánh theo học trường Tiểu La, sau đó tiếp tục học tại
trường Trần Cao Vân và Phan Chu Trinh tại Quảng Nam – Đà Nẵng. Ở đây ông theo
học khoa Văn, trường Đại học Sư phạm Sài Gòn. Sau khi đất nước thống nhất ông tiếp
tục cuộc sống tự lập, kiếm sống bằng nhiều nghề ở Thành phố Hồ Chí Minh. Đó có lẽ
cũng là một trải nghiệm đáng quý đối với nhà văn. Những biến động của lịch sử đất
nước, những năm tháng bươn chải mưu sinh đã giúp nhà văn có thêm sự trưởng thành
và vững vàng. Năm 1976, sau khi tốt nghiệp Đại học, Nguyễn Nhật Ánh tình nguyện
tham gia phong trào thanh niên xung phong do không thể xin việc vì lí do gia đình.
Đây là một biến cố có thể để lại những bất mãn, những tổn thương nhưng với ông nó
lại trở thành một cơ hội để bản lĩnh của ông được tôi rèn. Nhà văn chia sẻ: “Môi
trường thanh niên xung phong đã rèn luyện cho tôi thành một con người biết vượt khó,
có nghị lực, luôn yêu đời. Nó giúp cho con người sáng tác của tôi có một niềm tin và
8
cái nhìn trong trẻo với cuộc sống. Nếu không có thời gian đi Thanh niên xung phong
thì không hẳn tôi đã có những trang viết tươi tắn như bây giờ” [25, tr. 18]. Có lẽ với
Nguyễn Nhật Ánh, những thử thách chính là cơ hội để nhà văn vươn lên. Ông luôn tìm
thấy niềm tin và hướng đi đúng đắn cho bản thân, luôn hướng tới những điều tốt đẹp,
luôn tự đấu tranh để thanh lọc tâm hồn mình.
Những năm 80, Nguyễn Nhật Ánh về làm công việc dạy học. Quãng thời gian
đứng trên bục giảng của ông không nhiều nhưng là khoảng thời gian nhà văn được
tiếp xúc với các em thiếu nhi, được gắn bó với tuổi học trò. Nếu chỉ có kỉ niệm tuổi
thơ của bản thân thôi có lẽ chưa đủ để ông hiểu biết sâu sắc, am hiểu tường tận tâm lý
lứa tuổi, để rồi viết lên những trang văn về học trò một cách trong trẻo và chân thực
đến thế. Chính những năm tháng dạy học rồi chuyển qua làm công tác Đoàn, ông đã
quan sát, lắng nghe và thấu hiểu hơn lứa tuổi tươi đẹp nhất mà cũng ẩm ương nhất
đấy. Những trang viết của nhà văn trong thời gian này vừa có tính giáo dục cao lại vừa
nhẹ nhàng, hồn nhiên, mang tính hướng thiện.
Từ năm 1986 đến nay, Nguyễn Nhật Ánh làm phóng viên nhật báo Sài Gòn Giải
Phóng ngoài ra ông còn là một bình luận viên thể thao xuất sắc. Trong cương vị một
nhà báo, ông nhanh chóng khẳng định được khả năng của mình. Bên cạnh đó ông vẫn
tiếp tục viết văn thậm chí viết nhiều và số lượng ấn bản đạt tới kỉ lục. Công việc của
một nhà báo tuy bận rộn và có cường độ lao động cao nhưng lại giúp cho ông có thể đi
nhiều nơi, gặp gỡ nhiều con người với nhiều góc nhìn trải nghiệm mới. Vì vậy nó đã
hỗ trợ cho việc viết văn của ông tốt hơn, đưa nhà văn tới gần đời sống hằng ngày hơn.
Nguyễn Nhật Ánh luôn khẳng định mình có cái tạng phù hợp với văn học thiếu
nhi. Dường như trong ông luôn có sẵn “đứa trẻ con” nào đó, bất kể tuổi tác thật sự của
ông. Ông là một người vui tươi, dí dỏm, thích đùa, luôn có nét tinh nghịch, dễ thương.
Ngoài cái “tạng” trời cho để phù hợp với tuổi học trò thì cũng phải kể đến chính tính
cách và sự nuôi dưỡng tâm hồn của tác giả đã giúp ông luôn giữ được giọng văn hồn
nhiên, trong trẻo, gần gũi với tuổi học trò.
Nguyễn Nhật Ánh đã làm nhiều công việc, ở những vị trí khác nhau. Chính
những công việc ấy cũng đã giúp ông hình thành nên vốn sống, tạo ra chất liệu để
sáng tạo. Song một phần khác là ở thái độ lao động nghiêm túc và trách nhiệm của
ông. Khi dạy học, làm công tác đoàn hay có thể ngay từ những ngày còn học sư phạm,
nhà văn đã được tiếp xúc với các bạn trẻ, có kĩ năng nghiệp vụ sư phạm để gần gũi
9
tuổi “thần tiên”. Không những vậy, chính ông đã đăng kí học một lớp tiếng Anh buổi
tối để có thêm dịp tiếp xúc với các bạn ở lứa tuổi học trò. Ông dành khá nhiều thời
gian để quan sát, tâm tình trò chuyện với các bạn trẻ quanh ông, với chính con gái và
các bạn của con. Ông còn sưu tầm toàn bộ sách giáo khoa từ lớp 1 tới lớp 12 để đọc,
để hiểu, để chia sẻ nhiều hơn với các bạn. Có lẽ chính thái độ chủ động, nghiêm túc và
chuyên nghiệp đó của nhà văn đã khiến cho các tác phẩm của ông dù viết chung về
một đề tài cũng không bao giờ cũ, vẫn luôn được đông đảo bạn đọc chú ý và đón
nhận. Ông viết về tuổi học trò bằng tâm tình của một người trong cuộc chứ không phải
bằng cảm nhận của một người lớn đứng bên ngoài thế giới đó rồi quan sát mà viết.
Như vậy, thành công của ông là thành công của một nghệ sĩ chân chính, lao động nghệ
thuật nghiêm túc, luôn tâm huyết và trách nhiệm với nghề chứ không chỉ là cơ duyên
của nhà văn với mảng văn học thiếu nhi.
Quan điểm sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh: “Trong con người tôi luôn có một
đứa trẻ con. Khi tôi lớn lên, khi tôi già đi, đứa trẻ con trong tôi không chịu lớn và làm
sao để nuôi dưỡng đứa trẻ con đó trong con người là một điều không dễ lý giải và tôi
nghĩ đó là quà tặng của số phận. Đứa trẻ con đó đã nuôi tôi và biết đâu một ngày nào
đó đứa trẻ con đó… già đi thì không biết tôi làm sao sống được”… Đó là chia sẻ của
nhà văn khi trả lời phỏng vấn trên báo Tuổi trẻ ra ngày 24/11/2013 với nhan đề
“Nguyễn Nhật Ánh: Trong tôi luôn có một đứa trẻ”. Lời chia sẻ cho thấy sự chân
thành và tâm huyết. Nguyễn Nhật Ánh thừa nhận mình may mắn có được cơ duyên
với lứa tuổi học trò, với văn học thiếu nhi. Và với Nguyễn Nhật Ánh, ông luôn biết ơn
vì điều đó. Đó chính là thái độ trân trọng với nghề, là tấm lòng của một nghệ sĩ thực
thụ dành cho nghề của mình. Ông không che giấu tình yêu dành cho nghề viết văn,
niềm hạnh phúc được viết của mình: “Nếu bây giờ tôi kiếm được rất nhiều tiền mà
không bằng nghề mình yêu thích, có lẽ tôi không cảm thấy hạnh phúc thực sự” [25, tr.
14]. Cũng bởi với Nguyễn Nhật Ánh, nghề là đam mê chứ không chỉ là phương tiện
mưu sinh, thế nên sống bằng nghề là một hạnh phúc, được sống bằng nghề đó là một
niềm vui mà không dễ gì đánh đổi được. Sự đam mê và tình yêu dành cho nghề đã
biến nhà văn thành người “không có Chủ nhật”, “người mê công việc” như bạn bè ông
thường gọi. Nguyễn Nhật Ánh suy nghĩ về nghề rất nghiêm túc. Ông luôn khẳng định
yêu nghề là tiêu chí đầu tiên của một người làm nghề, nhưng đặc biệt hơn với văn
chương người ta không nên mưu cầu danh lợi mà trước hết phải viết như một sự thôi
thúc từ bên trong nội tâm mình. Có thế tác phẩm mới có giá trị: “tiền bạc đối với một
nhà văn nếu có chỉ là cái đến sau. Nếu để kiếm tiền, không ai chọn nghề viết văn. Khi 10
ngồi vào bàn viết, nhà văn chỉ tìm kiếm một thứ duy nhất: những ý tưởng. Tôi rất
thích một câu không biết của ai: lợi và danh đi trước sáng tác là một tai họa, đi song
hành với sáng tác là một cản trở còn đến sau sáng tác là hợp quy luật” [25, tr. 17].
Nghĩa là nhà văn hãy cứ cống hiến đi, cứ như con tằm rút ruột nhả tơ đi, anh sẽ được
trả công xứng đáng. Còn nếu cầm bút đã vì những toan tính thì thường lại ít khi đạt
được thành công. Chính quan điểm nghiêm túc và đúng đắn này đã giúp ông ghi được
tên tuổi của mình trong lòng bạn đọc, gặt hái được những thành công nhất định.
Nguyễn Nhật Ánh khi cầm bút rất chú trọng tới độc giả. Ông cho rằng đó là đối
tượng quan trọng nhất trong quá trình sáng tác của mình. Ông luôn tâm niệm văn học
thiếu nhi là không chỉ viết về thiếu nhi mà phải là thực sự viết cho thiếu nhi, phải làm
sao để “trẻ em khen hay, phụ huynh khen tốt” nghĩa là có cả tính giáo dục và cả tính
thẩm mĩ phù hợp với tâm lý lứa tuổi của trẻ em. Ông hiểu được trọng trách trên mỗi
trang văn của mình sao cho phải trở thành một “trụ đỡ tinh thần” cho các em mà vẫn
phải tránh được mọi sự “gượng gạo và áp đặt”. Ông hiểu rằng nghề viết văn cũng
giống như nhiều nghề khác trong xã hội nhưng nó khác ở chỗ nó còn mang một “sứ
mệnh” đó là: “là một nhà văn chuyên tâm viết cho thiếu nhi, tôi nghĩ công việc của tôi
là giúp cho các bạn đọc trẻ giàu có cảm xúc hơn, qua đó sống tốt hơn” [25, tr. 9].
Nguyễn Nhật Ánh ý thức được những khó khăn của văn học thiếu nhi trong một thời
đại mới. Nhưng càng khó khăn, nhà văn càng cần phải nỗ lực: “Trong tình hình các
em chơi nhiều hơn đọc, đọc truyện tranh nhiều hơn truyện chữ, đọc truyện dịch nhiều
hơn truyện trong nước, tôi nghĩ nhà văn viết cho thiếu nhi phải cố viết làm sao để thu
hút các em đến với sách, đến với truyện chữ, đến với văn học Việt Nam. Tôi tin rằng
đó là một cuộc chiến đấu mang ý nghĩa xã hội, một cuộc chiến không cân sức nhằm
thử thách tinh thần trách nhiệm của nhà văn” [25, tr. 9]. Thực hiện chức năng giáo
dục của văn chương nhưng không được đánh mất đi tính thẩm mĩ. Từ chỗ xác định
được đối tượng của mình, Nguyễn Nhật Ánh xác định phương thức tiếp cận và lựa
chọn kĩ thuật viết sao cho phù hợp. Viết cho thiếu nhi, viết về thiếu nhi nhà văn phải
cố giữ cho được cái trong trẻo và giản dị của mình, vì thế: “những thủ pháp nghệ
thuật được vận dụng trong các tác phẩm viết cho người lớn không phải bao giờ cũng
tìm thấy chỗ đứng thích hợp trong các tác phẩm viết cho trẻ em” [25, tr. 21]. Nguyễn
Nhật Ánh đã tìm ra chiếc chìa khóa để bước vào thế giới trẻ thơ đó chính là “sự nhạy
11
cảm đặc biệt của chính mình”.
Bí quyết thành công của Nguyễn Nhật Ánh có lẽ chính là dồn toàn bộ tâm trí cho
mỗi trang sách. Mỗi khi viết, nhà văn như bỏ lại phía sau lưng mình những bụi bặm
của cuộc sống để có thể giữ được sự trong trẻo thong dong: “Tôi có thể viết trong
không khí ồn ào, náo nhiệt lẫn yên tĩnh. Thậm chí tôi có thể gác việc viết lách sang
một bên để trả nợ một bài báo hoặc giải quyết một công việc gấp rút nào đó. Tuy vậy
khi ngồi vào bàn sáng tác tôi hoàn toàn sống trong thế giới của riêng mình” [25, tr. 9].
Như vậy, có thể thấy Nguyễn Nhật Ánh có một quan niệm sáng tác đúng đắn. Và
suốt hành trình sáng tác của mình, ông đã nỗ lực giữ vững quan điểm sáng tác ấy. Có
lẽ chính sự nghiêm túc, bền bỉ đó đã đưa nhà văn đến được thành công của ngày hôm
nay.
1.1.2. Hành trình sáng tác văn chương của Nguyễn Nhật Ánh
Nguyễn Nhật Ánh bắt đầu sáng tác từ khá sớm, khoảng những năm nhà văn 13
tuổi ông đã có những tác phẩm đầu tay. Được biết đến với các bút danh như Anh Bồ
Câu với chuyên mục gỡ rối tơ lòng cho tuổi mới lớn, Chu Đình Ngạn khi bình luận thể
thao, Đông Phương Sóc, Sóc Phương Đông,… nhưng có lẽ cái tên Nguyễn Nhật Ánh
là cái tên để lại dấu ấn trong lòng độc giả hơn cả. Tính tới thời điểm này, trong mảng
văn học thiếu nhi hiện đại khó có tác giả nào có thể vượt qua được Nguyễn Nhật Ánh
về số lượng đầu sách, số lượng bản in các tác phẩm văn học thiếu nhi cũng như các
giải thưởng.
Trước khi viết văn, Nguyễn Nhật Ánh được biết đến như một nhà thơ, trong đó
có bài thơ nổi tiếng của ông đã được phổ nhạc là bài Thành phố tình yêu và nỗi nhớ.
Tính đến nay ông đã có 5 tập thơ được xuất bản là: Thành phố tháng 4 (in cùng Lê Thị
Kim), Đầu xuân ra sông giặt áo, Thơ tình Nguyễn Nhật Ánh, Tứ tuyệt cho nàng và Lễ
hội của đêm đen. Ngoài thơ, ông đã từng thử sức viết ở các thể loại khác nhau. Ông
từng viết theo đơn đặt hàng của Nxb Kim Đồng về đề tài thanh niên xung phong.
Nhưng cuối cùng tác phẩm của ông không được in vì không thực sự có chất lượng.
Chỉ khi đến với mảng văn học thiếu nhi với tác phẩm đầu tiên được xuất bản là
Trước vòng chung kết (xuất bản năm 1985), Nguyễn Nhật Ánh mới khẳng định được
sở trường của mình. Từ đây ông được biết đến như một nhà văn thiếu nhi với gia tài
sáng tác đáng nể:
- Trước vòng chung kết (truyện dài 1985)
12
- Cú phạt đền (truyện dài, 1985)
- Chuyện cổ tích dành cho người lớn (Tập truyện, 1987)
- Bàn có năm chỗ ngồi (truyện dài, 1987)
- Còn chút gì để nhớ (truyện dài, 1988)
- Bí mật của một võ sĩ (tập truyện, 1989)
- Cô gái đến từ hôm qua (truyện dài, 1989)
- Nữ sinh (truyện dài, 1989)
- Chú bé rắc rối (truyện dài, 1989)
- Thiên thần nhỏ của tôi (truyện dài, 1990)
- Phòng trọ ba người (truyện dài, 1990)
- Mắt biếc (truyện dài, 1990)
- Thằng quỷ nhỏ (truyện dài, 1990)
- Hoa hồng xứ khác (truyện dài, 1991)
- Hạ đỏ (truyện dài, 1991)
- Bong bóng lên trời (truyện dài, 1991)
- Bồ câu không đưa thư (truyện dài, 1993)
- Những chàng trai xấu xí (truyện dài, 1993)
- Trại hoa vàng (truyện dài, 1994)
- Út Quyên và tôi (truyện dài, 1995)
- Đi qua hoa cúc (truyện dài, 1995)
- Buổi chiều Windows (truyện dài, 1995)
- Quán gò đi lên (truyện dài, 1999)
- Những cô em gái (truyện dài, 2000)
- Ngôi trường mọi khi (truyện dài, 2001)
- Tôi là Bêtô (truyện, 2007)
- Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ (truyện, 2008)
- Đảo mộng mơ (truyện dài, 2009)
- Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (truyện dài, 2010)
- Lá nằm trong lá (truyện dài, 2011)
- Có hai con mèo nằm trên cửa sổ (truyện dài, 2012)
- Sương khói quê nhà (tạp văn, 2012)
- Ngồi khóc trên cây (truyện dài, 2013)
13
- Chúc một ngày tốt lành (truyện dài, 2014)
- Bảy bước tới mùa hè (truyện dài, 2015)
- Con chó nhỏ mang giỏ hoa hồng (truyện dài, 2016)
- Ngày xưa có một chuyện tình (truyện dài, 2016)
Ngoài ra còn có 2 tập truyện dài kỳ là tập Kính vạn hoa (54 tập, trong đó có 45
tập được in trong khoảng từ năm 1995 – 2002) và tập Chuyện xứ Lang Biang (4 tập in
trong khoảng 2004 – 2006), cuốn tạp văn Người Quảng đi ăn mì Quảng (2012),
Thương nhớ Trà Long (2014), bộ truyện tranh cho thiếu nhi Bim và những chuyện kì
thú (1998). Có thể nói với 5 tập thơ, trên 30 tập truyện và truyện dài, 2 cuốn tạp văn
và 3 bộ truyện lớn, ông đã có một gia tài tác phẩm lớn thể hiện sức sáng tạo, khả năng
lao động và sự chăm chỉ, cần mẫn trên mỗi trang sách của mình.
Nguyễn Nhật Ánh còn sở hữu những giải thưởng như: Văn học trẻ hạng A năm
1990 với tác phẩm Chú bé rắc rối do Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí
Minh trao tặng, giải nhà văn yêu thích trong 20 năm từ 1975 – 1995 qua cuộc bình
chọn của bạn đọc do Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh và báo Tuổi trẻ phối hợp tổ
chức; Hội nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh chọn là một trong 20 nhà văn tiêu biểu
giai đoạn 1975 – 1995; năm 1998 Nguyễn Nhật Ánh được trao giải thưởng tác giả có
sách bán chạy nhất do NXB Kim Đồng trao tặng, giải thưởng Vì thế hệ trẻ cho bộ
truyện Kính vạn hoa vào năm 2003 do Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí
Minh trao tặng; Kính vạn hoa còn được bầu chọn là 10 cuốn sách được yêu thích nhất
do Ban văn học Thiếu nhi Hội nhà văn Việt Nam, Đài tiếng nói Việt Nam, nxb Kim
Đồng, Nxb Trẻ và Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em phối hợp tổ chức; Cho tôi xin
một vé đi tuổi thơ được giải thưởng cuốn sách hay nhất của năm 2007 do báo Người
Lao động bình chọn và Hội Nhà văn trao giải thưởng sách hay; đến năm 2010 cuốn
sách này giành được giải thưởng Văn học ASEAN; … Những giải thưởng này ở
những quy mô khác nhau, có những giải thưởng là của giới nghiên cứu phê bình
nhưng cũng có những giải thưởng là bình chọn của bạn đọc, có giải thưởng trong nước
và có giải thưởng quốc tế. Điều đó một lần nữa minh chứng cho tài năng của Nguyễn
Nhật Ánh, cho khả năng sáng tạo và không ngừng tìm tòi của ông.
Các tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh còn được dịch ra tiếng nước ngoài như Mắt
biếc được dịch sang tiếng Nhật, Cô gái đến từ hôm qua được dịch ra tiếng Nga và trở
thành tài liệu học tiếng Việt cho người Nga, Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ được dịch
14
sáng tiếng Thái, tiếng Anh và tiếng Hàn để xuất bản tại Thái và Hàn. Điều đó cho thấy
sức hấp dẫn của các tác phẩm không chỉ với độc giả trong nước mà còn có thể “xuất
khẩu văn chương” đến với bạn đọc nước ngoài. Nguyễn Nhật Ánh đã cạnh tranh thành
công với các tác phẩm văn học dịch, thậm chí ông còn có cuộc “phản công” ngược trở
lại, mang sáng tác của mình đến với bạn bè thế giới.
Không những vậy, các sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh đang được nhiều đạo diễn
chú ý. Bộ phim truyền hình Kính vạn hoa đã thu hút được sự quan tâm của không chỉ
các khán giả nhí mà cả ở những người đã qua tuổi “nhí”. Bộ phim điện ảnh “Tôi thấy
hoa vàng trên cỏ xanh” được chuyển thể từ tác phẩm cùng tên của nhà văn Nguyễn
Nhật Ánh đã tạo nên một kỉ lục phòng vé vào thời điểm bộ phim ra đời, thu hút được
sự chú ý của dư luận.
Các sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh có thể chia làm 2 nhóm: một nhóm là các
sáng tác dành cho tuổi học trò mà ở đây là lứa tuổi cấp 3 với các tác phẩm như Ngôi
trường mọi khi, Cô gái đến từ hôm qua, Bong bóng lên trời, Bồ câu không đưa
thư,…Các tác phẩm này thường thể hiện tâm lý lứa tuổi khá chân thực. Đó là
những rung động đầu đời, những phức tạp của tuổi mới lớn. Nhà văn đã khéo léo thể
hiện những cảm xúc mong manh và trong trẻo, những nỗi buồn, niềm tiếc nuối man
mác,… Nhóm thứ 2 là các sáng tác dành cho lứa tuổi từ cấp 2 trở xuống. Ở nhóm này,
ông chủ yếu miêu tả các mối quan hệ bạn bè, thầy cô, các câu chuyện trường lớp, quá
trình khám phá thế giới qua đôi mắt trong trẻo hồn nhiên của tuổi thơ. Trên những
trang sách của ông, dường như ai cũng gặp lại tuổi thơ của chính mình với những trò
nghịch ngợm, những toan tính, suy nghĩ còn non nớt,… Những cuốn sách của Nguyễn
Nhật Ánh giống như một cuốn Bách khoa toàn thư về thế giới trẻ em. Ngoài ra, ông
còn có một bộ truyện viết cho tuổi nhi đồng là bộ truyện Bim và những chuyện kì thú
với nhiều chi tiết ngộ nghĩnh gợi ra những bài học giáo dục ý nghĩa mà nhẹ nhàng.
Nguyễn Nhật Ánh khi in các tác phẩm của mình thường gọi tên nó là truyện dài,
truyện chứ không xếp nó là tiểu thuyết hay truyện ngắn. Thuật ngữ truyện dài chưa có
nhiều định nghĩa như truyện ngắn hay tiểu thuyết. Có thể hiểu truyện dài là những tự
sự có quy mô lớn hơn truyện ngắn nhưng chưa đồ sộ như tiểu thuyết. Chúng ta nhận
thấy các tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh khó có thể nói đó là những truyện ngắn vì
không chỉ ở dung lượng câu chữ mà còn ở cách phản ánh hiện thực. Truyện ngắn
thường phản ánh hiện thực trong một lát cắt chứ ko phải một quá trình. Nhưng ở
15
truyện của Nguyễn Nhật Ánh ta thấy rõ được cả một tiến trình câu chuyện. Do đó nó
chắc chắn không phải là những truyện ngắn. Với quy mô các tác phẩm của Nguyễn
Nhật Ánh có nhiều truyện có dung lượng tương đương với các tiểu thuyết đương đại.
Song tác giả lại không định danh tác phẩm của mình là tiểu thuyết có lẽ vì kết cấu tác
phẩm của Nguyễn Nhật Ánh thường đơn giản hơn. Câu chuyện có thể kéo dài theo
một diễn tiến nhưng thường được chia nhỏ thành các câu chuyện bé hơn. Bản thân
cách viết này phù hợp với văn học thiếu nhi.
Như vậy, có thể thấy hành trình sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh bắt đầu từ khá
sớm, đã từng đi qua nhiều thể loại với những thử nghiệm khác nhau. Song cuối cùng
tài năng của ông được khẳng định ở mảng truyện viết cho thiếu nhi mà chủ yếu là
truyện dài (có quy mô nhỏ hơn hoặc gần bằng tiểu thuyết). Các sáng tác của ông đã
được vinh danh ở nhiều giải thưởng khác nhau, cũng đã được dịch sang tiếng nước
ngoài, được chuyển thể thành phim. Ở đâu, trong lĩnh vực nào Nguyễn Nhật Ánh cũng
được đánh giá cao. Ông được xem là một nhà văn viết cho thiếu nhi tiêu biểu cho giai
đoạn văn học sau 1975. Nhà văn có một sức viết dồi dào, khả năng sáng tạo phong
phú và đặc biệt là tinh thần lao động nghiêm túc, bền bỉ.
1.2. Tác phẩm “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh”
Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh
Ngồi im trong gió nghe đêm rớt
Chợt thấy hoa vàng trên cỏ xanh.
Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh là tác phẩm nằm trong loạt các sáng tác mới nhất
của nhà văn viết theo lối văn hóm hỉnh, dí dỏm mà đựng đầy những kỉ niệm về tuổi
thơ. Tác phẩm lần đầu xuất bản tại Việt Nam vào ngày 9 tháng 12 năm 2010 bởi “Nhà
xuất bản trẻ”, cùng với những hình ảnh minh họa do Đỗ Hoàng Tường thực hiện.
Cuốn sách đã được nhận giải thưởng ASEAN và là một trong những tác phẩm hay
nhất về tuổi học trò. Hơn 300 trang sách ấy đã mang đến cho người đọc rất nhiều cảm
xúc, vui buồn xen lẫn với nhau. Ngoài ra “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” đã được
đạo diễn Victor Vũ cảm nhận và chuyển thành một bộ phim có ý nghĩa sâu sắc, được
mọi người đón nhận cũng không kém gì cuốn sách ấy.
Câu chuyện xoay quanh nhân vật Thiều - một học sinh lớp 7 sống ở vùng quê
nghèo cùng với người em trai tên Tường, là một cậu bé dễ thương, hiền lành, rất yêu
mến anh trai và rất thích chơi đùa cùng các loài động vật, thường say mê những câu
16
chuyện cổ tích, đặc biệt là Cóc Tía. Thiều là một người hướng ngoại, tinh quái, nhiều
lần khiến em mình chịu những tai họa nhưng lại rất thương em. Về gần cuối câu
chuyện Thiều thích một cô gái cùng lớp nhưng lại lớn hơn mình một tuổi tên là Mận.
Mận xinh xắn, ngây thơ nhưng lại học không được tốt do phải chăm sóc người cha
mắc bệnh phong bị mẹ giam trên gác nhà. Lại một nhân vật khác tên Đàn, chú Đàn là
em trai của ba Thiều, bị mất một cánh tay do tai nạn nhưng vẫn yêu đời và thường kể
chuyện cho hai anh em Thiều, Tường nghe. Nỗi muộn phiền duy nhất của chú là ở
chuyện tình trắc trở do cánh tay cụt gây ra. Chú đang yêu chị Vinh – một cô gái cùng
xóm, lại là con gái thầy chủ nhiệm lớp Thiều, người thầy mà lúc nào Thiều cũng sợ
chết khiếp. Nhiều chuyện liên tiếp xảy ra. Khi căn gác nhà Mận bị bốc cháy, Mận suy
sụp hoàn toàn bởi chịu cú sốc lớn từ gia đình. Thiều đã giúp đỡ Mận trong lúc khó
khăn nhất và đưa cô bé về ở chung với mình. Về sau, chú Đàn và chị Vinh cùng dắt
nhau bỏ trốn vì không nhận được sự chấp thuận của hai gia đình cùng với những tai
họa khác nhau mà Thiều đã gây ra cho Tường. Mận sau đó được mẹ đón đi tìm cha và
Thiều lại tận tình chăm sóc cho Tường sau những rủi ro mà chính Thiều gây ra cho
em. Một hôm, Thiều mừng rỡ khi hay tin em mình tỉnh dậy, và được nghe em kể
chuyện về nàng công chúa. Nàng công chúa ấy là Nhi – con một người mổ lợn trong
làng. Người làng lầm tưởng Nhi đã chết sau vụ tai nạn ba năm trước nhưng đã có vấn
đề về thần kinh. Sự nôn nóng muốn gặp Nhi càng làm cho Tường quyết tâm tập đi lại.
Một ngày nọ hai anh em nhìn thấy Nhi đang bị đám trẻ trong làng bắt nạt, Tường đã
dùng hết sức bằng chính đôi chân mình để bảo vệ Nhi. Kì diệu thay, nghĩa cử này lại
giúp cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường. Ngoài ra câu chuyện còn xuất
hiện các nhân vật khác như ba mẹ của Thiều, thầy chủ nhiệm, thằng Sơn, bạn Xin,...
Họ đều giúp ta mở ra chân trời mới và biết yêu thương nhau, biết trân trọng tuổi thơ
của mình nhiều hơn.
Có thể nói, 81 chương trong “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” là 81 toa tàu nhỏ
chất chứa những câu chuyện nhỏ nhặt, chậm rãi và tinh khôi của những đứa trẻ giữa
khung cảnh thôn quê thân thuộc, thanh bình. Ở toa tàu này ta gặp những câu chuyện
hài hước, vui nhộn của cậu nhóc Tưởng đi làm chim xanh cho chú Đàn, hay chuyện lá
thư tình đầu đời của Thiều. Ở những toa khác ta lại gặp những câu chuyện ngậm ngùi
thương xót vì cha của bé Mận bị bạo bệnh đã bỏ nhà ra đi vì không muốn liên lụy tới
vợ con. Hay chuyện ông Tám Tàng giả điên làm vua vì đứa con gái tâm thần luôn nghĩ
mình là công chúa. Ai đã đọc rồi dù muốn quên đi cũng rất khó, đó là sự đan xen giữa
17
cảm xúc của các nhân vật, để rồi kết thúc là nụ cười nhẹ nhàng và mắt ướt.
Tuy tác phẩm này không có nhiều tình tiết gay cấn thế nhưng điều đặc biệt mà tác
phẩm này đem lại là trên cốt truyện hết sức đơn giản, nhà văn đã xây dựng được
những nhân vật hết sức gần gũi, khiến cho bạn đọc rất dễ đồng cảm, có khi còn ngẩn
ngơ không biết mình đã hòa vào câu chuyện cùng nhân vật lúc nào không hay. Có lẽ
bởi khi ta mở cuốn sách ra ta đã thấy hiện ra ngay trước mắt một thế giới trẻ thơ hồn
nhiên, ngây ngô với những suy nghĩ nhẹ nhàng, giản dị nhưng cũng thật sâu sắc.Với
giọng điệu dí dỏm cùng những áng văn đáng yêu quen thuộc, dân dã và đôi lúc cao
trào, cả tác phẩm đã đem đến cho độc giả một sự ngạc nhiên lớn khi đi suốt từ bất ngờ
này đến bất ngờ khác, hơn thế là luôn gợi ra những kí ức trẻ thơ trong trẻo. Đến với
“Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh”, ta thấy ở đó một chất văn nhẹ nhàng, những ngôn
từ mộc mạc mà quá đỗi gần gũi, nhà văn đã một lần cho ta được trở về tuổi thơ , nơi
tiếng cười được mãi vang lên cùng với bao ước mơ cháy bỏng, bao yêu thương hạnh
phúc mà không có một chút lo toan, muộn phiền.
***
Nguyễn Nhật Ánh được bạn đọc yêu mến không chỉ bởi nhà văn đã nói rất đúng,
rất tài về thiếu nhi, làm cho các em cảm thấy gần gũi, thân thiết, mà còn bởi nhà văn
đến với thiếu nhi bằng tình yêu thương, trân trọng thật lòng. Ông không chỉ là nhà
văn, ông còn là người bạn, nhà tâm lí, nhà giáo dục. Quan niệm sáng tác của Nguyễn
Nhật Ánh không chỉ thể hiện tâm huyết của nhà văn dành cho tuổi thơ mà còn thể
hiện nhận thức đúng đắn về vai trò của “nghề văn” trong việc chuẩn bị cho các em
những hành trang cần thiết để tự tin bước vào đời. Không chỉ chú trọng đến cuộc
sống thực tế, Nguyễn Nhật Ánh còn bồi dưỡng tâm hồn cho các em, nuôi dưỡng bản
chất hồn nhiên, khiến cho các em giữ được ước mơ, biết quan tâm đến ông bà, cha
mẹ, anh chị, quan tâm đến bạn bè,...
Mỗi câu chuyện trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh đều là một lời
tâm tình nhẹ nhàng, mộc mạc và “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” cũng không ngoại
lệ. Đọc tác phẩm, ta như tìm lại một khoảng trời để nhớ, để mong trong một cuộc sống
hiện đại này. Quả thật nhà văn Nguyễn Nhật Ánh không làm ta thất vọng bởi cách dẫn
dắt khiến ta được trở lại cái bối cảnh yên bình của làng quê với tiếng sáo diều vi vu,
với những trò chơi dân gian quen thuộc, để rồi qua những nhân vật trong tác phẩm, ta
cảm nhận được tình cảm, sự yêu thương giữa anh em, bạn bè, làng xóm hay là tình yêu
nỗi nhớ, là cái ác, cái phản diện trong đời sống thường ngày…Và rồi từ đó ta chợt
18
nhận ra tuổi thơ của mình qua những trang giấy thơm tho ngập tràn cảm xúc.
Chương 2
CÁC KIỂU NHÂN VẬT TRONG TÁC PHẨM
“TÔI THẤY HOA VÀNG TRÊN CỎ XANH”
2.1. Khái niệm nhân vật và thế giới nhân vật
2.1.1. Khái niệm nhân vật
Trong tác phẩm văn học, xây dựng nhân vật là vấn đề rất quan trọng mà nhà văn
quan tâm. Bởi bản chất của văn học là một quan hệ với đời sống, văn học tái hiện đời
sống qua những chủ thể nhất định, đóng vai trò như những tấm gương của đời sống.
Nhân vật trong tác phẩm không chỉ thể hiện chủ đề, tư tưởng của tác phẩm mà còn thể
hiện quan điểm nghệ thuật về con người của một nhà văn ở những thời điểm lịch sử
nhất định. Nhà văn Tô Hoài, trong Sổ tay viết văn (1977), khi nói về nhân vật, ông cho
rằng: “Nhân vật là nơi duy nhất tập trung hết thảy trong một sáng tác, giải quyết hết
thảy trong một sáng tác”. Quả đúng như vậy, nhân vật không chỉ là nơi bộc lộ tư tưởng,
chủ đề tác phẩm mà còn là nơi tập trung các giá trị của tác phẩm. Thành bại của một đời
văn, của một tác phẩm phụ thuộc rất nhiều vào việc xây dựng nhân vật. Khi nhắc đến
tên của tác giả hoặc tác phẩm của nhà văn, người đọc thường nhớ đến tên nhân vật của
họ. Chẳng hạn khi nhắc đến Nam Cao, người đọc nghĩ ngay đến các nhân vật văn học:
Chí Phèo, Lão Hạc, Thứ. Nhắc đến Vũ Trọng Phụng người ta nghĩ ngay đến Xuân Tóc
Đỏ, Nghị Hách.
Trong giáo trình Lí luận văn học do Phương Lựu chủ biên đã nêu lên định nghĩa
khá kĩ về khái niệm nhân vật văn học: “Nói đến nhân vật văn học là nói đến con người
được miêu tả, thể hiện trong tác phẩm bằng phương tiện văn học. Đó là những nhân vật
có tên như Tấm, Cám, Thạch Sanh,… đó là những nhân vật không tên như thằng bán tơ,
một mụ nào trong Truyện Kiều của Nguyễn Du,… đó là những con vật trong truyện cổ
tích, đồng thoại, thần thoại, bao gồm cả quái vật lẫn thần linh, ma quỷ, những con vật
mang nội dung, ý nghĩa con người… Khái niệm nhân vật có khi chỉ sử dụng một cách
ẩn dụ, không chỉ một con người cụ thể nào mà chỉ một hiện tượng nổi bật trong tác
phẩm. Nhân vật văn học là một hiện tượng nghệ thuật ước lệ, có những dấu hiệu để ta
19
nhận biết” [19, tr.277].
Trong giáo trình Lí luận văn học do giáo sư Hà Minh Đức chủ biên, các tác giả lại
cho rằng: “Nhân vật văn học là một hiện tượng nghệ thuật mang tính ước lệ, đó không
phải là sự sao chụp đầy đủ một chi tiết biểu hiện đầy đủ của con người mà chỉ là sự thể
hiện con người qua những đặc điểm điển hình về tiểu sử, nghề nghiệp, tính cách… và
cần chú ý thêm một điều: Thực ra khái niệm nhân vật thường được quan niệm với một
phạm vi rộng lớn hơn nhiều, đó không chỉ là những con người, những con người có tên
và không tên, được khắc họa sâu đậm hoặc chỉ xuất hiện thoáng qua trong tác phẩm,
mà còn có thể là sự vật, loài vật khác ít nhiều mang bóng dáng, tính cách con người…
cũng có khi đó không phải là những con người, sự vật cụ thể, mà chỉ là một hiện tượng
về con người hoặc liên quan đến con người, được thể hiện nổi bật trong tác phẩm” [12,
tr.126].
Khái niệm nhân vật văn học còn được trình bày sáng rõ trong cuốn Từ điển thuật
ngữ văn học (nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên) với
nội dung cơ bản giống với cách định nghĩa trong cuốn Lí luận văn học do Phương Lựu
chủ biên: “Nhân vật văn học là con người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm văn học.
Nhân vật văn học có thể có tên riêng (Tấm, Cám, Chị Dậu, Anh Pha) cũng có thể không
có tên riêng. Khái niệm nhân vật văn học có khi được sử dụng như một ẩn dụ, không chỉ
một con người cụ thể nào cả, mà chỉ một hiện tượng nổi bật trong tác phẩm… Nhân vật
văn học là một đơn vị đầy tính ước lệ, không thể đồng nhất nó với con người có thật
trong đời sống” [13, tr.235].
Nói tóm lại, các nhà nghiên cứu lí luận văn học bằng cách này hay cách khác khi
định nghĩa nhân vật văn học vẫn căn bản gặp nhau ở những nội hàm không thể thiếu của
khái niệm này: Thứ nhất, nó phải là đối tượng mà văn học miêu tả, thể hiện bằng
phương tiện văn học. Thứ hai, đó là những con người hoặc những con vật, đồ vật, sự
vật, hiện tượng mang tính ước lệ và có tính cách điệu so với đời sống hiện thực bởi nó
đã được khúc xạ qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ.
2.1.2. Thế giới nhân vật
Thế giới nhân vật là hệ thống các nhân vật được tổ chức tạo thành một chỉnh thể
nghệ thuật, trong đó mỗi nhân vật là một yếu tố của chỉnh thể. Mỗi thế giới nhân vật
được quy định bởi cách tổ chức, sắp xếp theo ý đồ nghệ thuật, sự sáng tạo của nhà văn
làm sao cho các nhân vật trong tác phẩm liên kết, tác động lẫn nhau, soi sáng nhau để
cùng phản ánh đời sống, thể hiện tư tưởng tác giả và điều nhà văn muốn nói cùng bạn
20
đọc.
Xét về phía độc giả, thế giới nhân vật là sự cảm nhận của người đọc về hình tượng
các nhân vật trong tác phẩm từ hình dáng đến nội tâm, việc làm, các loại quan hệ chằng
chịt của chúng. Từ đó, rút ra được những hiểu biết, ý nghĩa của tác phẩm về nhiều
phương diện theo tiêu chuẩn cái đẹp nghệ thuật trong sự vận động không ngừng của đời
sống ý thức nhân loại nói chung. Thế giới nhân vật trong thơ với chủ thể trữ tình đóng
vai trò chủ đạo và quanh nó là các kiểu nhân vật trữ tình. Thơ trữ tình chú trọng đến vẻ
đẹp của tâm trạng con người và cuộc sống khách quan. Cùng một đối tượng phản ánh,
nhà tiểu thuyết quan tâm đến chất liệu của hiện thực khách quan, đến tính sự kiện còn
nhà thơ thì quan tâm chủ yếu đến vẻ đẹp bên trong, cái đẹp truyền cảm của đối tượng.
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn và tiểu thuyết đông đúc hơn và nhân vật tồn tại trên
nền bối cảnh hiện thực xã hội.
Tác phẩm văn học nào cũng là một hệ thống chỉnh thể của những hệ thống nhỏ
hơn. Các nhân vật trong một tác phẩm cũng thực sự tạo thành một hệ thống hoàn chỉnh,
chúng liên quan với nhau, móc nối với nhau không chỉ bằng tiến trình các sự kiện miêu
tả, mà suy cho cùng còn bằng logic từ nội dung nghệ thuật của nhà văn. Hệ thống nhân
vật đem lại cho hệ thống nghệ thuật của tác phẩm một sự thống nhất, đồng thời quan hệ
giữa các nhân vật trong mỗi hệ thống ít hay nhiều đều phản ánh mối quan hệ xã hội hiện
thực của con người.
Như vậy, thế giới nhân vật trong tác phẩm là một tổ chức nghệ thuật thống nhất.
Các nhân vật có mối liên hệ chặt chẽ và sống động như cuộc sống thực ngoài đời,
nhưng cô đọng, súc tích và ấn tượng hơn. Chủ đề tư tưởng tác phẩm thường được biểu
hiện qua hệ thống nhân vật, nhất là qua hình tượng nhân vật chính.
2.1.3. Vai trò của nhân vật trong các tác phẩm văn học
Nhân vật văn học vừa mang chức năng xã hội, vừa phải làm tròn chức năng văn
học của nó. Với tư cách là một chất liệu có mối quan hệ nội tại và thống nhất sâu sắc
với cấu trúc của tác phẩm, nhân vật được thừa nhận là một thành phần quan trọng
không thể vắng mặt trong loại hình văn chương tự sự. Chức năng của nhân vật là khái
quát những quy luật của cuộc sống con người, thể hiện những hiểu biết, ao ước và kỳ
vọng về con người. Chính vì thế, thành công trong công cuộc xây dựng nhân vật chính
là sự thành công của tác phẩm văn học. Một tác phẩm văn học được đánh giá là có giá
trị, có chiều sâu, có sức sống lâu bền khi tác phẩm ấy khắc họa rõ nét, chân thực và sinh 21
động hình tượng nhân vật. Có lẽ vì vậy mà người đọc không thể quên hình ảnh của một
nàng Kiều, một chị Dậu, một Chí Phèo,…Họ đều là những nhân vật điển hình bất hủ
của văn học.
Nhân vật văn học là chủ thể phản ánh của tác phẩm văn học. Nhân vật văn học
được xem là linh hồn của tác phẩm mà tác giả gửi gắm trong đó những ý tưởng để
truyền đạt bức thông điệp vui, buồn, mãn nguyện, bất lực, giả tạo…để nói lên lăng kính
của tác giả với đời thường. Nhân vật văn học có vai trò quan trọng và là chủ thể nhận
thức của tác giả đưa đến cho người đọc những cảm nhận nhận thức lí tính và mang tính
hình tượng cao. Trong bất cứ một tác phẩm văn học nào cũng đi với nó ít nhất một nhân
vật để tác giả phản ánh đời sống, gửi gắm bức thông điệp mang tính xã hội vào trong
cuộc sống, từ đó mỗi người tự soi vào tác phẩm và điều chỉnh về nhận thức. Chẳng hạn
khi nhắc đến một nhân vật người ta thường nghĩ đến các vấn đề gắn liền với nhân vật
đó. Trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, gắn liền với Kiều là thân phận của người phụ
nữ có tài sắc trong xã hội cũ, gắn liền với Kim Trọng là vấn đề tình yêu và ước mơ
vươn tới hạnh phúc, gắn liền với Từ Hải là vấn đề đấu tranh để thực hiện khát vọng tự
do, công lí. Trong “Chí Phèo” của Nam Cao, nhân vật Chí Phèo thể hiện quá trình lưu
manh hóa của một bộ phận nông dân trong xã hội thực dân nửa phong kiến. Đằng sau
nhiều nhân vật trong truyện cổ tích là vấn đề đấu tranh giữa thiện và ác, tốt và xấu, giàu
và nghèo, những ước mơ tốt đẹp của con người. Hay nhân vật Dế Mèn trong “Dế Mèn
phiêu lưu kí” là một ví dụ, nó đại diện cho lớp thanh niên đầy sức sống, có lí tưởng cao
đẹp, luôn hướng đến một cuộc sống phóng khoáng, công bằng, luôn đấu tranh bảo vệ kẻ
yếu và bài trừ cái xấu.
Do nhân vật có chức năng khái quát những tính cách, hiện thực cuộc sống và thể
hiện quan niệm của nhà văn về cuộc đời cho nên trong quá trình mô tả nhân vật, nhà
văn có quyền lựa chọn những chi tiết, yếu tố mà họ cho là cần thiết bộc lộ được quan
niệm của mình về con người và cuộc sống.
Nói tóm lại, nhân vật có vai trò hết sức quan trọng trong tác phẩm văn học. Tất cả
tinh thần, tư tưởng của tác phẩm mà nhà văn gửi gắm đều được thể hiện qua hệ thống
22
nhân vật. Đây là yếu tố quan trọng không thể thiếu và làm nên thành công của tác phẩm.
2.2. Các kiểu nhân vật trong tác phẩm "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh"
Khảo sát thế giới nhân vật trong tác phẩm “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” của
Nguyễn Nhật Ánh, chúng tôi chia theo lứa tuổi người lớn và trẻ em. Ngoài ra, còn có
các con vật. Các nhóm nhân vật ấy được thể hiện ở những góc độ và khía cạnh khác
nhau nhưng tất cả đều nằm trong một hệ thống thống nhất và hài hòa.
Nhân vật trung tâm của truyện là Thiều, Thiều đang trải qua khoảng thời gian có
những xáo trộn mãnh liệt về cuộc sống và tâm hồn. Trong câu chuyện thì Thiều có cậu
em trai tên là Tường. Xung quanh Thiều còn là những người bạn làng xóm, cùng học ở
trường. Đó là cái Mận, thằng Sơn, con Xin,… và những con người khác nữa như bé
Nhi, chú Đàn, ông Tư Cang…
2.2.1. Nhân vật trẻ em
Trong tác phẩm “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh”, Nguyễn Nhật Ánh đã kể lại
cho chúng ta những câu chuyện mà từ lâu rồi chúng ta đã lãng quên, từ những ngày
chúng ta còn thơ bé. Nổi bật và xuyên suốt, từ khi bắt đầu cho tới khi kết thúc câu
chuyện là hai anh em Thiều và Tường - nhân vật trung tâm của tác phẩm. Từ hai nhân
vật này, Nguyễn Nhật Ánh đã xây dựng các nhân vật xuất hiện trong các mối quan hệ
khác nhau. Đó là bạn bè cùng trang lứa với Thiều, là mối quan hệ thầy trò, là người thân
trong gia đình của Thiều và Tường gồm bố, mẹ, chú Đàn, bà nội. Bên cạnh đó, những
nhân vật xuất hiện trong vai trò là làng xóm mà nhân vật chính gặp gỡ ngoài xã hội
cũng đem lại những diễn biến bất ngờ tạo nên những mối quan hệ rất tự nhiên.
2.2.1.1. Những đứa trẻ ở lứa tuổi học trò
Tuổi học trò dù vui buồn, có nước mắt hay nụ cười, nhưng chắc chắn đó là nơi cất
giữ một phần tâm hồn mà bạn không bao giờ muốn đánh mất, là nguồn sức mạnh đủ
nâng đỡ bạn vượt qua những sóng gió. Tác phẩm “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” sẽ
đưa bạn đọc trôi ngược dòng thời gian, về và sống lại một lần nữa tuổi học trò. Cũng
giống như việc giữ lại một phần tâm hồn mình, để mỗi khi mỏi mệt với những bộn bề
hoang mang của cuộc sống, ta có quyền lựa chọn, là để mình trôi về với một miền ký ức
xanh mượt, là để tâm hồn được tưới mát bởi cái hồn nhiên trong trẻo của tuổi thơ.
Tình bạn được thiết lập trong môi trường học đường, trong khoảng thời gian rất
đẹp của con người. Tuổi hồng - lứa tuổi với những mơ mộng, đầy cảm xúc nhưng cũng
xen lẫn những nông nổi và đôi chút dại khờ. Tình bạn trong cuộc sống không thể thiếu 23
nhất là đối với lứa tuổi mới lớn, lứa tuổi mà tình bạn là một thứ gì đó vô cùng quan
trọng. Người bạn là người có thể chia sẻ với ta mọi việc, từ những niềm vui cho đến
những nỗi buồn, là người có thể đưa ra những lời khuyên hữu ích để ta vượt qua những
khó khăn, vượt qua nhưng bối rối, hoang mang.
Giữa một cộng đồng trường, lớp thì xung quanh Thiều cũng có những người bạn
như con Mận, con Xin, thằng Sơn,... Lứa tuổi học trò với những kỉ niệm, những trò đùa
trêu chọc bạn:
“Hằng ngày tôi và thằng Sơn vẫn hay trêu nó. Đang ngồi học, tôi thình lình quay
sang nó:
Ăn không, Xin?
Ăn gì?
Ăn xin chứ ăn gì!
Ôi, đói bụng quá! Ăn không, Xin?
Ăn gì?
Ăn xin!
Bị trêu “ăn xin”, lần nào con Xin cũng thút thít khóc. Nó giận dỗi ngoảnh mặt đi
chỗ khác, không thèm trò chuyện với bọn tôi.
Nhưng tính nó mau quên. Qua ngày hôm sau nó lại mắc lỡm hai đứa tôi một cách
dễ dàng. Nghe tôi hỏi “Ăn không, Xin?” nó lại láu táu “Ăn gì?”. Để rồi sau đó rơm
rớm nước mắt cả buổi. Cả ngàn lần như vậy.
Có nghĩa cả ngàn lần tôi thấy nó khóc” [2, tr.77].
Có thể nói, những khoảnh khắc về tình bạn ở lứa tuổi học trò hết sức hồn nhiên, vô
tư đã đem lại cho bạn đọc những cảm xúc trong veo, những kỉ niệm về tuổi học trò. Và
tình cảm, mối quan hệ giữa thầy và trò cũng không thể thiếu trong câu chuyện của cậu
bé Thiều. Thầy Nhãn, xuất hiện trong mối quan hệ là thầy giáo của Thiều đồng thời là
cha của chị Vinh, thầy được biết đến là một người nghiêm khắc. Thầy luôn có định kiến
và ngăn cản mối tình của chú Đàn và chị Vinh. Thiều là một cậu học trò học giỏi nhưng
cũng không kém phần nghịch ngợm, chính lá thư của chú Đàn gửi chị Vinh nên Thiều
đã bị thầy Nhãn phạt: “Kết quả đến nhãn tiền: Thầy Nhãn kêu tôi lên bảng và trước cặp
mắt tò mò của lũ bạn, thầy bẹo tai tôi đau điếng, gần như sách hẳn người tôi lên khiến
tôi suýt rớt cả tai, răng nghiến ken két” [2, tr.86]. Từ sau lần đó khiến Thiều hễ gặp thầy 24
Nhãn là lại co rúm hết cả người. Mái trường với hàng phượng vĩ, ghế đá, lớp học, chỗ
ngồi thân quen, với phấn trắng bảng đen, những tiết học, những bài kiểm tra đều ghi dấu
trong miền ký ức mỗi người. Và hơn tất cả, lung linh, tươi đẹp tỏa sáng là tình cảm thầy
trò được kết lại, bện chặt bởi sợi dây vô hình.
Mùa hè rộn rã tiếng ve, dội vang trong tai của học trò. Bắt đầu mùa học là bắt đầu
cả một trang giấy trắng, kết thúc một mùa học là kết thúc một trang ký ức. Những màu
sắc khi ấy vui, buồn lẫn lộn đang xen vào nhau khó mà quên được. Trong cái không
gian đó, bên cạnh tình bạn bè, tình thầy trò thì lứa tuổi này cũng bắt đầu có những mộng
mơ, những thay đổi hay biểu hiện của lứa tuổi mới lớn. Ở lứa tuổi này, hầu như đứa trẻ
nào cũng đều có một góc suy tư riêng như Mận trong tác phẩm được miêu tả là một cô
bé nhỏ nhắn phải chịu cảnh éo le đến đáng thương. Từ khi ba Mận bị bệnh thì cuộc sống
của gia đình trở nên khó khăn vô cùng. Vì vậy mà Mận liên tục phải chịu những trận
đòn roi:
- “Mày đang phơi hai bàn tay kiểu mới à?
Lần khác tôi hỏi, khi thấy nó hai tay chống cằm, cùi tay tựa lên bậu cửa sổ, thừ
mặt trông ra.
- Không. Mình có phơi bàn tay đâu. - Nó đáp, giọng rầu rầu - Mình đang phơi
khuôn mặt.
- Mặt mày làm sao mà phơi? Mày vừa tắm xong à?
- Không. Mẹ mình vừa đánh đòn mình.
Tôi không hỏi nữa. Vì tôi hiểu rồi. Con Mận đang hong khô những giọt nước mắt.
Tội nó ghê!” [2, tr.20].
Trong thế giới của trẻ thơ cũng có cái đói, cái nghèo, cũng có những thiệt thòi
thiếu thốn về tình cảm. Mận không chỉ phơi những ngón tay như Thiều, nó còn phải
phơi cả gương mặt thấm đẫm nước mắt vì mẹ nó hay đánh nó dẫu chẳng có lí do gì.
Mận lớn lên cùng hai anh em Thiều và Tường, hàng ngày cùng vui chơi, cùng cắp sách
đến trường. Theo lời của Thiều thì con bé học dốt lắm bởi vì nó không có thời gian học.
Ba nó từ khi mắc bệnh đã bị mẹ nó khóa trái trong căn phòng. Hàng ngày, nó phải phụ
giúp mẹ nó bán hàng. Tuổi thơ ai cũng có nỗi buồn và kỉ niệm, riêng với bé Mận bên
25
cạnh nỗi buồn về gia đình thì nó vẫn có những người bạn tốt để tâm sự, để sẻ chia đó là
cậu bé Thiều. Trước những khó khăn mà Mận gặp phải, Thiều đã biết chia sẻ, giúp đỡ
để Mận vượt qua. Một thứ tình cảm trong sáng trước hết là tình cảm bạn bè quý mến đã
giúp cô bé Mận vượt qua sự buồn rầu, cái nghèo của cuộc sống.
Xét trên phương diện tình bạn, từ đây cũng bắt đầu có những thay đổi, những chi
tiết thú vị cho thấy tình yêu lứa tuổi hồng hết sức trong sáng và ngây thơ “Con Mận là
con gái, nửa đêm tự nhiên chạy ra ngủ chung với tôi, chắc nó ngượng lắm. Mặc tôi
huyên thuyên, nó không nói gì. Tôi tính ba hoa thêm vài câu nữa nhưng thấy nó ngó lơ
chỗ khác, liền nín thinh. Bữa đó, trước khi dỗ giấc tôi vẫn kịp nhìn thấy con Mận chèn
cái gối ở giữa tôi và nó. Con gái ý tứ ghê” [2, tr.188]. Sự mộng mơ, lãng mạn của
những đứa trẻ còn được thể hiện qua “mảnh quế cay cay, thơm thơm mà Thiều để dành
cho cô bạn mình thích” [2, tr.272]. Trong cuộc sống, mỗi chúng ta không hề đơn độc và
lẻ loi. Bên cạnh chúng ta, xung quanh chúng ta, ngoài người thân còn có bạn bè, những
người tốt bụng luôn quan tâm, giúp đỡ chúng ta vượt qua khó khăn trong cuộc sống,
giúp chúng ta có thêm nghị lực để vươn lên.
Rồi câu chuyện cậu bé Thiều lớn tướng mà vẫn sợ ma, sợ phải đi qua bãi tha ma
một mình mỗi khi mẹ nhờ đi mua hàng; chuyện hai anh em cho chuồn chuồn cắn rốn để
biết bơi; chuyện Thiều khôn lỏi để em chịu đòn thay mình rồi lần nào cũng tự nhủ lần
sau sẽ bảo vệ em, tự nhận lỗi hết về mình, rồi lần sau bố chưa kịp đánh vẫn là đứa chạy
trước; chuyện nhờ nhau chuyển thư mỗi lần thích thích một bạn gái nào đó; chuyện trêu
chọc ghép đôi nhau, là khi thích một chàng trai nào đó thì chẳng dám chơi với chàng
trai đó nữa,… Đó đều là những chi tiết nho nhỏ nhưng đọc nó người ta đều có thể nhận
ra hình bóng của chính mình. Nó gợi đến những năm tháng tuổi thơ vô tư hồn nhiên
nhất của mỗi người. Nó gợi đến những trò nghịch dại trong quá khứ, những niềm tin vu
vơ, những cảm xúc bất chợt. Nếu không hồn nhiên như vậy, Tường và Nhi sao vượt
qua được bệnh tật của mình. Sự hồn nhiên khiến chúng có niềm tin hơn vào những
điều tốt đẹp. Chính sự hồn nhiên, trong trẻo đó là những gì nguyên chất nhất, trong lành
nhất của thế giới trẻ thơ.
Những khoảnh khắc hết sức hồn nhiên của hai anh em Thiều và Tường được
Nguyễn Nhật Ánh miêu tả hết sức tự nhiên. Những đứa trẻ lớn lên ở vùng làng quê
nghèo Việt Nam. Hàng ngày, nơi vui chơi của chúng đó là những đường làng, lũy tre,
bờ sông hay cả bãi tham ma nơi mà anh em Thiều, Tường thường chơi các trò: chuồn 26
chuồn cắn rốn biết bơi, bắt sâu róm, thổi xoáy cát để tìm con cúc, chơi ném đá, bắt ve
sầu, chơi trò đá gà bằng nhụy hoa phượng.“Nhụy hoa phượng có cọng dài và mảnh, đầu
hình hạt gạo, màu nâu. Trẻ con bọn tôi hay chơi trò đá gà bằng nhụy hoa phượng. Hai
con gà là hai cái nhụy móc đầu vào nhau, giựt mạnh, đầu gà nào đứt trước là gà ấy
thua. Mỗi độ hè về, tôi cũng hay chơi trò đá gà bằng nhụy hoa phượng, nhưng lúc này
tôi đang thích trò ném đá” [2, tr.44].
- “Tường nè. - Giọng tôi chùng xuống.
- Gì hở anh?
- Sắp đến mùa hè rồi đó.
- Dạ.
- Khi nào mùa hè tới, lũ ve sầu trở lại, tao sẽ dẫn mày đi rình bắt ve ve.
- Ôi, thích quá! Bắt bằng mủ mít hở anh?
- Ờ, bằng mủ mít. Tao sẽ vót hai cái que thật dài. Mày một cái, tao một cái. Rồi
mình bôi mủ mít lên đầu que.
- Em biết rồi như năm ngoái chứ gì?
Năm ngoái hai anh em tôi trưa nào cũng dọ dẫm ven bờ rào rình bắt ve ve dưới
cái nắng chói chang. Nắng mùa hè rơi xuống từng bựng, hong vàng lá gòn nhà ông Ba
Huấn, lá nhãn lồng nhà thầy Nhãn, lá vú sữa trong vườn nhà bà tôi và hong vàng tóc
hai anh em tôi.
Chiều nào đi bắt ve về, mặt mày tôi và Tường cũng đỏ lơ đỏ lưỡng, đầu tóc xác xơ
và đỏ quạch như hai cây chổi rơm. Mẹ tôi la một trận, dọa méc ba khiến tôi và Tường
sợ xanh mặt nhưng qua hôm sau hai anh em trốn ngủ trưa lẻn ra sau hè cầm que đi rảo
dọc các bờ rào để ngoáng tìm lũ ve đang đồng ca râm ran trên các tàng cây” [2, tr.99].
Nguyễn Nhật Ánh cũng phải rất am hiểu và dày công tìm kiếm để đem đến cho những
đứa trẻ làng quê đủ loại trò chơi dân gian như thế. Những trò chơi tưởng đã bị lãng quên
bỗng có sức hút chưa từng thấy, đưa bạn đọc trở lại làm đứa trẻ thuở lên mười, hiếu
động với muôn vàn tưởng tượng thơ ngây. Đọc “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh”
theo bước chân hai anh em Thiều và Tường, nhà văn đã làm sống dậy trong lòng mỗi
27
bạn đọc kí ức tìm về tuổi thơ, với những trò chơi mà tuổi thơ ai cũng đã từng trải qua.
Những đứa trẻ ấy cùng lớn lên, cùng chơi đùa hằng ngày nhưng ở sâu thẳm mỗi
đứa trẻ vẫn có sự đố kị rất hồn nhiên, ngây thơ. Ở độ tuổi của Thiều, cậu bé 15 tuổi với
những rung động đầu đời của tuổi học trò nên ở con người cậu bộc lộ những nét ghen
tị của trẻ con. Thiều thích Mận, khi Thiều thấy Tường chơi với Mận một cách vô tư,
thân thiết, Thiều đã sinh lòng đố kị. Người anh hai trả thù Tường bằng cách để ông
Năm Ve bắt Cu Cậu- con thú cưng của thằng Tường mà nó yêu quý nhất. Sự trả thù
này của Thiều đã thành công, nhưng đã vô tình hay cố ý đem lại cho cậu em Tường
một nỗi đau không thể xoa dịu. Chứng kiến sự buồn rầu, đau khổ của em trước cái chết
của Cu Cậu, Thiều vô cùng hối hận. Hối hận dù đến đâu nhưng cũng chỉ biến mất
trong phút chốc, cho tới khi sự việc Thiều đánh em đến liệt giường chỉ vì miếng thịt
gà: “Nỗi ân hận lúc này đã rất giống một chiếc cọc nhọn xuyên từ đỉnh đầu xuống gót
chân tôi, đóng chặt tôi vào sự hoang mang đờ đẫn. Người như mê đi, tôi không nhận
ra thằng Tường vẫn còn nằm ngửa dưới nền nhà, lóp ngóp cả buổi vẫn không ngồi dậy
được” [2, tr.273]. Suy cho cùng thì tất cả cũng do sự nghèo đói dẫn đến. Cho đến thời
điểm này thì sự hối hận vô cùng đã khiến Thiều phải suy nghĩ, phải ăn năn về tất cả
những gì mình đã làm và gây ra cho cậu em Tường.
Trong thế giới hồn nhiên của những đứa trẻ ở lứa tuổi học trò, cái vô tư của trẻ
con là cái vô tư trong trẻo của những đứa trẻ chưa phải lo toan, sống hồn nhiên trong
tình bạn, tình yêu thương của gia đình, sống gần gũi với thiên nhiên cỏ cây hoa lá. Sự
hồn nhiên, ngây thơ của trẻ nhỏ không chỉ đến thông qua những hành động của chúng
mà còn ở giọng văn có phần “tưng tửng” nghộ nghĩnh của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh.
Ông kể lại những câu chuyện nhưng bằng giọng điệu thật hồn nhiên của chính những
người trong cuộc, khiến cho bạn đọc như không còn nhận ra khoảng cách giữa mình và
tác phẩm mà cũng như thấy đâu đây chính tuổi thơ của mình, chính suy nghĩ hành
động của mình tự khi nào. Thế giới trẻ thơ trong sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh là một
thế giới như vậy. Nó có vượt ngoài những ranh giới mà người lớn vẫn hay đặt ra nhưng
nó ấm áp tình người, trong trẻo và thơ ngây. Nó có nhọc nhằn gian khó thì cũng có
niềm tin và hi vọng. Nó chính là một miền kí ức để mỗi người lớn tìm về.
2.2.1.2. Những đứa trẻ hướng thiện
Trong truyện Nguyễn Nhật Ánh, sắc màu trẻ thơ thể hiện ngay ở nhan đề, ở cách mà
nhà văn đặt tên các chương mục. Trong tác phẩm “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh”, 28
tên 81 chương truyện đủ để làm thành thế giới tuổi thơ. Nhưng đây mới chỉ là bề mặt văn
bản, cái hồn của truyện Nguyễn Nhật Ánh nằm ở cái nhìn trẻ thơ của tác giả. Nói cách
khác, Nguyễn Nhật Ánh nhìn mọi chuyện bằng nụ cười của trẻ thơ. Đây là một trường
nhìn thuận lợi để nhà văn khơi sâu vào tâm lí tuổi thơ nhất là lứa tuổi mới lớn. Hầu hết
các nhân vật trong truyện của Nguyễn Nhật Ánh đều là những con người hướng thiện,
những con người biết phân biệt tốt, xấu, biết bênh vực cái tốt, cái đẹp và căm ghét cái
xấu, cái ác.
Trẻ em luôn là những người giàu lòng yêu thương trắc ẩn nhất trong thế giới loài
người. Chúng yêu thương động vật, coi những con vật nhỏ như bạn của mình. Đến
những con vật nhỏ bé xung quanh chúng còn yêu đến vậy thì con người với nhau tại sao
lại không thể yêu thương. Dẫu có thể cuộc sống còn nhiều thiếu thốn về vật chất, song
thế giới trẻ thơ trong sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh vẫn luôn đong đầy tình cảm gia
đình và tình bạn tươi đẹp, ấm áp.
Những đứa trẻ ở đây biết quan tâm chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau. Khi nhà Mận bị
cháy, bố Mận mất tích, mẹ bị bắt giam, Thiều đã là người bạn thân an ủi, giúp Mận
vượt qua cú sốc tinh thần:
- “Mẹ tao kêu đem cơm cho mày. Mày chưa ăn tối phải không?
- Mình không muốn ăn. - Giọng con Mận dàu dàu.
- Mày phải ăn mới có sức khỏe được. - Tôi nói hệt những lời mẹ tôi vẫn nói với tôi
khi tôi biếng ăn.
Con Mận bướng bỉnh:
- Nhưng mình không thấy đói.
Tôi đảo mắt, cố tìm một lí do chính đáng:
- Mày không ăn, mẹ mày biết mẹ mày buồn lắm đó.
Tôi đem mẹ nó ra để nó biết thương mẹ mà chịu ăn cơm, nào ngờ nó òa ra khóc:
- Không biết chừng nào mẹ mình mới được thả về?
- Chắc là sớm thôi” [2, tr.184].
Khi Mận yếu đuối nhất chính Thiều đã là một người bạn ở bên cạnh lắng nghe và
chăm sóc. Trong cái đêm nhà cháy, mẹ đi tù kia, điểm bấu víu duy nhất của Mận chính
là Thiều. Nếu không có cái ấm áp của tình bạn đó thì thật khó để Mận có thể vượt qua
được những biến cố lớn đến như vậy. Dù Thiều là đứa trẻ sợ ma nhưng tình bạn đã
29
giúp Thiều vượt lên trên nỗi sợ để làm chỗ dựa lúc bạn gặp khó khăn:
“Dĩ nhiên tôi rất sung sướng khi được mẹ tôi sai tôi qua ngủ nhà con Mận. Tôi
không biết làm gì để chia sẻ hay giúp đỡ nó trong lúc này. Qua nhà nó ngủ để giúp nó
đỡ sợ trộm, sợ ma là điều duy nhất tôi có thể làm được.
Tôi là chúa sợ ma. Nhưng đang xúc động trước hoàn cảnh không may của con
Mận, tôi quên bẵng nỗi sợ của mình” [2, tr.186]. Tình bạn giữa những đứa trẻ dường
như không vụ lợi chỉ chan chứa yêu thương và lòng tin tưởng lẫn nhau. Có chọc ghẹo,
có cãi cọ thậm chí có đấm đá nhưng chúng luôn dành cho nhau sự tin tưởng và sẻ chia
khi cần.
Những câu chuyện len lỏi trong suốt tác phẩm Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh khiến
bạn đọc quan tâm, cũng chính là chuyện của hai anh em Thiều và Tường. Thiều tuy là
anh nhưng cậu đối với em mình vẫn còn chút hẹp hòi, ích kỉ. Ngược lại Tường lại dành
cho anh trai mình một tình yêu bao dung và âu yếm, nhẫn nhịn và đầy hy sinh. Cậu lúc
nào cũng thế, luôn chịu đòn thay anh mà không bao giờ phàn nàn vì điều đó, luôn lặng lẽ
và nhẹ nhàng chấp nhận tất cả. Chỉ có sự bao la trong trái tim, Tường yêu anh trai mình
nhiều đến mức có thể từ một cậu bé hiền lành như cục đất trở nên mạnh mẽ và liều lĩnh.
Đó là câu chuyện Tường trợ giúp Thiều chống lại thằng Sơn:
“Sơn nhíu mày, chưa kịp hỏi dứt câu thằng Tường đã thình lình nhảy xổ tới và ôm
cứng lấy nó.
- Đập nó đi, anh Hai! - Tường vừa siết chặt cổ thằng Sơn vừa la lớn. Tôi bay vào,
vung tay nện thình thịch lên tấm lưng to bè của thằng Sơn, cảm thấy như đang đấm vào
một tấm phản bọc da trâu” [2, tr.161].
Tường là em nhưng cậu nhận về mình mọi phần thiệt, cậu làm nhiều hơn anh để
anh có thể học. Tường chẳng quản nguy hiểm chịu đòn để anh được giải thoát khỏi lời
đe dọa của thằng Sơn. Cậu còn nghĩ kế trả thù thằng Sơn giúp anh, chạy đến siết chặt
cổ thằng Sơn, đấm vào lưng thằng Sơn khiến thằng Sơn phải chịu trận thay cho Thiều.
Thiều cũng yêu em, rất yêu nhưng dường như cậu chưa nhận ra điều đó, chưa nhận
ra Tường quan trọng đối với mình đến nhường nào. Và vì còn trẻ con lắm, Thiều cũng
không biết làm thế nào để thể hiện tình yêu của mình. Thiều có quá nhiều chuyện khác
để quan tâm, còn Tường lúc nào cũng ở đó khi nó cần, như một điều hiển nhiên. Có lẽ
vì thế mà Thiều không biết coi trọng nên luôn khiến em bị đau, bị đánh đòn. Tình yêu
mà Thiều dành cho em vẫn còn một chút nhỏ nhen, một chút ích kỉ chứ không như cái 30
bao la của thằng Tường. Đó chính là việc Thiều hiểu lầm tình chị em, giữa con Mận và
thằng Tường, cảnh Tường và Mận chơi “đồ hàng ăn thịt gà giả” và Thiều đánh em túi
bụi: “Giận dữ, thèm thuồng, đau đớn, những cảm giác tồi tệ đan thành một tấm lưới thít
chặt lấy tôi khiến tôi gần như không thở nổi. Người tôi run bần bật đến mức tôi phải
nhích ra khỏi bức vách để tránh gây nên tiếng động.
- Thịt gà nè! Giấu tao nè! Cho bỏ cái tật ăn lén nè!
Thằng Tường không kịp trở tay, bị tôi quất túi bụi, chỉ kịp kêu lên hai tiếng “anh
Hai” rồi ngã lăn ra đất” [2, tr.274].
Tường vì Thiều mà bị đánh đòn, rất nhiều lần và cả chuyện Thiều đánh Tường
nằm liệt giường đã khiến cho tất cả vô cùng đau lòng. Anh đánh em, không chỉ một nhát
mà nhiều, nhiều lắm cả vào trái tim. Đau lắm, chỉ vì sự ích kỉ, tính đa nghi, chỉ vì miếng
thịt gà. Và gần như ngay lập tức, Thiều hối hận, nhưng đã quá muộn. Buồn làm sao khi
không thể làm cho thời gian chảy ngược. Chỉ biết đứng nhìn em đau quằn quại. Những
giọt nước mắt của Thiều giờ đây không hiện hữu nhưng đã chảy thẳng vào trong tim.
Khi ấy, tình cảm tự nhiên dâng trào, khiến nó thốt lên tiếng gọi “em” rất đỗi dịu dàng,
gần gũi.
Còn cậu bé Tường, vẫn luôn yêu anh, không hề thay đổi. Tường lo anh buồn vì
mình, lo anh bị đánh vì mình. Trái tim em bao la đến vậy mà cứ đập nhịp nhàng trong
cơ thể nhỏ bé, thân thương. Giọng em yếu ớt rằng, đừng bảo cha mẹ là anh Thiều đánh,
bảo là vì em không cẩn thận mà bị ngã từ trên cây. “Cái cách mà Tường bảo vệ tôi ngay
cả trong lúc nó là nạn nhân xấu số của Thiều, khiến Thiều cảm thấy xấu hổ và day dứt
ghê gớm. Tình yêu của em tôi dành cho tôi thật mênh mông trong khi tôi hết lần này đến
lần khác đối xử với nó chẳng ra gì”. Tường không bao giờ oán trách mỗi lần vì anh
khôn lỏi mà nó bị bố đánh đau, thậm chí bị đánh nhiều hơn anh. Và khi Tường bị Thiều
phang tới mức phải nằm liệt một chỗ cũng thế, vẫn không hề oán trách anh mình.
Tường luôn tìm cách bảo vệ anh mình, một cách tự nguyện nhất, chân thành nhất, hết
mình nhất không vì điều gì, không cần báo đáp. Đối với Thiều “nỗi ân hận lúc này đã rất
giống một chiếc cọc nhọn xuyên từ đỉnh đầu xuống gót chân tôi, đóng chặt tôi vào sự
hoang mang đờ đẫn”. Từ những điều Thiều gây ra cho Tường, giờ đây Thiều ngập tràn
sự hối hận, dằn vặt về lỗi lầm của mình, thậm chí Thiều đã từng nghĩ bỏ học để thay mẹ
chăm em, có thể làm mọi thứ hy sinh mọi thứ vì em mình: “Trong thời gian đó, tôi bỗng 31
nhiên hết sợ sâu bọ. Tôi ra ngoài vườn bắt những con cuốn chiếu và sâu róm rồi kiếm mấy
cái que cho Tường đùa nghịch. Tôi lang thang một mình trong trưa nắng để rình bắt ve
sầu và hái những cánh hoa phượng để hai anh em ngắt nhụy chơi đá gà. Vì em tôi, tôi
có thể làm tất cả. Điều duy nhất tôi không thể làm là trả con Cu Cậu về cho nó” [2,
tr.303].
Tình cảm anh em, gia đình đó thật đầm ấm và đáng trân trọng biết bao. Phải nói
rằng, bằng lối văn phong tinh tế, Nguyễn Nhật Ánh đã cho bạn đọc hiểu được tình yêu
thương luôn ấm áp những xúc cảm mơ hồ tinh tế nhất, những bao dung rộng lượng nhất
mà người ta đều gặp ở đây, trong cách trẻ con đối xử với nhau và đối xử với người lớn.
Những ấm áp trong tác phẩm đã cho chúng ta nhiều hơn những hi vọng, sự lạc quan, tin
tưởng vào con người và những điều tốt đẹp trong cuộc sống.
2.2.1.3. “Thằng Sơn” - Nhân vật trẻ em hư
Những nhân vật được nói đến trong tác phẩm “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh”
đều là những đứa trẻ hồn nhiên, ngây thơ nhưng bên cạnh đó, phải kể đến nhân vật Sơn
- một đứa trẻ hư cùng học chung lớp, ngồi chung bàn với Thiều và Mận. Ở nhân vật này
tác giả đã miêu tả và gắn cho nhân vật những tính cách khác xa, trái ngược với các nhân
vật kia. Một đứa trẻ phải nói rằng hỗn láo, mất dạy như không được giáo dục và dạy
bảo: “Sơn chơi bời lêu lổng nổi tiếng, lại giỏi chọc làng phá xóm, ăn nói thì hỗn láo xấc
xược nên ai cũng ghét” [2, tr.142]. Nhân vật Sơn trong tác phẩm được tác giả miêu tả
làm toát lên nét tính cách của một đứa trẻ ranh mãnh, lắm mưu mẹo để lừa dối bạn và có
những hành động xấu với bạn gái. Đã nhiều lần Sơn rủ Bé Ba chui vô bụi cây tâm sự để
“làm trò người lớn”. Sơn tỏ ra là bậc đàn anh của Thiều về chuyện tình yêu, tán gái:
“Thấy tôi đực mặt nghĩ ngợi, nó hấp háy mắt:
- Mày hẹn nhau với con Xin bao giờ chưa?
Tôi khịt mũi:
- Tao chỉ ra nhà nó chơi u, chơi rồng rắn lên mây.
- Ngu! – Sơn phun nước bọt – Thích tụi con gái là phải hẹn nhau với nó. Phải rủ
32
nó chui vô bụi cây rậm rạp, vắng vẻ [2, tr 144].
Qua cuộc đối thoại giữa Thiều và Sơn chúng ta đều thấy, sự đối lập hoàn toàn
giữa Thiều và Sơn. Ở Thiều chân chất sự hồn nhiên, trong sáng trái ngược với Sơn -
một đứa trẻ hư, thiếu sự giáo dục.
Chưa dừng lại ở chuyện với Bé Ba, thằng Sơn còn đề nghị với Thiều dùng đồ
chơi, dùng tiền để thỏa thuận việc đổi bạn. Thằng Sơn muốn làm hại cả Mận. Nó là đứa
con trai hư hỏng luôn muốn lợi dụng bạn gái. Cả Bé Ba và Mận đối với nó đều là những
người con gái “trông ngon mắt”. Khi cuộc thỏa thuận không xong, thằng Sơn liền ra tay
đánh bạn: “Tôi chưa kịp ngồi dậy, thằng Sơn đã cưỡi lên người tôi, hai tay đấm liên hồi
như giã gạo”. Một đứa trẻ hư, vẫn tiếp tục ngông cuồng không tự hối hận về những
việc làm của mình, Sơn càng cư xử tệ hơn nữa. Nó nói với Thiều giọng hăm dọa người
khác: “Số phận của gia đình nó đang nằm trong tay tao. Bây giờ tao bảo gì mà nó
chẳng nghe” [2, tr.168]. Giờ đây tâm hồn Thiều, lòng Thiều đã không còn được thanh
thản nữa. Cái bộ tịch đểu cáng của thằng Sơn đã liên tục cắm sâu vào tâm trí Thiều như
một thứ nấm độc. Thiều cắn môi muốn rướm máu, nhìn theo thằng Sơn bằng ánh mắt
đau khổ, chán ghét và bất lực.
***
Như vậy, Nguyễn Nhật Ánh đã xây dựng cho mỗi nhân vật trẻ em những đặc điểm
tính cách riêng, được thể hiện một cách tự nhiên và bản năng nhất. Với việc am hiểu,
nắm bắt được sở thích, tâm lí trẻ, nhà văn đã cho ra đời những tác phẩm mang đậm chất
trẻ thơ để dành tặng các bạn nhỏ.
Có thể nói, khi đọc những tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh, chúng ta sẽ thấy được
rằng nhà văn không chỉ yêu quý trẻ thơ bằng một tình cảm yêu mến thông thường mà
trong đó còn có cả sự trân trọng. Nguyễn Nhật Ánh phát hiện ra bên trong mỗi nhân vật
trẻ em đều chứa đựng những nét tính cách vô cùng đáng quý. Đó đều là những đứa trẻ
hồn nhiên, đáng yêu, tài năng, thông minh, tò mò, hiếu động. Tuy nhiên, với những độc
giả trung thành với nhà văn Nguyễn Nhật Ánh sẽ dễ dàng nhận ra “Tôi thấy hoa vàng
trên cỏ xanh” là một tác phẩm có nét độc đáo riêng so với những tác phẩm trước. Đây
là lần đầu tiên ông đưa vào chuyện của mình nhân vật phản diện, sự đố kỵ, hung hăng
của Sơn khi cố dành bé Mận từ Thiều, sự ghẻ lạnh xa lánh của làng xóm với ba Mận,
với bé Nhi. Đây chính là yếu tố giúp cho câu chuyện liền mạch hơn, tình cảm của các cô
bé, cậu bé gắn bó hơn bao giờ hết. Nhà văn cũng đã từng hé lộ về cuốn sách ngay khi 33
vừa được NXB trẻ cho ra mắt như sau : “Các hoàn cảnh trong cuốn sách sẽ khắc nghiệt
hơn, cuộc sống của nhân vật sẽ không êm đềm như những nhân vật trong các cuốn sách
trước của tôi. Đặc biệt, lần đầu tiên trong tác phẩm thiếu nhi của tôi xuất hiện nhưng
cảnh huống, những nhân vật phản diện. Tôi muốn phê phán cái ác của sự vô tâm nơi
con người. Ngay cả nơi những con người lương thiện nhưng có những biểu hiện vô tâm
thì đó cũng chính là sự thật đáng cảnh báo trong bối cảnh sống hôm nay” [32].
Một điều đặc biệt nữa đó là khi đến với tác phẩm, ta còn cảm nhận được một cách
tinh tế những rung động đầu đời của lứa tuổi mới lớn. Đối với lứa tuổi thiếu nhi, đặt ra
vấn đề tình yêu có vẻ như không phù hợp. Nhưng phải thừa nhận rằng, về tâm sinh lí
thế hệ trẻ ngày nay đã khác rất nhiều so với các thế hệ cha anh. Các em hiểu biết hơn vì
thế cũng mạnh dạn hơn, đã không còn cái thời con trai con gái không dám cầm tay
nhau, không dám ngồi cạnh nhau. Trên thực tế những câu chuyện tình yêu trong truyện
Nguyễn Nhật Ánh chỉ là những tình yêu học trò, thứ tình cảm còn trong sáng, còn thơ
mộng, còn rụt rè và cũng còn rất trẻ con. Câu chuyện không hẳn hoàn toàn viết cho
thiếu nhi, đó còn là những cảm xúc đầu đời của tuổi ô mai đầy mộng mơ, và có nhiều
biến chuyển trong suy nghĩ lẫn hành động. Cuộc sống vẫn thế, nhưng khi bước vào
ngưỡng tuổi mới, cuộc sống lại mở rộng ra trước mắt những điều đáng để suy ngẫm
hơn.
Đọc tác phẩm, ta cảm giác như tuổi thơ đang đua nhau về trong ký ức của mình.
Câu chuyện được viết với ngôn từ đơn giản, ngộ nghĩnh và mộc mạc trong lời nói ở
những đứa trẻ đã làm thấm đượm tình cảm của bao người đọc, lấy đi những nụ cười xen
lẫn với giọt nước mắt cảm thương.
2.2.2. Nhân vật người lớn
Những người lớn xuất hiện trong tác phẩm “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh”
trước tiên là những người lớn gần gũi nhất, có quan hệ gia đình với các nhân vật trung
tâm. Trong mối quan hệ với trẻ em, hình ảnh người lớn dần hiện lên. Đó không phải là
từ những câu chuyện đời sống của người lớn như trong các cuốn truyện thông thường
mà đó là hình ảnh cuộc sống được nhìn qua đôi mắt trẻ thơ. Những vấn đề, những mối
quan hệ được tiếp cận từ một góc độ khác, mang tới những suy nghĩ, cảm nhận khác.
Nếu thế giới người lớn trong “Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ” được đặt trong thế so
sánh với thế giới của trẻ em để làm nổi bật sự khác biệt, sự thay đổi của con người khi 34
tuổi tác thay đổi, thế giới người lớn trong “Con chó nhỏ mang giỏ hoa hồng” được
miêu tả gián tiếp và sơ lược thông qua câu chuyện của những chú chó thì trong “Tôi
thấy hoa vàng trên cỏ xanh” là thế giới đời thường, là cuộc sống hằng ngày, là những
mối quan hệ làng xóm,… và qua đó ấm áp lên những tình cảm thật cao đẹp.
Là nhóm nhân vật có ảnh hưởng lớn đến các em, trong tác phẩm “Tôi thấy hoa
vàng trên cỏ xanh” của Nguyễn Nhật Ánh, nhân vật người lớn được nhìn dưới con mắt
trẻ thơ với cái nhìn thuần khiết. Đó là bố mẹ giàu tình yêu thương, luôn quan tâm đến
các em, hay đó còn là người thầy, là những người hàng xóm ở xung quanh các em,
những người láng giềng thân thiện, luôn giúp đỡ lẫn nhau.
2.2.2.1. Những con người bất hạnh
Cảnh làng quê Việt Nam được miêu tả với nạn đói, lụt lội, cháy nhà, dẫn đến sự
đói kém, nghèo nàn, dịch bệnh. Một thực trạng diễn ra trong những thập niên 80 được
tác giả miêu tả một cách chân thực.
Những ngày lũ kéo về, một không khí u uất, quẩn quanh trong ngôi làng:
“Mưa cứ như giận dai, gầm gừ, xối xả và miên man, có cảm giác mây đen đã kéo
cả đại dương lên trời để bây giờ hả hê chút xuống.
Nửa khuya, lũ từ từ trên nguồn tràn về, mực nước từ từ dâng lên mấp mé mặt
giường trong ánh mắt lo lắng của mẹ tôi. Cả nhà tôi leo hết lên giường, xách theo mấy
chiếc đòn kê để ngồi cho khỏi ướt mông, co ro chờ trời sáng” [2, tr.238]. Sau thiên tai,
lũ lụt cảnh vật khi lũ đi qua trông hoang tàn như một phim trường vừa quay xong cảnh
chiến tranh: “nước bắt đầu rút dần để lại mặt đường nhớp nháp và sạt lở, và một số rác
rến, gỗ mục, xác xúc vật vướng vào các gốc cây, vách nhà và hàng rào" [2, tr 328]. Các
tàn dư của bão lụt để lại sau khi chúng đi qua là những môi trường thuận lợi cho các
loại vi sinh vật và ký sinh trùng gây bệnh. Những thiệt hại về môi trường thường kéo
theo những thiệt hại gián tiếp ảnh hưởng lâu dài đến hoạt động kinh tế của những người
dân nghèo khổ này: “Đến trưa thì cuộc tổng kết thiệt hại đã có kết quả: ông Tư Cang
trôi mất một con trâu, ông Năm Ve chết một con heo ngay trong chuồng, nhà cô Thoan
chái bếp bị lũ cuốn, còn vườn rau tốt tươi nhà ông Bé thì bây giờ đã rất thích hợp để
làm sân vận động cho con nít đá banh. Nhưng tai họa lớn nhất là chiếc cầu bắc ngang
qua suối LỒ Ô đã bị lũ giật sập: nửa chiếc cầu còn lại một đầu dính trên mố đầu kia
35
chúi xuống nước như người té suối bị kẹt chân, nửa chiếc kia chẳng rõ trôi đi đâu” [2,
tr.238]. Chỉ sau một trận mưa lũ đã làm cho cả một vùng quê sống trong cảnh nghèo
khó, cuộc sống mưu sinh vất vả. Sau lũ, dân làng lâm vào đói kém, sự đói kém còn hiện
hữu trong từng bữa ăn, trong mâm cơm hàng ngày: “Nồi cơm lưng hơn. Thức ăn ít đi.
Cá thịt thưa thớt dần, có hôm mất tích hẳn. Thỉnh thoảng có bữa tôm rang thì con nào
con nấy mặn chát, muối bám quanh con tôm trắng xóa như tuyết. Chỉ với một “con tôm
tuyết” đó, tôi có thể ăn ba chén cơm” [2, tr.260].
Những con người nơi đây không những phải chịu thiên tai, cuộc sống mưu sinh
vất vả mà họ còn gặp phải những éo le, trắc trở của cuộc đời. Dường như số phận đã an
bài cho họ. Thằng Dưa con của ông Năm Ve, bị bệnh còi, có lẽ cũng vì cuộc sống đói
kém mà nó trở nên như vậy. Bằng tuổi với Tường nhưng nó trông đẹt như đứa bé tám,
chín tuổi luôn bị bạn bè cốc đầu, đá dít. Hay như ba của Mận. Một người cha, người
chồng, bị bệnh tình nguyện bị nhốt trong căn phòng để tránh những tai tiếng của người
làng. Điều này cũng nói lên thực trạng của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Trước cái đói
nghèo, dịch bệnh, người dân có cái nhìn miệt thị với những người bị mắc bệnh được cho
là truyền nhiễm: “Chuyện ba con Mận lâu nay vẫn lén lút sống trên căn gác thoáng
chốc loang ra khắp làng. Chiều hôm đó đi đâu tôi cũng nghe người ta bàn tán về mỗi đề
tài này, bằng đủ thứ giọng: tiếc thương, trách móc, chê bai, tôi nghiệp…Người lớn tha
hồ đàm tiếu, đám con nít bu đen bu đỏ chung quanh vểnh tai hóng chuyện” [2, tr.179].
Có lẽ để giải thoát cho số phận, để tránh những ánh mắt, sự đàm tiếu của người làng vì
thế mà trở thành nguyên nhân của căn nhà bị cháy: “Chỉ trong một ngày, nhà nó cháy,
ba nó chết, mẹ nó bị bắt, cứ như địa ngục trút xuống đầu”. Điều đó đã làm cho Mận trở
thành chú chim non bơ vơ.
Có thể nói rằng, truyện của Nguyễn Nhật Ánh đã đem đến cho bạn đọc những cảm
xúc sâu lắng, những nốt lặng trong tâm tưởng bởi ông đã viết nên những mảnh đời con
người còn lam lũ với cuộc sống mưu sinh lắm vất vả, đói kém.
2.2.2.2. Những con người khao khát cuộc sống tốt đẹp
Sống là một hành trình dài và rộng mà ở đó luôn có hạnh phúc, niềm vui và có cả
những bất hạnh, éo le, những khổ đau mà cuộc sống mang lại. Và những éo le, khổ đau
ấy vô tình, phũ phàng dày vò, chà xát lên cuộc đời của bao người, đeo đẳng lấy cuộc đời
họ như sự an bài định mệnh của số phận. Phải chăng họ sẽ đầu hàng trước số phận, chấp
nhận cuộc đời mình ngụp lặn trong bế tắc và tuyệt vọng? Không, họ đã đứng lên bằng
ý chí, nghị lực, cố gắng để thay đổi số phận của chính mình. Họ đã viết sự kì diệu lên
36
trang đời của chính mình.
Họ luôn khao khát có một cuộc sống tự do và hạnh phúc. Đọc tác phẩm, chắc hẳn
ai cũng chung một cảm xúc, đó là sự nuối tiếc và những mong muốn điều kỳ diệu cho
mối tình chú Đàn, chị Vinh. Tình cảm đôi lứa trong sáng, xuất phát từ hai phía và nỗi
muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình nhiều trắc trở, do cánh tay cụt
gây ra. Chính sự cấm đoán của thầy Nhãn đã thôi thúc đôi lứa tìm ra một lối thoát. Khi
mùa lũ về kế hoạch bỏ trốn của chú Đàn, chị Vinh đã được thực hiện. Điều đó sẽ mở ra
một tương lai giữa chú Đàn và chị Vinh:
“Chú ngồi trên thềm giếng, ngẩng nhìn bóng trăng mờ nấp sau sương mù và lôi
cây acmônica ra thổi.
Tiếng kèn của chú bữa nay hoàn toàn không giống tiếng kèn nỉ non ngày nào.
Tôi ngạc nhiên khi nghe chú thổi một bản hành khúc có âm điệu vui tươi:
- Sao chú thổi bài này?
Chú Đàn nhét cây kèn vô túi áo, vui vẻ nói:
- Chú sắp đi tìm chi Vinh. Tường níu tay chú, mừng rỡ:
- Chị Vinh còn sống hả chú?
- Chú đoán vậy. - Chú Đàn ôm vai Tường - chị Vinh có phúc tướng, thế nào cũng
có người cứu.
Con Mận vọt miệng:
- Hồi chiều bạn Thiều cũng nói y như chú.
Chú Đàn cúi sát đầu vào ba đứa tôi, hạ giọng:
- Đây là chuyện bí mật, tụi con không được nói cho ai biết nghe chưa!
Ba đứa chúng tôi cùng “dạ” và không nghĩ chú Đàn lại bỏ nhà ra đi ngay khuya
hôm đó” [2, tr.246].
Bên cạnh những khát khao tự do của tình yêu đôi lứa, thì những khát khao về cuộc
sống no ấm, vui vẻ cũng không là ngoại lệ trong tác phẩm “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ
xanh” của Nguyễn Nhật Ánh. Với mong muốn cho các con có được cuộc sống ấm no,
mong trong bữa cơm gia đình có thêm miếng thịt, ba Thiều đã phải bỏ đi làm ăn xa, mẹ
Thiều thì chạy theo những chuyến xe đi buôn, những người dân làng: “Những người có
vốn liếng kha khá thì dựng lều hai bên đầu cầu bán nước ngọt, trứng gà, bánh mì, bánh
ít bánh ú, kẹo mè, kẹo đậu phộng cho khách sang xe. Người ít vốn hơn thì trải tấm ni -
lông bên vệ đường hoặc cắp thúng vô nách đi bán rao dọc các dãy xe đậu nối đuôi
37
nhau” [2, tr.260].
Trước những tình cảm gia đình thiêng liêng, thì tất cả mọi thành viên đều sống vì
nhau và nghĩ cho nhau. Đây là một điều mà Nguyễn Nhật Ánh muốn nói với chúng ta,
muốn thông qua truyện mang đến cho chúng ta cái nhìn, cái suy nghĩ sâu sắc hơn. So
với thời đại hiện nay khi con người với bộn bề cuộc sống, những vấn đề cơm, áo, gạo,
tiền cùng những vòng xoáy của xã hội đang bỏ bê tất cả để lao mình theo cuộc sống thì
những ước mơ về hạnh phúc gia đình luôn luôn đươc đề cao, đặt lên hàng đầu. Mối tình
chú Đàn, chị Vinh luôn khao khát ước mơ có được một gia đình nhỏ ấm áp. Ước mơ của
ông Tám Tàng chỉ với mong muốn con mình được sống trong sự bình yên trước những
bất hạnh không may đến với bé Nhi, sẵn sàng hy sinh vì con mình: “Ông Tám Tàng dời
nhà xuống xóm Miễu ngay ngày hôm sau. Ông đặt con Nhi trên chiếc xe bò, cạnh mớ đồ
đạc chẳng nhiều nhặn gì, lặng lẽ kéo đi giữa những ánh mắt u buồn từ trong các cửa sổ
nhìn theo. Ông bảo con ông được yên nghỉ ở một nơi chốn yên tĩnh và ông dĩ nhiên
không muốn rời khỏi con ông một phút giây nào” [2, tr.341]. Đối với ông Tám Tàng, tài
sản lớn nhất mà cuộc đời ban tặng ông là bé Nhi. Và bé Mận cũng thế, khao khát gia đình
đoàn tụ sau biết bao những biến cố mà em phải trải qua, sự chia li đối với một đứa trẻ là
quá sức với nó. Cuối cùng, cuộc sống cũng mỉm cười với Mận, mẹ Mận được thả về và
hai mẹ con đi tìm kiếm ba nó.
Những số phận con người, tưởng chừng như bế tắc, cùng quẫn nhưng vẫn tìm
được lối ra bằng một cách nào đó. Đây là điều đặc sắc trong truyện Nguyễn Nhật Ánh.
Với hai chữ “nghị lực” có sức nặng tình thương xuyên suốt tác phẩm, nhà văn đã mang
lại cảm giác ấm lòng cho bạn đọc.
2.2.2.3. Những con người nhân hậu
Trong tác phẩm “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” của Nguyễn Nhật Ánh, các
nhân vật được xây dựng mang nét đặc trưng riêng. Điểm chung ở các nhân vật đều là
những con người chất phác thật thà, những con người vùng quê nghèo lam lũ. Họ biết
quan tâm, cảm thương, chia sẻ giúp đỡ nhau như tình mẫu tử, tình anh em trong gia
đình. Những người làm cha, làm mẹ luôn hết lòng dành tất cả cho con cái của mình.
Trong tác phẩm ba, mẹ của hai anh em Thiều và Tường hết lòng vì các con. Trước cuộc
sống với cái đói, cái khổ chỉ mong có mấy miếng thịt trong mâm cơm gia đình, người
cha đã phải xa quê đi làm ăn, còn mẹ thì phải theo xe đi bán củi, đó là một đức hi sinh
38
vì xuất phát từ tình thương mà không một lời than oán.
Cha Thiều là một người cha chịu khó, ông phải đi làm ăn xa để lo cho kinh tế gia
đình, để đảm bảo đời sống cho các con. Cách ông đuổi theo chú Đàn mỗi khi trêu chọc
hai đứa nhỏ cho thấy một cách yêu, một cách bảo vệ rất riêng của ông. Cùng với cách
bảo vệ yêu thương con như thế, ta gặp một ông bố khác đó là ông Tám Tàng. Bé Nhi
con ông Tám Tàng vì mê gánh xiếc, mê mẩn hình ảnh công chúa mà đã bị tai nạn trong
một lần đoàn xiếc về làng. Ông Tám Tàng cũng chỉ vì thương con, ông không vì mục
đích gì hơn chỉ với mong muốn duy nhất đó là mang lại sự hạnh phúc cho bé Nhi, bù
đắp những bất hạnh ập đến với cô bé. Chứng kiến tình cảm cha con, ông Xung là một
thầy thuốc đã tận tình cứu giúp cho Bé Nhi:
- “Con gái của bác vẫn … vẫn … còn sống?
- Ờ, nó vẫn còn sống, con à. Lúc đó bác tưởng nó không thể nào qua khỏi. Buổi
tối, ông Xung lò dò đến xóm Miễu, bắt mạch cho con bé, cạy miệng nó đổ nhân sâm rồi
hốt mấy thang thuốc gì đó…” [2, tr.343].
Đã tưởng không thể qua khỏi, nên khi bé Nhi sống lại, ông Tám Tàng bằng lòng
sống cuộc sống “điên dại”, mơ hồ, hoang tưởng cùng con gái. Cô con gái nhỏ luôn
nghĩ mình là công chúa vì thế ông sẵn lòng đóng vai một đức vua: “Con Nhi dở tỉnh dở
điên, nhưng dù sao tôi thấy nó vẫn sống hạnh phúc trong thế giới riêng của nó. Ông
Tám Tàng chắc cũng nghĩ vậy nên ông mày mò may những bộ trang phục hoàng gia
cho hai cha con, thậm chí ép mình thay đổi cả cách xưng hô để con gái ông được chìm
đắm một cách yên bình trong cõi lãng quên. Khi chọn cách kỳ dị đó để chở che cho
con gái chắc ông Tám Tàng đau lòng lắm, tôi bùi ngùi nghĩ và có thể đó là lý do câu
chuyện cọp thành tinh ở xóm Miễu ra đời” [2, tr. 344]. Ông chuyển nhà xuống xóm
Miễu, sống xa cách với mọi người để bé Nhi tránh bị quấy rầy, chọc ghẹo. Những
người lớn xung quanh dường như cũng vào hùa cùng ông nên đã vẽ ra một câu chuyện
để dọa lũ nhỏ khiến chúng không dám bén mảng tới nơi ông sống. Suốt mấy năm ròng
ông Tám Tàng sống như thế, một mình gà trống nuôi con, hỗn loạn trong thật giả, mơ
thực để bé Nhi được sống bình yên nhất.
Hay như cha con Mận cũng chọn một cách rất cực đoan để giải thoát cho vợ con
mình. Ông tự đốt ngôi nhà của mình, giả vờ chết rồi bỏ đi thật xa để không làm khổ
39
vợ, khổ con. Cách ông xếp đặt mọi việc thật chu đáo, ông tính toán sao cho vợ không
thể tìm mình nhưng cũng không bị làm khó. Dẫu rằng ngôi nhà bị cháy, nhưng nó cũng
sẽ chôn vùi đi một người đàn ông bệnh tật phải sống chui lủi trên căn buồng nhỏ để vợ
con phải chăm sóc, đau lòng. Dẫu rằng ông phải xa vợ xa con nhưng lại tránh cho vợ
con những điều tiếng. Nhưng ông lại không tính hết được những nỗi buồn mà vợ con
phải chịu khi ông rời đi, không tính toán hết được những yêu thương mà vợ con dành
cho mình.
Không bàn rằng cách làm của ông Tám, ba con Mận hay của ba Thiều là đúng
hay sai, chúng ta chỉ có thể khẳng định rằng đó là những người cha hết lòng vì con của
họ. Họ yêu con mình, yêu gia đình của mình theo những cách khác nhau, họ hi sinh
bản thân cho những đứa con một cuộc sống mà họ nghĩ là tốt hơn. Thế giới người lớn
dường như thật phức tạp, đôi khi nó có cả những lời nói dối, những tính toán sắp đặt
nhưng nó cũng đầy ắp tình cảm và thương yêu.
Gia đình còn gắn liền với hình ảnh những người mẹ tần tảo. Mẹ của Thiều nhìn
những đứa con uể oải trong bữa ăn thiếu thịt mà không đành lòng, phải xoay xở đi
buôn: “Từ ngày mẹ tôi theo ông Tư Cang đi buôn, bữa ăn đã có thêm thịt. Cứ vài ngày,
mẹ tôi lại xách về một con gà. Có thể nói đây là toàn bộ số tiền lãi của mẹ tôi. Đi buôn
như vậy chẳng khấm khá gì, chỉ là lấy công làm lời. Nhưng mẹ tôi có lẽ chỉ mong có
thế. Ngắm những cặp mắt sáng rực của ba đứa tôi trước đĩa thịt gà bày giữa mâm cơm,
đó là niềm hạnh phúc của bà trong những ngày khó khăn” [2, tr.266]. Đó còn là mẹ bé
Mận, thân phận một người phụ nữ phải cáng đáng mọi việc trong gia đình: “Từ ngày
tiệm hớt tóc của ba con Mận đóng cửa, thế vào đó là tiệm tạp hóa bày bán đủ thứ lặt
vặt, không ai còn nhìn thấy ba nó nữa. Người ta nghi ông bị bệnh phong, mẹ con Mận
không dám để ông lảng vảng ở trước nhà. Ai hỏi, bà cũng bảo ông đang chữa bệnh trên
thành phố” [2, tr.130]. Đóng vai trò như một người làm trụ cột gia đình, bà lo cho con,
lo cho chồng trước những kì thị của dân làng về căn bệnh mà chồng bà mắc phải. Vượt
qua tất cả, bà âm thầm chịu đựng bỏ ngoài tai mọi lời bàn tán đó, vẫn lặng lẽ chăm sóc
chồng. Sở dĩ bà làm được điều đó là vì cái gọi là gia đình, tổ ấm để mang lại sự an toàn
chở che cho bé Mận.
Thế giới người lớn trong Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh còn là chú Đàn tuy cụt
một tay mà đàn giỏi, kể chuyện hấp dẫn; là thầy Nhãn nóng tính, khó tính nhưng yêu
con; là ông Xung nhân hậu dung túng cho Thiều ăn trộm táo tàu hay nói dối giúp ông 40
Tám Tàng bình yên sống với con Nhi ở xóm Miễu;… Trong thế giới đó có câu chuyện
tình yêu nhiều trắc trở của chú Đàn với chị Vinh, có những trận lũ lụt khiến cuộc sống
nghèo khó điêu đứng, có những lo toan của cuộc sống đời thường. Nhưng ấm áp nhất có
lẽ là tình làng nghĩa xóm, là những yêu thương và bao dung mà con người dành cho
nhau. Họ sống tình nghĩa, luôn giúp đỡ nhau vượt qua những khó khăn trong cuộc sống.
Trước hoàn cảnh đáng thương của nhà Mận, cô bé đã được gia đình Thiều giúp đỡ hết
sức. Mẹ Thiều chăm lo cho Mận như chính những đứa con của mình. Bà tinh tế khi
nhận ra nỗi lo lắng, buồn đau của Mận để bảo Thiều ở lại với Mận qua đêm, bà nhân
hậu khi dắt theo Mận về nhà chăm sóc lúc nhà nó sa cơ lỡ vận, còn Thiều thì luôn luôn
bên cạnh, sẵn lòng chia sẻ giúp bạn vượt qua những nỗi đau.
Một điều đáng nói ở đây chính là yếu tố thần tiên trong truyện Nguyễn Nhật Ánh
đã đem lại cái kết có hậu. Bao nhiêu mảnh đời gặp bất hạnh trong truyện đều dần dần
được hóa giải. Chú Đàn đến với người yêu, mẹ Mận được thả và ba Mận còn sống,
chàng phò mã Tường và cô công chúa Nhi đã đã khỏi những căn bệnh của mình. Một
câu chuyện đem lại quá nhiều cũng bậc cảm xúc, và Thiều đã thấy hoa vàng trên cỏ
xanh “cỏ dưới chân nó xanh biêng biếc nhưng ánh mắt tôi vẫn bắt gặp những cánh hoa
li ti đang kín đáo nở trong nách lá và điều đó cho tôi cảm giác rằng mùa hè khắc nghiệt
sắp sửa trôi qua” [2, tr.376]. Những bông hoa vàng xuất hiện trên cỏ xanh biếc là hình
ảnh biểu tượng cho những điều mới lạ xuất hiện khiến tâm hồn ta như được rót thêm
một màu tươi sáng. Phải chăng mùa hạ trôi qua thì mùa thu sẽ về, thời gian trôi đi thì
cuộc đời sẽ bước sang một trang mới tốt đẹp hơn?
***
Có thể nói rằng, Nguyễn Nhật Ánh là nhà văn chuyên viết cho thiếu nhi nên thế
giới nhân vật trong những đứa con tinh thần của ông chủ yếu là nhân vật trẻ em nhưng
nhà văn luôn biết cách đặt nhóm nhân vật này trong mối quan hệ với ông bà, bố mẹ,
anh chị… cùng với đó là mối quan hệ với thầy cô giáo. Nhóm nhân vật người lớn,
trong các sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh cũng là một thế giới nhân vật đa dạng, nhiều
chiều. Các nhân vật người lớn này không được Nguyễn Nhật Ánh tập trung miêu tả kĩ
càng như các nhân vật trẻ em mà họ xuất hiện ngẫu nhiên trong đời sống, sinh hoạt của
các nhân vật trẻ em. Nếu như ta bắt gặp ở Bộ truyện Kính vạn hoa đời sống của những
gia đình nơi thành thị, là những gia đình trí thức hay buôn bán nhỏ thì với “Tôi thấy 41
hoa vàng trên cỏ xanh” ta lại được cảm nhận một cách sâu sắc sự khó khăn, bất hạnh
của những con người chất phác thật thà nơi vùng quê nghèo lam lũ. Trong tác phẩm,
thế giới của người lớn không có nhiều đối lập với thế giới trẻ thơ. Người lớn và trẻ thơ
có mối quan hệ tương tác chặt chẽ. Đó là hình ảnh của cuộc sống đời thường nhiều
gian khó nhọc nhằn nhưng cũng ấm áp yêu thương. Đó là lối sống thẳng thẳn, bộc trực
nhưng tình nghĩa của người nông dân nơi làng quê nghèo khó. Họ hiện lên trong từng
trang sách với sự quan tâm và thấu hiểu trẻ em. Họ luôn dành tình cảm tốt đẹp nhất cho
các em. Họ luôn mong muốn đem lại cho các em một cuộc sống ấm no hạnh phúc và
hướng các em đến một tương lai tươi sáng. Họ truyền cho các em ngọn lửa niềm tin về
cuộc sống tốt đẹp, để các em biết ước mơ và thực hiện những ước mơ đó. Chính nhân
vật người lớn là môi trường, là yếu tố đồng hành để cho nhân vật thiếu nhi thể hiện
mình. Nhờ xây dựng thành công nhóm nhân vật người lớn này mà cuộc sống của các
em thiếu nhi trở nên gần gũi với bạn đọc. Các em nhỏ dễ dàng tưởng tượng ra hoàn
cảnh sống của các bạn trong truyện, cũng có gia đình giống mình, cũng đi học và có
thầy cô giáo giống như mình. Cũng từ đó Nguyễn Nhật Ánh giúp các em nhỏ cảm
nhận rõ rệt hơn tình yêu thương mà cha mẹ dành cho mình, công lao to lớn mà cha mẹ
hi sinh vì các con. Đồng thời còn giúp các em nhỏ yêu quý bạn bè xung quanh, tôn
trọng các thầy cô giáo. Và quan trọng hơn nữa là hướng các em đến những điều thiện,
những việc làm có ích. Nguyễn Nhật Ánh không tô hồng cuộc sống nhưng ông luôn
khám phá ra vẻ đẹp của cuộc sống để chúng ta thêm tin yêu.
2.2.3. Nhân vật là loài vật
“Khái niệm nhân vật thường được quan niệm với một phạm vi rộng hơn nhiều, đó
không chỉ là con người, những con người có tên hoặc không tên, được khắc họa sâu
đậm hoặc chỉ xuất hiện thoáng qua trong tác phẩm, mà còn có thể là những sự vật,
loài vật khác ít nhiều mang bóng dáng, tính cách của con người, được dùng như những
phương thức khác nhau để biểu hiện con người” [21, tr.126]. Động vật cũng là những
người bạn thân thiết với thiếu nhi bởi các em đang ở độ tuổi thích khám phá thế giới
quanh mình. Tạo dựng một thế giới loài vật sống động, ngộ nghĩnh là một trong những
phương diện góp phần tạo nên đặc sắc trong các tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh. Khi
viết truyện cho thiếu nhi, nhiều nhà văn chọn cách viết về thế giới loài vật như một ẩn
42
dụ về thế giới của con người như Dế mèn phiêu lưu ký của Tô Hoài, cũng có nhiều nhà
văn chọn miêu tả thế giới loài vật như một cách để làm rõ hơn thế giới của con người
trong mối quan hệ tương tác. Đối với trẻ em, tình cảm dành cho các loài vật khá lớn và
sâu sắc, nên khi viết về trẻ em các nhà văn hay miêu tả các con vật có thể gắn bó gần
gũi với trẻ em. Đương nhiên viết về loài vật cũng là một cách để viết về thế giới của
con người. Như vậy có thể thấy rằng các nhà văn chọn hướng tiếp cận thế giới các loài
vật khi viết truyện cho thiếu nhi một phần chính là vì tâm sinh lý lứa tuổi đó có sự gần
gũi nhất định với thế giới loài vật. Đồng thời hình ảnh thế giới loài vật cũng là một
cách truyền tải thông điệp giáo dục một cách nhẹ nhàng và sâu sắc hơn.
Với đặc điểm hồn nhiên, ngây thơ và tâm hồn trong sáng, trí tưởng tượng phong
phú, bay bổng, các em nhỏ đã cảm nhận thế giới bằng cái nhìn lạc quan, làm bạn với
vạn vật xung quanh; có thể lắng nghe được mọi âm thanh của cây cỏ; trò chuyện được
với muôn loài; hoà đồng với thiên nhiên. Khả năng tưởng tượng của các em là vô tận
và là một yếu tố không thể thiếu trong các tác phẩm văn học viết cho thiếu nhi. Vì vậy,
nhà văn phải thực sự hoà nhập với cuộc sống của trẻ thơ, sống hết mình với tuổi thơ
mới có thể tạo ra được sự liên kết với trẻ thơ trong sáng tác.
Thế giới loài vật trong truyện của Nguyễn Nhật Ánh gắn bó chặt chẽ với thế giới
con người và mang nét ngộ nghĩnh, đáng yêu. Trong “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ
xanh” có hình ảnh các con vật như con chó Vện nhà con Mận, con cóc Cu Cậu của
thằng Tường. Con cóc Cu Cậu được miêu tả chỉ là một con cóc tía sống ở hang dưới
chân giường của hai anh em được thằng Tường phát hiện và nuôi dưỡng:
“Con cóc đang ngồi chồm chỗm trước mặt tôi giống như mọi con cóc tôi từng
nhìn thấy: da xam xám, xù xì, dáng ngồi giống như vận động viên đang thủ thế trên bục
xuất phát để chuẩn bị thi chạy 100 mét. Khi tôi ngồi xổm xuống trước mặt nó tò mò
quan sát thì nó cũng giương cặp mắt lồi ra nhìn tôi đầy tư lự, có vẻ đang tự hỏi tôi là ai
mà bây giờ nó mới nhìn thấy.
Tôi đang ngắm nghía con cóc thì Tường ở ngoài bước vô.
- Con cóc mày nuôi đấy à? - Tôi hỏi.
- Dạ.
- Mày đem ở đâu về thế?
- Nó ở đây từ hồi nào đến giờ, tại anh không thấy đó thôi. Hang của nó ở dưới
43
chân giường mình.
Tường đáp và thảy xuống trước mặt con cóc bảy, tám xác ruồi nó vừa kiếm được
bằng cái vỉ đập ruồi đan bằng nan tre còn cầm trên tay.
- Thức ăn của mày nè, Cu Cậu?
Con cóc nhảy tới, cái lưỡi nhọn thò ra thụt vào nhanh như chớp, nhoáng một cái
mớ ruồi đã biến sạch” [2, tr.60].
Hằng ngày thằng Tường đi bắt ruồi, kiếm thức ăn cho con cóc nhỏ, nó nói chuyện
chăm sóc con cóc như chăm sóc một người thân. Con cóc Tía sống ở góc nhà ấy thực
ra gắn với một giấc mơ của thằng Tường, giấc mơ về nàng công chúa như trong câu
chuyện cổ tích thằng Tường hay kể mỗi tối cho Thiều nghe. Không ai khẳng định với
Tường rằng công chúa có thật hay không ở trên đời, dường như chỉ có con cóc Cu Cậu
là chia sẻ với Tường về giấc mơ đó. Một con cóc xấu xí nơi góc nhà nhưng đã trở
thành một người bạn thương yêu, chia sẻ biết bao chuyện. Tuy rằng con Cu Cậu không
được nhà văn miêu tả thật chi tiết nhưng nó đã trở thành một nhân vật để lại ấn tượng
trong câu chuyện của tuổi thơ.
Những chú chó, mèo, chuột trong các tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh vô cùng dễ
thương. Chúng giống như các cô cậu học trò hay nghịch ngợm, hay tò mò và thỉnh
thoảng cũng chợt say nắng với mối tình trong sáng. Lứa tuổi thiếu nhi là lứa tuổi giàu
lòng cảm thông, chia sẻ và yêu thương động vật. Chắc hẳn cô bé cậu bé nào cũng ao
ước có một chú mèo, chó bên cạnh làm bạn, nếu đã có rồi thì đối với những động vật
nhỏ bé ấy các em càng thấy gần gũi, yêu mến hơn. Có lẽ vì vậy, nhân vật loài vật
trong truyện của Nguyễn Nhật Ánh luôn được cái em đón nhận, thích thú. Tác giả
cũng đã nhận xét: “Tôi phát hiện ra trong bộ 12 con giáp, ngoại trừ con dê, còn lại con
vật nào cũng đã đi vào tác phẩm của tôi cả rồi” [23]. Rất nhiều người trong chúng ta
đều đã nuôi một con chó, mèo hoặc thường xuyên nhìn thấy một con chó, mèo nhưng
hầu hết chúng ta lại nghĩ rằng đó chỉ là một con vật nuôi. Nghĩa là chúng ta chẳng có
chuyện gì mà nói về loài vật nuôi quá quen thuộc này. Vậy mà khi đọc tác phẩm của
nhà văn Nguyễn Nhật Ánh, mỗi người bắt đầu nhớ về những con chó đã nuôi trong gia
đình mình. Một nỗi nhớ có thật và xúc động. Điều này có rất nhiều lý do. Nhưng lý do
44
quyết định chính là cách kể chuyện của nhà văn.
Nhân vật chú chó Vện trong truyện “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” được coi
như một người bạn thân thiết của bé Mận, chú chó được sống những ngày hạnh phúc ở
ngôi nhà nhỏ: “Con Vện nhà con Mận là một con chó già. Mắt nó bị lòa, gần như không
nhìn thấy gì. Tai và mũi nó không còn thính nhạy nữa, nhưng dĩ nhiên tôi vào nhà thì nó
vẫn biết. Nó nằm yên dưới gầm giường, mông quay về phía tôi và vẫy đuôi chào tôi một
cách biếng nhác. Con Vện giống hệt chủ của nó. Ba con Mận cũng bị bênh thong manh,
tôi nghe ba tôi nói thế. Trước đây, lúc mắt còn tinh, ông hành nghề cắt tóc. Ông là một
trong hai người thợ cắt tóc trong làng. Nhưng ông oách hơn, ông cắt tóc ở nhà, có treo
tấm giấy các-tông trước cửa, ghi nguệch ngoạc: HỚT TÓC. Ông thợ kia là người hớt
tóc dạo. Một thời gian dài, tôi cắt tóc chỗ ba con Mận” [2, tr.40].
Vốn được coi là loài vật thông minh, tình cảm, trung thành và rất gần gũi với con người,
nhưng người đọc vẫn vô cùng ngạc nhiên với những chú cún trong truyện của Nguyễn
Nhật Ánh. Không lạm dụng biện pháp nhân hóa để biến những con vật thành những con
người mà chỉ dùng câu chuyện của loài vật để nói chuyện loài người, do đó hình ảnh của
những chú chó hiện lên rất chân thực, mang đầy đủ những nét đặc trưng của loài vật này.
“Thủ pháp nhân cách hóa một con vật không được nhà văn sử dụng mà ông chỉ kể về
con vật bằng ngôn ngữ làm chúng ta tin rằng chúng ta đã đọc được ngôn ngữ của loài
vật này” (Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, báo Thanh Niên, 27-5-2007). Mỗi câu chuyện
mà Nguyễn Nhật Ánh mang đến cho các bạn đọc nhỏ tuổi đều có thể trở thành một bài
học thiết thực và bổ ích. Các bạn thiếu nhi yêu thích và say mê tìm đọc truyện của
Nguyễn Nhật Ánh có lẽ vì các cảm thấy thích thú bởi mình đang được nghe kể chuyện,
đang được tâm sự và sẻ chia.
Bằng cách nhân hóa các con vật, tác giả đã để cho chúng hoàn toàn chủ động trong
các hành động, các tình huống. Đôi lúc, ta bật cười vì bản tính của các con vật được bộc
lộ một cách hóm hỉnh, hài hước thông qua lăng kính thông minh, dí dỏm của tác giả.
Lứa tuổi thiếu nhi là lứa tuổi chủ yếu tư duy bằng hình tượng, lứa tuổi thường bị hấp
dẫn bởi những đường nét, hình khối, màu sắc. Vì vậy, việc minh họa cho tác phẩm thiếu
nhi sẽ làm tăng sức mạnh của nghệ thuật ngôn từ, giúp thiếu nhi đến với câu chữ và lĩnh
hội tác phẩm dễ dàng hơn cũng như tác phẩm sẽ để lại ấn tượng sâu đậm hơn trong các
em. Tác phẩm “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” rất giàu yếu tố tưởng tượng. Chính
45
đặc trưng này đã đem đến cho người đọc sự thích thú, hấp dẫn.
Các nhân vật loài vật trong truyện là những nhân vật chức năng đại diện cho
một kiểu người, một lớp người trong xã hội. Bằng ngòi bút tài hoa và bằng tình yêu
thương các em thiếu nhi sâu sắc, nhà văn đã góp một phần không nhỏ vào sự nghiệp
giáo dục trên thế giới. Truyện viết cho thiếu nhi của Nguyễn Nhật Ánh tràn đầy tư
tưởng nhân văn và ý nghĩa giáo dục. Mỗi câu chuyện không chỉ giúp chúng ta nhận
biết được một khía cạnh khác nhau của cuộc sống mà còn ẩn chứa một bài học hay một
thông điệp ý nghĩa. Với “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh”, mỗi con vật như mang một
số phận riêng, một tính cách riêng. Nguyễn Nhật Ánh như muốn chia sẻ rằng ai cũng
có ưu điểm và nhược điểm, mỗi người đều đáng yêu đều có giá trị theo những cách của
riêng mình. Vì thế chúng ta hãy biết yêu bản thân, tôn trọng sự khác biệt để cùng
chung sống hòa bình và yêu thương. Đến với tác phẩm, người đọc không chỉ được
tiếp xúc với một thế giới tuổi thơ trong trẻo và ngộ nghĩnh mà còn bắt gặp một thế giới
loài vật sống động. Những câu chuyện trong thế giới loài vật sinh động ấy lại được
lồng ghép với đời sống con người, với thế giới trẻ thơ. Đây cũng là một trong những
phương diện tạo nên sức hấp dẫn cho tác phẩm.
***
Thế giới nhân vật trong truyện Nguyễn Nhật Ánh phong phú và đa dạng. Đó là
nhân vật trẻ em vừa ngây thơ, vừa tinh tế nhạy cảm đã cho người đọc thấy những giá trị
sâu kín trong tâm hồn con người. Viết cho thiếu nhi, thế giới nhân vật trong truyện của
Nguyễn Nhật Ánh mang nhiều điểm chung với cách viết của Nguyễn Ngọc Thuần. Dù
cách khai thác và miêu tả có phần khác nhau nhưng cả hai đều thật, đều khiến người
đọc cảm thấy nhân vật gần gũi, chẳng quá xa xôi để hình dung. Và đôi khi nhân vật tự
miêu tả không bằng văn kể mà bằng những lời đối thoại, chỉ vài câu ngắn thôi, cũng
khiến chúng ta hình dung ra tính cách anh ấy, cô ấy hay cậu bé, cô bé ấy.
Trong tác phẩm, nhân vật trẻ em là nhân vật trung tâm, được nhắc đến nhiều nhất
với những em bé vừa thông minh, vừa nghịch ngợm nhưng cũng giàu lòng yêu thương
với những người xung quanh mình. Mỗi nhân vật thiếu nhi với một câu chuyện của
riêng mình đã đem đến cho người đọc những bất ngờ và thích thú. Nhân vật người lớn
với bố mẹ, thầy cô và những người hàng xóm luôn đồng hành cùng các em để giúp các
em định hướng và hoàn thiện nhân cách của mình. Họ luôn dành cho các em sự quan 46
tâm, yêu thương và động viên các em, nên họ chính là những tấm gương cho các em noi
theo. Trẻ em với tính cách tò mò, thích khám phá thế giới nên đối với các em, các con
vật và thiên nhiên gắn bó rất gần gũi. Các em coi những con vật như một người bạn của
mình và cũng biết trân trọng, bảo vệ chúng. Thế giới nhân vật trong tác phẩm “Tôi thấy
hoa vàng trên cỏ xanh” của Nguyễn Nhật Ánh là hệ thống nghệ thuật thống nhất nơi
mà các nhân vật có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, tác động lẫn nhau. Mỗi nhân vật
trong đó là một yếu tố của chỉnh thể, và các nhân vật đã tạo thành một chỉnh thể nghệ
47
thuật hoàn chỉnh.
Chương 3
NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG TÁC PHẨM
“TÔI THẤY HOA VÀNG TRÊN CỎ XANH”
Bên cạnh những đặc sắc về nội dung thì phương thức biểu hiện cũng là một
phương diện làm nên thành công trong các sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh. Bởi cùng
một đề tài nhưng cách viết, cách kể sẽ tạo nên sự hấp dẫn riêng cho từng tác phẩm. Viết
cho trẻ em điều này lại càng phải được người viết chú ý hơn. Trẻ em có cách nhìn thế
giới riêng có những nhu cầu tình cảm và thẩm mĩ riêng. Vì thế khi viết cho trẻ em, nhà
văn phải có cách dùng ngôn ngữ, hình ảnh, giọng điệu khác sao cho phù hợp với thế
giới trong trẻo và hồn nhiên của các em. Mặt khác, văn học trẻ em cần có tính giáo dục
nhưng giáo dục sao cho hiệu quả thì lại phụ thuộc rất nhiều vào cách chuyển tải thông
điệp hay chính là nghệ thuật biểu hiện của tác phẩm.
Mỗi nhà văn khi bước vào con đường sáng tác văn chương, đều muốn tạo cho
mình một cá tính sáng tạo, một phong cách riêng. Khảo sát thế giới nhân vật trong “Tôi
thấy hoa vàng trên cỏ xanh” của Nguyễn Nhật Ánh, chúng tôi nhận thấy nghệ thuật
xây dựng nhân vật của nhà văn được biểu hiện thông qua các yếu tố: miêu tả nhân vật
qua ngoại hình, hành động, miêu tả nội tâm và sử dụng ngôn ngữ. Việc sử dụng các thủ
pháp nghệ thuật sẽ giúp các nhà văn thành công trong công việc xây dựng hình tượng
nhân vật. Nhân vật cũng trở nên sống động, gần gũi với hiện thực đời sống và hấp dẫn
hơn với người đọc.
3.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình
Ngoại hình là dáng vẻ bên ngoài của nhân vật bao gồm y phục, cử chỉ, tác phong,
diện mạo... Ðây là yếu tố quan trọng góp phần cá tính hóa nhân vật.
Nếu như văn học cổ thường xây dựng ngoại hình nhân vật với những chi tiết ước
lệ, tượng trưng thì văn học hiện đại thường đòi hỏi những chi tiết chân thực và cụ thể
sinh động. M.Gorki khuyên các nhà văn phải xây dựng nhân vật của mình đúng như
những con người sống và phải tìm thấy, nêu lên, nhấn mạnh những nét riêng độc đáo,
tiêu biểu trong dáng điệu, nét mặt, nụ cười, khóe mắt...của nhân vật. Ngoại hình nhân
48
vật cần góp phần biểu hiện nội tâm, đây cũng chính là sự thống nhất giữa cái bên ngoài
và cái bên trong của nhân vật. Vì vậy, khi tính cách, đời sống bên trong của nhân vật
thay đổi, nhiều nét bên ngoài của nhân vật cũng thay đổi theo. Xây dựng ngoại hình
nhân vật, nhà văn cần thể hiện những nét riêng biệt, cụ thể của nhân vật nhưng qua đó,
người đọc có thể nắm bắt được những đặc điểm chung của những người cùng nghề
nghiệp, tầng lớp, thời đại. Những nhân vật thành công trong văn học từ xưa đến nay cho
thấy nhà văn bao giờ cũng chọn lựa công phu những nét tiêu biểu nhất để khắc họa nhân
vật.
Để xây dựng tính cách nhân vật, nhà văn Nguyễn Nhật Ánh rất chú ý đến việc
miêu tả ngoại hình. Cũng bởi nhân vật của nhà văn là những em bé thường hay quan sát
cuộc sống quanh mình, để khám phá và học hỏi. Ngoại hình là một khái niệm nhằm chỉ
toàn bộ những biểu hiện tạo nên dáng vẻ bề ngoài của nhân vật. Đó chính là những nét
về diện mạo, hình dáng, trang phục, cử chỉ, tác phong của nhân vật được thể hiện trong
tác phẩm. Ngoại hình cũng góp phần biểu hiện nội tâm nhân vật, do đó tìm hiểu ngoại
hình nhân vật chúng ta sẽ hiểu thêm những nét tính cách bên trong nhân vật.
Ngoài việc đặt cho nhân vật những cái tên độc đáo, Nguyễn Nhật Ánh còn chú ý
làm nổi bật một nét đáng nhớ trong bức chân dung của nhân vật. Trong bức tranh tổng
thể, các nhân vật của Nguyễn Nhật Ánh thường hiện diện với những nét rất riêng, đặc
biệt là đối với các nhân vật thiếu nhi. Miêu tả ngoại hình nhân vật, Nguyễn Nhật Ánh
thường chú ý đến các đặc điểm vóc dáng, trang phục, mái tóc,… những đặc điểm đó
vừa được tả toàn diện lại, vừa khắc họa những nét nổi bật nhất của nhân vật. Cách
miêu tả của nhà văn đã làm nổi bật lên tính cách của nhân vật. Trong tác phẩm “Tôi
thấy hoa vàng trên cỏ xanh”, nhà văn đã miêu tả nhân vật Tường hết sức chân
thực:“Tường là một thằng nhóc rất đẹp trai. Nó đẹp ngay từ khi còn bé. Tường mang
khuôn mặt thanh mảnh của mẹ tôi và đôi mắt to với cặp lông mi dài của ba tôi. Tóc nó
dày, mịn như tơ, da trắng hồng, miệng rộng với hàm răng trắng và đều tăm tắp như
những viên đá cuội được mài giũa và sắp xếp cẩn thận. Mỗi khi Tường cười có cảm
giác gương mặt nó đang tỏa sáng. Nụ cười đó, gương mặt đẹp như thiên thần đó luôn
đem lại cho người đối diện một niềm vui khó giải thích” [2, tr.42]. Qua đoạn miêu tả
ngắn về ngoại hình với đôi mắt to, cặp lông mi dài và làn da trắng hồng, nhà văn đã
khiến người đọc vô cùng thích thú vì nó đã nêu bật được nét dễ thương, đáng yêu của
cậu bé Tường - một chàng trai lém lỉnh với nụ cười tỏa sáng. Vẻ bề ngoài ấy cũng cho 49
ta cảm nhận được phần nào sự hiền lành, giản dị trong tính cách của cậu. Tường còn là
một cậu bé ham đọc sách :“Tường học hành ì ạch nhưng rất mê đọc sách. Trong khi tôi
chả bao giờ sờ tới một quyển sách thì thằng Tường đi đâu cũng nhét sách trong túi
quần. Quần không có túi thì nó lận sách vào thắt lưng. Bất cứ lúc nào rảnh là nó lôi
sách ra say sưa dán mắt vào những trang chữ. Nằm bò ra trên cỏ hàng giờ để đọc sách
đối với nó là một điều vô cũng thú vị. Nó đọc sách cả khi ngồi thõng chân trên thành
giếng hay đang vắt vẻo trên cành ổi sau vườn” [2, tr.52]. Nếu như Thiều học rất giỏi,
luôn là niềm tự hào của ba mẹ thì Tường lại học rất kém. Tuy vậy, Tường rất thích đọc
sách và có cả một thế giới trí tưởng tượng phong phú. Tường muốn sống trong thế giới
bay bổng của mình - nơi có hoàng tử, công chúa như trong truyện cổ tích mà Tường vẫn
thường say mê.
Như vậy, thông qua việc miêu tả ngoại hình nhân vật, Nguyễn Nhật Ánh đã phần
nào thể hiện được được cái đích mà mình hướng tới: khám phá bề nổi và hình thức của
nhân vật từ đó đi sâu khám phá thế giới nội tâm nhân vật.
Cách mà tác giả miêu tả thằng Dưa: “Thằng Dưa mười hai tuổi, bằng tuổi thằng
Tường, nhưng trông nó đẹt như đứa bé tám, chín tuổi, ra đường luôn bị bạn bè cốc đầu
đá đít” [2, tr.225]. Qua ngoại hình đó thấy được sự đói kém, cuộc sống nghèo khổ, bệnh
tật đè lên người đứa trẻ. Thế giới trẻ thơ của Nguyễn Nhật Ánh không tách rời với đời
sống hiện thực. Ông không đưa chúng vào một thế giới lãng mạn, mộng mơ mà chỉ đơn
giản là tái hiện lại đời sống của biết bao đứa trẻ quanh mình. Những khó khăn, những
bất hạnh mà đời người gặp phải thì những đứa trẻ cũng phải trải qua. Điều này cũng
cho thấy khả năng quan sát, mô tả tài tình, tạo ra cái nhìn hấp dẫn, sinh động của nhà
văn, mặt khác làm cho nhân vật hiện lên vừa ở mặt cụ thể cảm tính vừa ở chiều sâu bên
trong suy nghĩ.
Bằng những chi tiết miêu tả ngoại hình một cách chân thực mà tinh tế, Nguyễn
Nhật Ánh đã phần nào giúp bạn đọc hình dung ra được những nhân vật đáng yêu trong
tác phẩm. Đây cũng là điểm tựa để nhà văn xây dựng tính cách, hành động của nhân
vật.
3.2. Nghệ thuật miêu tả hành động
Hành động nhân vật là khái niệm nhằm chỉ các việc làm của nhân vật. Ðây là
phương diện đặc biệt quan trọng để thể hiện tính cách nhân vật vì việc làm của mỗi 50
người là căn cứ quan trọng có ý nghĩa quyết định nói lên tư cách, lí tưởng, phẩm chất
cũng như những đặc điểm thuộc về thế giới tinh thần của người đó. Hơn nữa, trong các
tác phẩm tự sự, tính cách nhân vật không phải ngay từ đầu đã được hình thành trọn vẹn.
Chính hành động có tác dụng bộc lộ quá trình phát triển của tính cách và thúc đẩy diễn
biến của hệ thống cốt truyện... Thông qua các mối quan hệ, sự đối xử giữa các nhân vật
trong những tình huống khác nhau, người đọc có thể xác định được những đặc điểm,
bản chất của nhân vật. Thông thường, khi miêu tả hành động nhân vật, nhà văn thường
kết hợp với những biểu hiện nội tâm tương ứng vì đằng sau mỗi hành động, bao giờ
cũng có một tâm trạng hoặc một động cơ nào đó.
Hành động của con người xuất phát từ tình cảm, từ suy nghĩ, thái độ hay thói
quen. Vì vậy qua hành động, chân dung nhân vật được hé lộ một phần. Các nhân vật
trong tác phẩm “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” cũng vậy.
Những đứa trẻ lứa tuổi học trò với sự hồn nhiên, xen lẫn suy tư, đây là khoảng thời
gian mà tất cả các cung bậc cảm xúc đang bị xáo trộn mà những đứa trẻ đang trải qua.
Như sự ngây thơ hồn nhiên của nhân vật Thiều khi ngồi phơi tay: “Từ khi nhận ra điều
đó, tôi có thói quen thò tay ra ngoài cửa sổ bên bàn học. Tôi tắm hai bàn tay của mình
trong mưa để thấy những đầu ngón tay nhăn nheo như câu đố bọn trẻ con chúng tôi hay
đố: “Một cây mà có năm cành / Nhúng nước thì héo để giành thì tươi”. Rồi sau đó tôi
phơi chúng trong nắng như mẹ tôi vẫn phơi quần áo ngoài bờ dậu để hong khô những
ngón tay dưới ánh mặt trời và nghe gió cù mơn man nhồn nhột” [2, tr.19]. Thiều có thói
quen ngắm đôi bàn tay, phơi tay khi ướt và hay suy nghĩ về đôi bày tay của mình, coi
đôi bàn tay cũng như con người, là một người bạn thân. Điều đó cho thấy Thiều là
người rất đa cảm mang vẻ đáng yêu, hồn nhiên, trong trẻo của tuổi mới lớn.
Tường cũng hồn nhiên, trong sáng và tràn đầy hi vọng với nhiều niềm tin vào
cuộc sống, mong muốn những điều tốt đẹp, tin tưởng là sẽ có phép màu xuất hiện.
“Tường vạch áo, đặt con chuồn chuồn vào giữa rốn” [2, tr.105] như để chứng minh cho
Thiều thấy câu chuyện chuồn chuồn cắn rốn là có thật. Thế giới của trẻ con thực ra rất
đơn giản. Chúng sống hồn hậu, yêu ghét rõ ràng, ít lừa dối chính mình và càng không
lừa dối lẫn nhau.Tình yêu thương của bọn trẻ trước tiên là dành cho những con vật xung
quanh chúng. Tường yêu một con Cóc Tía, chăm chút cho nó như một người bạn, nói
chuyện với nó hàng giờ, kiếm thức ăn cho nó,… Vì thế khi con Cóc Tía bị mất, Tường
51
buồn đến phát ốm:
“Kể từ lúc đó, Tường giống như kẻ bị nỗi buồn đánh gục. Nó không còn là đứa trẻ
vui vẻ hoạt bát như mọi ngày. Nó cũng chẳng buồn rủ rì rù rì với con Mận.
Nhiều lúc tôi gặp nó ngồi khóc sau hè, với chiếc vỉ đập ruồi để trước mặt và con
Mận ngồi buồn xo cách đó một quãng.”
… “Tường thổn thức đáp, giọng nó cất lên từ chỗ nào đó lơ lửng giữa đầu và
ngực nghe nghèn nghẹt, và tuy nó cúi gằm đầu tôi vẫn thấy nước mặt đã lại ứa ra trên
mặt nó” [2, tr. 233 – 234]. Con Cu Cậu bị ông Năm Ve bắt để nấu cháo cho thằng Dưa.
Nguyên nhân sâu xa hơn là vì lòng đố kị của Thiều mà con cóc nhỏ đã không được cứu.
Tường đau khổ, buồn bã nhưng chẳng mảy may nghi cho anh trai mình. Cuối cùng con
Cu Cậu cũng không còn để chia sẻ giấc mơ viển vông của Tường, không còn là một
người bạn nơi xó nhà chờ Tường mang những con ruồi đến, không còn lắng nghe tiếng
nói chuyện của Tường với Mận… Con Cu Cậu cuối cùng cũng không thể đưa ước mơ
sâu thẳm của Tường trở thành hiện thực. Với nhân vật Tường, một con cóc đáng quý
không chỉ vì nó mang trong mình một viên ngọc quý mà trên hết nó giống như một
người bạn. Những hành động toát lên sự tiếc nuối ấy đã cho thấy rằng trẻ con có cách
đối đãi với động vật dường như rất nhân hậu và tràn đầy yêu thương.
Nếu hai anh em Thiều và Tường hiện lên trong từng trang sách với sự hồn nhiên,
ngây ngô thì nhân vật Sơn lại là một kiểu nhân vật khác hoàn toàn: “Tôi không biết con
Bé Ba có thích lại thằng Sơn thật hay không, hay bị thằng này đem tiền ra dụ dỗ mà
người ta đồn thằng Sơn nhiều lần rủ con Bé Ba chui vô bụi cây tâm sự, bị ông Tư Cang
xách rựa đi lùng như lùng mấy thằng đánh bả chó” [2, tr.143]. Hành động của Sơn cho
thấy cậu ta là một đứa trẻ hư hỏng, thiếu sự giáo dục, luôn muốn lợi dụng bạn gái. Đây
là nhân vật phản diện trong tác phẩm. Một nhân vật hay cậy lớn ức hiếp bé, suốt ngày
bày trò phá làng phá xóm, lại hay nói những lời khiếm nhã và thô tục, đặc biệt đây là
nhân vật thể hiện tính dục ở tuổi mới lớn, một vấn đề rất đáng báo động ở lứa tuổi này.
Có thể nói, thể hiện tính cách nhân vật qua miêu tả hành động là một thủ pháp cơ
bản trong nghệ thuật xây dựng nhân vật. Hành động là những việc làm cụ thể của nhân
vật trong các quan hệ ứng xử với các cá nhân khác nhau và trong những tình huống
khác nhau của cuộc sống. Hành động được xem như là kết quả cuối cùng của quá trình
nhận thức, quá trình tâm lý, quá trình tình cảm. Qua hành động, Nguyễn Nhật Ánh
muốn để cho nhân vật của mình nói lên những suy nghĩ, tư tưởng, trạng thái diễn biến
52
bên trong.
3.3. Nghệ thuật miêu tả nội tâm
Độc thoại nội tâm là khái niệm chỉ những suy nghĩ, cảm xúc bên trong tâm hồn
của nhân vật trước những tình huống mà nhân vật trải qua. Yếu tố nội tâm là một thử
thách với nhà văn bởi tâm lý con người rất khó nắm bắt và mỗi nhân vật lại có tính cách
riêng, cách suy nghĩ riêng với cảm nhận khác về thế giới, con người và các sự việc xung
quanh mình. Trong truyện thiếu nhi cũng có lúc các em tự độc thoại với chính mình để
tìm ra cách giải quyết hoặc suy nghĩ về một vấn đề nào đó.
Nội tâm nhằm chỉ toàn bộ những biểu hiện thuộc cuộc sống bên trong của nhân
vật. Ðó là tâm trạng, suy nghĩ, phản ứng tâm lý của nhân vật trước tình huống gặp phải
trong cuộc đời. Sự biểu hiện hợp lí và sâu sắc nội tâm góp phần rất lớn tạo nên sức sống
của nhân vật. Muốn nói lên sự thật về tâm hồn con người, nói lên những điều bí ẩn
không thể diễn tả bằng ngôn ngữ thông thường được. Ðể làm được điều đó, nhà văn
phải hiểu sâu sắc cuộc sống và con người, nắm bắt được những biểu hiện và diễn biến
dù nhỏ nhặt nhất đời sống bên trong của nhân vật. Nguyễn Nhật Ánh quan tâm đến việc
thể hiện nội tâm của nhân vật trong tác phẩm bởi đó là sự am hiểu của tác giả về tâm lí,
suy nghĩ của nhân vật. Nguyễn Nhật Ánh đã xây dựng nhân vật của mình qua những chi
tiết thể hiện nội tâm nhân vật. Nhân vật Mận được tác giả miểu tả với nỗi buồn trước
hoàn cảnh éo le của gia đình: “Đầu vẫn gục thiểu não trên cánh tay, tóc xõa lệch một
bên vai, nó ngồi co rút trong bóng chiều trông như một pho tượng cô đơn được nỗi
buồn chạm trổ và đem đặt trước cửa nhà từ thời nào xa lắm” [2, tr.181]. Mận không chỉ
phơi những ngón tay như Thiều mà còn phải phơi cả gương mặt thấm đẫm nước mắt.
Mận học rất kém vì không còn thời gian để học, phải phụ mẹ chăm người bố bị bệnh
sống cách ly với mọi người. Gia đình Mận như bị đẩy đến tận cùng khi ngôi nhà bị
cháy, mẹ phải đi tù.Trong đêm, Mận phải ở một mình trong căn nhà đó như một đứa
trẻ bơ vơ sợ hãi với mọi điều xung quanh. Với nhân vật Mận, Nguyễn Nhật Ánh không
đi sâu vào miêu tả ngoại hình nhưng Mận lại có đời sống nội tâm phong phú và sâu sắc.
Việc dùng thủ pháp độc thoại nội tâm là một trong những phương thức hữu hiệu
để khắc họa tính cách nhân vật. Khi nhà văn để nhân vật độc thoại sẽ bộc lộ được suy
nghĩ của mình về những vấn đề thầm kín thuộc về bản thân và những người xung
quanh: “Những giọt nước mắt của con Mận làm mềm trái tim tôi. Tôi tò mò ngắm khuôn
mặt nó, cảm thấy tâm hồn nó dường như xa vắng lắm. Tự nhiên tôi ước giá như tôi chưa 53
từng thốt ra những lời lẽ lỗ mãng vừa rồi” [2, tr.130]. Tâm trạng xen lẫn những suy tư,
những tình cảm của tuổi mới lớn nhưng có lẽ đáng chú ý hơn cả là Thiều đang có
những lo lắng cho tương lai của Mận hơn.
Nhân vật trong “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” là những nhân vật với câu
chuyện xoay quanh đời sống sinh hoạt hàng ngày, các nhân vật hiện lên với đặc điểm
tâm lý vừa mang tính trẻ con, vừa mang tính người lớn nhưng lại rất năng động, tự chủ
trong mối quan hệ đa chiều với thế giới xung quanh. Đặc biệt, mỗi nhân vật là một tính
cách, một cá tính riêng khó nhầm lẫn. Nhân vật trẻ em trong truyện Nguyễn Nhật Ánh
còn được tiếp cận từ nhiều hoạt động và bộc lộ nhiều trạng thái tâm lý. Với những trang
văn thể hiện dòng ý thức độc thoại nội tâm của nhân vật, nhà văn đã cho thấy trong
những tâm hồn trẻ thơ cũng chứa đầy những suy nghĩ day dứt, khôn nguôi.
3.4. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ
Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên mà bạn đọc tiếp cận khi chạm tới một tác phẩm. Văn
học là nghệ thuật của ngôn từ, chính vì vậy không thể có một tác phẩm hay nếu không
có một lớp ngôn ngữ đẹp. Cách sử dụng ngôn ngữ của mỗi nhà văn vừa thể hiện khả
năng cảm thụ đời sống, vừa cho thấy thái độ lao động của nhà văn với công việc của
mình. Một nhà văn chân chính thường không dễ dãi với từ ngữ mình sử dụng. Ngôn
ngữ giống như một mỏ quặng mà người cầm bút phải miệt mài khai thác để mang đến
những sản phẩm giá trị. Khi tìm hiểu về tác phẩm, phong cách một tác giả vì thế cũng
không thể bỏ qua yếu tố ngôn ngữ.
Giống như rất nhiều nhà văn viết cho thiếu nhi khác, Nguyễn Nhật Ánh khi viết
truyện cho tuổi học trò cũng phải chú ý đến lớp từ vựng mà mình sử dụng. Đó trước
tiên phải là lớp từ vựng gần gũi với đời sống. Bởi với trẻ em những lớp từ ngữ cầu kỳ,
trau chuốt, hàn lâm lại thường không thể hấp dẫn bằng chính ngôn ngữ mang tính trực
quan sinh động của đời sống. Mặt khác, do tâm lý lứa tuổi nên cách các em dùng từ
ngữ cũng hết sức hồn nhiên. Dẫu có triết lý già dặn thì vẫn là cái già dặn của một đứa
trẻ, không phải là sự trải đời của một người lớn. Vì vậy, một tác phẩm văn học thiếu
nhi được coi là thành công về mặt ngôn ngữ là phải giữ được sự trong trẻo và hồn
54
nhiên trong cách sử dụng từ vựng.
Ngôn ngữ nhân vật là một trong các phương tiện quan trọng được nhà văn sử
dụng nhằm thể hiện cuộc sống và cá tính nhân vật [23]. Ngôn ngữ nhân vật bao giờ
cũng phải đảm bảo sự kết hợp giữa cá thể và tính khái quát. Trong nhiều tác phẩm,
ngôn ngữ truyện kể là thứ ngôn ngữ của trẻ con, mà đối với người lớn thì ngôn ngữ trẻ
con cũng giống như một thứ ngoại ngữ. Qua khảo sát, chúng tôi thấy nhà văn đã sử
dụng ngôn ngữ độc thoại và đối thoại để miêu tả tính cách nhât vật. Bên cạnh đó,
Nguyễn Nhật Ánh còn rất sáng tạo khi đưa lời ăn tiếng nói hằng ngày vào trong tác
phẩm, điều đó làm cho hệ thống ngôn ngữ càng thêm phong phú, đa dạng, vừa giàu sắc
thái biểu cảm của ngôn ngữ nghệ thuật, lại vừa có sự dung dị của ngôn ngữ đời thường.
Ngôn ngữ là chất liệu, phương tiện biểu hiện mang tính đặc trưng của văn học.
Mỗi nhân vật trong tác phẩm “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” của Nguyễn Nhật Ánh
đều là một thế giới riêng với một đời sống tâm hồn riêng, với tình cảm, tâm lý lứa tuổi
khác nhau. Từ cách suy nghĩ, đến tình cảm, niềm vui, nỗi buồn và cách nói chuyện.
Trong tác phẩm của mình, Nguyễn Nhật Ánh đã sử dụng những câu văn giàu hình
ảnh như cách trẻ em quan sát và cảm nhận cuộc sống: “Hai bàn tay của ta giống như
những người bạn thân, luôn chia sẻ với ta mọi vui buồn trong cuộc sống. Bạn cứ ngẫm
mà xem, có phải khi bạn mừng rỡ hay phấn khích, hai bàn tay hăng hái vỗ vào nhau để
nhân đôi niềm vui trong lòng bạn. Khi bạn khóc, hai bàn tay lại thay phiên nhau kiên
trì lau khô những giọt lệ lăn tròn trên gò má bạn. Hai bàn tay lúc đó giống như những
chú chim vàng anh trong cổ tích, cần mẫn tha từng hạt cườm long lanh trên mặt bạn
đem gửi bào nắng, vào gió, vào mưa đẻ một phút chốc sau sự tươi tỉnh lại nhuộm hồng
gương mặt mới đây còn tái xanh của bạn”.[2,tr 119] Những hình ảnh được miêu tả
không phải là những hình ảnh mĩ lệ hay xa lạ mà nó là những hình ảnh gần gũi với thế
giới trẻ thơ như nắng, gió, mưa, hạt cườm,…Tất cả đều là những thứ hằng ngày gắn bó
với tuổi thơ của mỗi người. Cái hay là khi miêu tả những hình ảnh đó, Nguyễn Nhật
Ánh vẫn giữ được những nét trong trẻo như chính cách nhìn của trẻ nhỏ vậy.
Vì ngôn ngữ của trẻ em và của người lớn là khác nhau. Trẻ em dường như hiểu
nghĩa trong sáng và đơn thuần nhất của ngôn từ nên chúng dùng ngôn từ một cách chân
thực như nghĩa vốn có của từ ngữ. Vì thế, thằng Thiều khi viết thơ tình cho con Xin
55
cũng bắt chước người lớn bị thầy Nhãn bắt phạt:
“Nắng mưa là chuyện của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”
Ngôn ngữ trẻ thơ thật tươi vui sống động, nó làm chúng ta bật cười trước những tình
huống hiểu lầm và dường như càng làm chúng ta trân trọng hơn sự trong trẻo ngây thơ
của tuổi thần tiên. Đôi khi, có những đoạn đối thoại hết sức tươi vui, ngộ nghĩnh:
“Có lần con Mận qua nhà tôi chơi, thấy tôi đang thò tay ra bên ngoài cửa sổ, liền
trố mắt:
- Bạn đang làm gì vậy?
- Tao đang phơi những ngón tay. Mày có bao giờ phơi những ngón tay không?
- Không.
- Thế khi tay mày bị ướt mày làm gì?
- Mình lau vào quần
- Tôi kêu lên:
- Eo ơi, ai lại lau tay vào quần! ” [2, tr 19-20]
Chính những mẩu đối thoại chẳng giống ai như vậy lại thể hiện một thế giới rất
trẻ thơ bởi trẻ em có những logic riêng của mình. Trong truyện của Nguyễn Nhật Ánh
vì kể chuyện ở ngôi thứ nhất nên ngôn ngữ độc thoại cũng khá nhiều, nhưng không vì
thế mà đối thoại mất đi những đặc sắc của nó. Có thể nói Nguyễn Nhật Ánh rất chú ý
tới việc xây dựng ngôn ngữ đối thoại sao cho toát lên được tính cách của nhân vật và
đặc biệt là thể hiện được sự dí dỏm của nhà văn.
Qua những lời đối thoại chúng ta có thể hiểu, nắm bắt được tâm lý của mỗi nhân
vật. Nhân vật Tường thật thà, còn người anh khi thì tốt bụng, khi thì xấu tính những
cũng rất thương em:
“ Chết rồi! Chảy máu, mày ơi! Tường lo lắng:
- Nhiều không anh?
- Hơi hơi thôi.
- Mày đứng lên đi. Tao dìu mày vô nhà lấy thuốc sức. Tường đi bên cạnh tôi, mếu
máo:
- Sao anh lại ném em? Anh bảo là anh đầu hàng rồi kia mà!
56
Thằng Tường nghe tôi ba hoa, phục lăn. Nó quên mất cơn đau âm ỉ chỗ màng
tang, miệng xuýt xoa:
- Mưu mẹo của anh hay thật. Em chả nghi ngờ gì cả. Lớn lên nếu đi đánh giặc thế
nào anh cũng làm tới đại tướng.
- Chắc chắn rồi!
Tôi đáp, bụng ngập tràn hối hận. Tôi đã lừa em tôi, đã làm nó bị thương, thế
nhưng nó vẫn luôn hồn nhiên tin tưởng tôi, kể cả những lời bốc phét khó tin nhất” [2,
tr.45]. Đoạn đối thoại trên đã lại cho thấy sự khác biệt giữa một cậu em hiền lành, thật
thà, cả tin và sùng bái ông anh với một ông anh láu cá, khôn lỏi, biết sợ, biết thương em
nhưng có phần hơi ích kỉ, luôn nghĩ cho mình trước. Như vậy, đối thoại trong truyện
của Nguyễn Nhật Ánh đã rất hiệu quả trong việc phản ánh tâm lý nhân vật.
Phải nói rằng, ngôn ngữ trong sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh vừa có màu sắc
vùng miền mang chất của vùng Nam – Trung bộ, vừa thể hiện rất rõ đặc tính của văn
học thiếu nhi với các lớp từ giàu hình ảnh, cách đối thoại hóm hỉnh thể hiện trực tiếp
bản tính nhân vật, cách dùng ngôn ngữ sinh động, trực quan gần gũi với đời sống hằng
ngày.
Sức hút của truyện Nguyễn Nhật Ánh còn nằm ở giọng điệu trẻ thơ. Trong “Tôi
thấy hoa vàng trên cỏ xanh” có rất nhiều đoạn đối thoại vì các em thích nói chuyện,
trao đổi những câu chuyện của mình với gia đình, bạn bè. Qua những lượt đối thoại đó,
chúng ta cũng có thể hiểu được một phần suy nghĩ, tình cảm của các em. Dí dỏm và hài
hước nhưng truyện Nguyễn Nhật Ánh không hề suy giảm tính giáo dục. Chính điều này
làm nên điểm hấp dẫn trong nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Nhật Ánh. Đi tìm hiểu
ngôn ngữ trong những tác phẩm viết cho thiếu nhi của các tác giả cùng thời với Nguyễn
Nhật Ánh, chúng tôi nhận ra ngôn ngữ tác phẩm của các tác giả đều được được gọt giũa
tỉ mỉ, công phu. Khi đến với những tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh, người đọc có cảm
giác tác giả viết với tốc độ nhanh nên việc lựa chọn câu chữ ít có sự gia công, gọt giũa.
Song, chính trường từ vựng ấy đã tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm vì nó phù hợp với
thị hiếu, với gu ăn nói của trẻ em hôm nay mà vẫn không làm mất đi tính thẩm mỹ của
câu chữ tiếng Việt. Đó không phải là ngôn ngữ chém to kho mặn, có thế nào đưa hết
vào trang sách thế ấy, nhưng ngôn ngữ qua trang văn của anh đã lột tả được khẩu khí
57
của trẻ thơ một cách chân thực qua cách nói năng, cách dùng từ của các em.
Có thể nói, nếu như không có khả năng quan sát tinh tế thì nhà văn không thể viết
được những trang văn sống động và thật đến như vậy. Dường như các từ ngữ đã được
đặt sẵn ở miệng nhân vật và cứ thế bật ra như bản tính của các em, không toan tính,
không cân nhắc và không gượng ép. Nguyễn Nhật Ánh đã khéo léo gài từ ngữ trẻ thơ
vào trong thế giới của chính các em làm cho ngôn ngữ tác phẩm cũng là một yếu tố hấp
dẫn bạn đọc. Ngôn ngữ trẻ thơ không chỉ được thể hiện ở trường từ ngữ trong đời sống
sinh hoạt của bọn trẻ, trong những cuộc giao tiếp, đối thoại ở trường, ở nhà và ở ngoài
xã hội… mà còn được thể hiện ở cách các em sử dụng các biện pháp tu từ đặc biệt là so
sánh, ẩn dụ, nhân hoá trong lối ăn nói của mình.
Có thể nói, giọng điệu hồn nhiên, ngộ nghĩnh là một trong những yếu tố giúp cho
Nguyễn Nhật Ánh lột tả khá chính xác tâm tính của bọn trẻ trong thế giới trẻ thơ. Cái
chất hồn nhiên, ngộ nghĩnh ấy thấm vào trong từng câu nói, từng lời đối đáp và trong
những chi tiết, hình ảnh và sự kiện. Dù nhà văn tiếp cận các em như là những cá nhân
năng động, tự chủ, có cá tính nhưng vẫn không mất đi tính hồn hậu vốn rất trẻ con trong
mỗi nhân vật.
Tôi bắt gặp trong “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” là một thế giới đầy bất ngờ và
thú vị với những suy ngẫm giản dị đến lạ, giúp ta soi mình trong đó một chút của bản
thân khờ khạo, một chút ký ức về tuổi thơ tươi đẹp,…Tôi thấy mình của ngày hôm qua
trong từng trang sách. Tôi thấy cánh diều nhỏ bay giữa trời, thấy mình ngỗ nghịch, hơn
thua, tôi thèm viết một bức thư tay ngày ấy, thèm một buổi chiều hóng gió sau bãi đất
đầy hoa vàng, đỏ, xanh,...Tôi thấy sự nhọc nhằn của ba, thấy bao lo toan của mẹ, thấy
con người trên đất nước này đã được bước qua khổ đau như thế nào…
Tại lễ trao thưởng văn học ASEAN tại Thái Lan, Nguyễn Nhật Ánh đã nói: “Mỗi
dân tộc đều có treo một quả chuông trước của sổ tâm hồn của mình. Nhà văn có sứ
mệnh phải rung nó bằng văn chương. Và thế, tôi thấy mình ở trên cỏ xanh”. Đúng thế,
Nguyễn Nhật Ánh đã rung lên chạm đến tuổi thơ đầy màu sắc của độc giả, để khi con
tàu của nhà văn trở về với tuổi thơ thì người ta khó lòng bỏ qua một tấm vé cùng ông
58
lên chuyến tàu ấy.
***
Như vậy, khi nói về nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tác phẩm “Tôi thấy hoa
vàng trên cỏ xanh”, chúng tôi đã chú ý đến các phương diện: nghệ thuật miêu tả ngoại
hình, hành động, nội tâm và ngôn ngữ. Trong đó, nhân vật được khắc họa đầy đủ trên cả
hai phương diện ngoại hình và nội tâm, với những nét đáng yêu của trẻ thơ lại vừa có
những tình cảm yêu thương gia đình, bạn bè và những người xung quanh qua hành
động, ngôn ngữ, cử chỉ của mình. Tính cách và suy nghĩ của mỗi đứa trẻ được biểu hiện
qua lời nói hàng ngày của chúng và ở cả những suy nghĩ thầm kín không được nói ra
bằng cách nhà văn sử dụng giọng điệu triết lý và hài hước cá tính. Nguyễn Nhật Ánh
quả thật là người thấu hiểu tâm lý trẻ và là người bạn thân thiết của trẻ. Chính nhờ vậy
các tác phẩm của anh mới nhận được nhiều sự quan tâm của bạn đọc bởi một văn phong
59
trong trẻo, nên thơ và gần gũi.
KẾT LUẬN
1. Nguyễn Nhật Ánh xuất hiện trên văn đàn văn học thiếu nhi Việt Nam như một
hiện tượng, với số lượng tác phẩm và bản in kỉ lục. Bằng tác phẩm của mình, Nguyễn
Nhật Ánh đã thực sự hấp dẫn được thiếu nhi đến với sách, nuôi dưỡng tình yêu văn
chương của nhiều thế hệ độc giả trong suốt hơn 30 năm cầm bút.
Bằng khả năng tìm tòi, tiếp cận cái mới, tạo phong cách mới, Nguyễn Nhật Ánh
đã thổi một cơn gió lạ cho văn học thiếu nhi trong nước. Truyện của ông như những
thỏi nam châm thu hút và chinh phục độc giả ở nhiều thế hệ từ khắp vùng miền Tổ
quốc, thậm chí vượt ra khỏi biên giới Việt Nam. Từ những câu chuyện dí dỏm, hài
hước nhưng không kém phần sâu sắc và ấm áp đến những cảm xúc của thời học sinh
ngây thơ hồn nhiên, những rung động đầu đời của những cô câu học trò, Nguyễn Nhật
Ánh đã tái hiện lên một thế giới tuổi thơ vô cùng rộng lớn và sinh động. Với lối viết
gần gũi và dí dỏm, Nguyễn Nhật Ánh đã đưa phép màu của mình vào trong từng tác
phẩm. Dưới bàn tay của ông, từng khu vườn bé nhỏ, đơn sơ đã trở thành một thế giới
đầy sức sống; những con ngõ, ngọn đồi cũng trở thành một khung cảnh thần tiên với
muôn vàn màu sắc,…Chính tâm hồn bay bổng đó đã đưa hàng triệu trái tim cùng
chung một nhịp đập, một tình yêu với quê nhà, thôi thúc trong mỗi người đọc mong
muốn tìm về nơi chốn dấu yêu, ngọt ngào tưởng đâu vùi quên trong ký ức.
2. Đọc tác phẩm Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh của Nguyễn Nhật Ánh, thế giới
nhân vật hiện lên phong phú và đa dạng, mỗi nhân vật mang một cá tính riêng. Đó là
những nhân vật trẻ em đang ở lứa tuổi học trò. Chúng có những tình bạn tốt đẹp, tình
thầy trò thắm thiết, với nhiều mơ mộng và có nhiều biểu hiện của tuổi mới lớn. Đó vừa
là tình bạn, vừa là sự quý mến của một thứ tình cảm khác giới. Ở nhóm nhân vật này,
ta còn bắt gặp một vài đứa trẻ ranh mãnh, là nhân vật phản diện của tác phẩm.
Bên cạnh nhân vật trẻ em là nhân vật người lớn. Họ đóng vai trò hết sức quan
trọng. Dù cuộc sống khó khăn vất vả, dù phải chịu những thiên tai, bão lụt nhưng vẫn
luôn quan tâm, thấu hiểu tâm tư tình cảm và dành tình cảm tốt đẹp nhất cho các em.
Họ luôn mong muốn đem lại cho các em một cuộc sống ấm no hạnh phúc, và hướng
các em đến một tương lai tươi sáng. Dù cuộc đời bất hạnh, éo le nhưng họ luôn khao
khát một cuộc sống tốt đẹp. Họ khao khát sự tự do trong tình yêu đôi lứa, khao khát
niềm hạnh phúc gia đình. Chính vì những khao khát đó họ luôn biết quan tâm, sẻ chia
và giúp đỡ nhau, sống với nhau bằng tình nghĩa và sự chân thành.
60
3. Xuất hiện trên văn đàn như một hiện tượng văn học, Nguyễn Nhật Ánh là một
cây bút tài năng với sự nỗ lực cách tân không ngừng về mặt tư duy cũng như nghệ
thuật. Mỗi tác phẩm của ông ra đời đều mang tới một ấn tượng mới mẻ cho người đọc.
Với giọng văn dí dỏm, nhẹ nhàng cùng nghệ thuật miêu tả ngoại hình, hành động, nội
tâm và ngôn ngữ, những trang văn của ông thực sự hấp dẫn các độc giả không chỉ là
trẻ em mà cả với những ai “từng là trẻ em”. Thông qua những chi tiết, tình huống bất
ngờ và thú vị, Nguyễn Nhật Ánh đã làm sống dậy một “miền tuổi thơ” đáng yêu, đáng
nhớ trong cuộc đời của mỗi người.
4. Có thể nói rằng “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” như một đoàn tàu đưa ta về
tuổi thơ, mỗi một mẩu chuyện nhỏ là một toa tàu, mỗi một toa tàu là những màu sắc
thú vị khác nhau, có người sẽ bật cười, có người sẽ rưng lệ. Với người trẻ có thể đó là
hình bóng của mình, nhưng với người lớn, câu chuyện cũng có thể là nỗi ăn năn về
tuổi thơ, những hoài bão cao đẹp. Nếu không dùng sự chiêm nghiệm cả cuộc đời để
sáng tác cho thiếu nhi, không dành cho thiếu nhi tình yêu thương, sự trân trọng thật
lòng, thì Nguyễn Nhật Ánh sẽ khó có thể viết nên được một tác phẩm tuyệt vời đến
như thế!
61
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thụy Anh (2011), “Nguyễn Nhật Ánh vẫn thế, với Lá nằm trong lá”,
Báo Tuổi trẻ.
2. Nguyễn Nhật Ánh (2015), Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh, NXB Trẻ, TP Hồ
Chí Minh.
3. Nguyễn Nhật Ánh (2016), Con chó nhỏ mang giỏ hoa hồng, NXB Trẻ, TP Hồ
Chí Minh.
4. Nguyễn Nhật Ánh (2016), Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ, NXB Trẻ, TP Hồ Chí
Minh.
5. Nguyễn Nhật Ánh (2016), Kính Vạn Hoa (Tập 2 - Những con gấu bông), NXB
Kim Đồng, HN.
6. Thái Phan Vàng Anh (2013), Nguyễn Nhật Ánh – Người kể chuyện cho thiếu nhi.
7. Báo văn học nghệ thuật (2015), Nguyễn Nhật Ánh – Hành trình chinh phục
tuổi thơ, (http://cinet.vn).
8. Phạm Thị Bền (2005), Thế giới trẻ thơ qua cách nhìn của Nguyễn Nhật Ánh
trong bộ truyện Kính vạn hoa, Luận văn thạc sĩ khoa học Ngữ văn, chuyên ngành Văn
học Việt Nam, mã số 5.04.33, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
9. Đặng Đức Bình (2015), Cảm nhận về tác phẩm "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ
xanh", (https://www.facebook.com).
10. Thùy Dung ( 2015), Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh: "Tôi viết sách để kéo tuổi
thơ gần lại", (http://baoquangnam.vn).
11. Lý Đợi (2007), “ Hiện tượng” Nguyễn Nhật Ánh, (http://www.vanchuongviet.org).
12. Hà Minh Đức (1999), Lý luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
13. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2000), Từ điển thuật ngữ văn
học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
14. Vũ Hiệp (2017), Nguyễn Nhật Ánh - Nhà văn của tuổi thơ,
(http://thuvientinhyenbai.gov.vn).
15. Lê Minh Khuê, (2014), “Câu chuyện trong vườn”, Báo Tiền Phong.
16. Vũ Thị Hương (2009), Thế giới nghệ thuật truyện Nguyễn Nhật Ánh, Luận
văn thạc sĩ khoa học Ngữ văn, chuyên ngành Văn học Việt Nam hiện đại, Trường Đại
học Sư phạm Hà Nội.
62
17. Lê Phương Liên (2012), Văn xuôi và trẻ em, Báo Văn Nghệ và Quân Đội.
18. Lã Thị Bắc Lý (2010), Cảm nhận về văn học thiếu nhi Việt Nam đầu thế kỉ
XXI, (http://nhavantphcm.com.vn).
19. Phương Lựu (2014), Lí luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
20. Minh Nga (2015), "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh" – Câu chuyện ngập tràn
cảm xúc, (https://nld.com.vn).
21. Nhiều tác giả (2015), Nguyễn Nhật Ánh – Hiệp sĩ của tuổi thơ, NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội.
22. Võ Quảng (1973), Quê nội, NXB Kim Đồng, Hà Nội.
23. Tiểu Quyên (2014), Nguyễn Nhật Ánh – Tôi thấy mình số đỏ, (https://nld.com.vn).
24. Lê Minh Quốc (2012), Nguyễn Nhật Ánh - Hoàng tử bé trong thế giới tuổi
thơ, NXB Kim Đồng, Hà Nội.
25. Nguyễn Hoàng Sơn (2002), Thử tìm bí quyết của “nhà ảo thuật”Nguyễn
Nhật Ánh, Tạp chí Sách.
26. Nguyễn Đức Toàn (2015), Đặc điểm nghệ thuật của một số tác phẩm văn
xuôi viết cho tuổi mới lớn.
27. Vân Thanh, Nguyên An (biên soạn) (2002), Bách khoa thư Văn học thiếu
nhi Việt Nam, Tập 1, Tổng quan, NXB Từ điển bách khoa, Hà Nội.
28. Vân Thanh (2000), Nguyễn Nhật Ánh nhà văn lôi cuốn trẻ thơ, Văn học
thiếu nhi như tôi được biết, Tr.133-146, NXB Kim Đồng, Hà Nội.
29. Vân Thanh (1998), "Nguyễn Nhật Ánh nhà văn thân quý của các em", Tạp
chí Văn học số 6.
30. Nguyễn Quang Thân (1993), “Văn học hành trang đường đời của trẻ thơ”,
Tạp chí Văn học số 5. Tr 40.
31. Nguyễn Thị Thanh Xuân (1996), “Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ”, Tuần báo
Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh số 273, tr 12.
32. Nguyễn Vinh (2010), Nguyễn Nhật Ánh: Lần đầu có nhân vật phản diện,
(https://www.nxbtre.com.vn).
33. Từ điển Wiki, Ngôn ngữ nhân vật,
(https://tudienwiki.com/ngon-ngu-nhan-vat).
63
PHỤ LỤC
Tại Hội sách TP Hồ Chí Minh 2016, Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh
được bình chọn là “Sách được bạn đọc yêu thích nhất”
64
PHỤ LỤC 1
NGUYỄN NHẬT ÁNH: "NHÀ VĂN LÀ TRỤ ĐỠ TINH THẦN CỦA TRẺ EM"
Bất chấp sách văn học thiếu nhi nước ngoài ăn khách đang tràn ngập thị trường
nước ta, nhà văn Nguyễn Nhật Ánh vẫn ung dung chiếm lĩnh thị phần và trái tim người
đọc. Anh đã có buổi phỏng vấn
với Thanh Niên nhân dịp đầu năm
mới 2015.
- Anh có lo ngại về sự cạnh
tranh giữa các tác phẩm văn học
thiếu nhi đang ăn khách của nước
ngoài với tác phẩm nội? Làm sao
để nhà văn nội đủ sức giữ độc giả
trước những cám dỗ của thời đại
thông tin và sách ngoại tràn lan?
- Về lý thuyết thì đây là một cuộc cạnh tranh không cân sức. Các NXB trong
nước không chỉ in sách nước ngoài mà thường chọn in những tác phẩm best seller của
nước ngoài. Điều đó có nghĩa các nhà văn viết cho trẻ em ở VN lâm vào thế "một
mình chống cả thế giới", chính xác là chống những gì "đỉnh" nhất của thế giới. Nghe
giống như thằn lằn đấu với khủng long. Nhưng trên thực tế, cho đến nay ngoài hiện
tượng Harry Potter, chưa tác phẩm thiếu nhi nước ngoài nào trở thành best seller ở
VN. Nguyên nhân: do sự khác biệt văn hóa, "gu" đọc của trẻ em Việt vẫn có điểm
khác biệt với "gu" đọc của trẻ em các nước khác. Theo tôi, chính điểm khác biệt này
đã tạo ra một miền đất hứa cho các nhà văn VN thỏa sức khai thác. Các tác phẩm được
sáng tác bởi các nhà văn trong nước dù sao vẫn gần gũi hơn, quen thuộc hơn, dễ cảm
nhận hơn với các độc giả nhỏ tuổi. Chỉ cần tận dụng tốt ưu thế đó, các nhà văn trong
nước sẽ không ngại gì sách ngoại.
- Viết sách cho thiếu nhi thời nay, nhà văn có cần học thêm kiến thức gì không và
cá nhân anh đã phải bổ sung kiến thức đó bằng cách nào (nếu có)?
- Khác với các nhà khoa học, tôi nghĩ nhà văn viết sách cho trẻ em chỉ cần giữ
gìn sự tươi trẻ của tâm hồn và nuôi dưỡng thật tốt cảm hứng sáng tạo. Còn kiến thức là
thứ trí óc thu nạp mỗi ngày một cách tự nhiên, không cần phải cố, trừ khi anh cần tới
những kiến thức đặc biệt cho một tác phẩm cụ thể.
65
-“Truyện của chú không chỉ dạy chúng con cách đọc, cách viết mà còn dạy
chúng con cách yêu thương và chia sẻ" là nhận định của độc giả từng viết cảm nhận
về anh. Đó có đúng là ý định mà anh thực sự muốn gửi gắm vào từng tác giả, hay chỉ
là ý kiến cảm nhận chủ quan của độc giả?
-Tôi vẫn luôn nghĩ nhà văn viết cho trẻ em là nhà giáo dục bẩm sinh. “Bẩm sinh”
có nghĩa là anh không cố ý rao giảng đạo đức trong tác phẩm nhưng quá trình sáng tác,
một cách tự nhiên anh biết điều gì sẽ giúp cho bạn đọc yêu mến cái Tốt, cái Thiện và
ghê sợ cái Xấu, cái Ác. "Nhà văn là trụ đỡ tinh thần của trẻ em", tôi tin điều đó, cũng
như tôi tin "bồi đắp tâm hồn và nhân cách một cách âm thầm và bền bỉ, đó là chức
năng gốc rễ của văn chương, đặc biệt là văn chương viết cho thanh thiếu niên".
-“Mỗi lần đọc tác phẩm của bác Ánh, mình có cảm giác như mình là một nhân
vật trong câu chuyện ấy, có thể là nhân vật phụ cũng đôi lúc là nhân vật chính. Có
những lúc đọc rồi cũng hoàn toàn nhập tâm vào nhân vật cảm giác như chính câu
chuyện của mình cùng khóc cùng cười". Phải chăng đây là bí kíp khiến sách nào của
anh cũng bán chạy và làm sao để có được bí kíp này?
-Cái này không phải là bí kíp. Đó chỉ là sự đồng cảm về mặt tâm hồn giữa người
viết với người đọc. Theo tôi, trong sáng tác cho trẻ em yếu tố này còn quan trọng hơn
cả kỹ thuật, mặc dù đây là hai yếu tố không thể tách rời nhau.
-Trong tác phẩm đang viết Bảy bước tới mùa hè xoay quanh những câu chuyện
diễn ra trong mùa hè ngọt ngào, những trò chơi nghịch ngợm và bâng khuâng tuổi
mới lớn, có bao nhiêu phần trăm là kỷ niệm thật của anh, của người thân bạn bè và
bao nhiêu phần trăm là hư cấu? Anh có kỳ vọng cuốn sách này cũng trở thành sách
best seller trong năm 2015 không?
-Tỷ lệ sự thật/hư cấu trong một tác phẩm văn học không bao giờ là con số chi li,
rạch ròi. Tôi chỉ có thể tiết lộ chính nỗi nhớ bạn bè trong những năm tháng ấu thơ ở
quê ngoại Cẩm Lũ của tôi là cảm hứng cho tác phẩm này ra đời. Còn cuốn này có
thành best seller 2015 hay không thì tôi không biết, tất nhiên nhà văn nào viết sách
cũng mong muốn tác phẩm của mình sẽ được bạn đọc nồng nhiệt đón nhận.
66
-Bốn bài thơ sẽ được in trong cuốn sách trên do anh sáng tác vào thời gian nào?
Và hẳn có liên quan mật thiết tới tình tiết nào trong tác phẩm đó. Anh có thể hé lộ chút
ít không?
-Đây là 4 bài thơ dành cho học trò, tôi viết cho Báo Mực Tím trước đây. Tất cả
các bài thơ đều ra đời trước cuốn truyện rất lâu. Điều thú vị là nhiều câu trong 4 bài
thơ đó lại tình cờ liên quan đến các chi tiết trong truyện. Tôi thấy phù hợp nên đưa vào
làm phụ bản trên nền tranh của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường. Cũng là một cách làm mới
cho vui.
( Theo Báo Thanh Niên 2015 )
67
PHỤ LỤC 2
NHỮNG LẦN TRANG SÁCH CỦA NGUYỄN NHẬT ÁNH LÊN MÀN ẢNH
Áo trắng sân trường (1994)
Lê Công Tuấn Anh đóng vai thầy giáo.
Áo trắng sân trường do Lê Dân đạo diễn, ra mắt năm 1994, dựa trên truyện Nữ
sinh của Nguyễn Nhật Ánh. Phim có sự tham gia của dàn diễn viên Lê Công Tuấn
Anh, Y Phụng, Ngô Mỹ Uyên, Hoàng Trinh, Thế Anh. Đây là tác phẩm đầu tiên của
nhà văn gốc Quảng Nam được chuyển thể thành phim.
Câu chuyện xoay quanh ba nữ sinh Xuyến, Thục và Cúc Hương. Họ tình cờ gặp
một anh chàng đẹp trai, không ngờ đó là thầy mình. Tác phẩm được đánh giá cao nhờ
tính giáo dục, nội dung trong sáng giữa dòng phim "mì ăn liền" uỷ mị thời đó. Sau khi
phim ra mắt, đạo diễn Lê Dân nhận nhiều lời khen vì ý nghĩa và tính giải trí hài hòa
của phim. Trong các diễn viên, Lê Công Tuấn Anh hớp hồn khán giả nhờ nét thư sinh
và lối diễn hài hước, thông minh.
Chú bé rắc rối (1998)
Phùng Ngọc (trái) và Lê Thắng
68
Chuyện phim xoay quanh đôi bạn học An (Phùng Ngọc) và Nghi (Lê Thắng). An
là cậu bé nhà giàu, học kém nhưng luôn tin sau này kiếm được nhiều tiền, khiến Nghi
gặp nhiều rắc rối khi học cùng. Nghệ sĩ Đại Nghĩa thủ vai thầy giáo, cố nhạc sĩ
Nguyễn Ánh 9 phụ trách nhạc phim. Câu chuyện bám khá sát bản gốc. Diễn xuất tự
nhiên của diễn viên Đất phương Nam Phùng Ngọc được nhiều khán giả yêu thích.
Bong bóng lên trời (1997)
"Bong bóng lên trời" chọn bối cảnh miền Bắc
Phim xoay quanh chàng trai bán kẹo kéo tên Thường, phải phụ mẹ đỡ đần gia
đình sau khi bố qua đời. Anh làm quen với Tài Khôn - cô bé bán bong bóng mơ mộng,
luôn thích được chạy xe dưới chùm bóng rực rỡ. Dàn diễn viên gồm Hoàng Tùng,
Phương Anh, Thanh Hiền và Lan Hương. Dù thay đổi bối cảnh sang miền Bắc, phim
do Trọng Trinh đạo diễn vẫn được đánh giá cao vì các tình tiết cảm động.
Kính vạn hoa (2004)
"Kính vạn hoa" gắn liền với một thế hệ tuổi thơ.
69
Loạt phim truyền hình Kính vạn hoa là một trong những lần chuyển thể truyện
Nguyễn Nhật Ánh thành công nhất. Ra mắt từ năm 2004, những tập phim trong trẻo và
hài hước gắn liền với cả một thế hệ thiếu nhi. Sau khi phim kết thúc năm 2008, nhiều
đài vẫn phát lại series này.
Câu chuyện xoay quanh bộ ba Quý "ròm" (Ngọc Trai), Tiểu Long (Vũ Long) và
Hạnh (Anh Đào, ở phần ba Kim Anh thế vai). Quý "ròm" là thần đồng các môn tự
nhiên, Hạnh dịu dàng và học đều các môn còn Tiểu Long tốt bụng và giỏi võ.
Mỗi tập phim là một mẩu chuyện phiêu lưu hoặc các tình huống đời thường, đề
cao tình bạn, tình đoàn kết. Phim còn mang ý nghĩa giáo dục cao khi lồng ghép nhiều
kiến thức về khoa học và kỹ năng sinh tồn. Thành công của Kính vạn hoakhiến tên
tuổi Ngọc Trai, Vũ Long và Anh Đào được nhiều người yêu mến. Tuy nhiên, sau 13
năm, diễn viên nổi bật nhất là Angela Phương Trinh (vai em gái của Quý ).
Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (2015)
Ba diễn viên nhí trong phim.
70
Phim gây ấn tượng mạnh nhờ hình ảnh trau chuốt cùng diễn xuất của dàn diễn
viên nhí. Nhiều khán giả cũng cảm động với câu chuyện về tình anh em, những rung
động đầu đời trong phim. Ở phòng vé, Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh gây sốt với
doanh thu 78 tỷ đồng, cao thứ hai trong năm 2015.
Cô gái đến từ hôm qua (2017)
"Cô gái đến từ hôm qua" gợi nhớ tuổi học trò.
Cô gái đến từ hôm qua là phim chuyển thể từ truyện cùng tên của Nguyễn Nhật
Ánh, do Phan Gia Nhật Linh đạo diễn. Tác phẩm quy tụ các diễn viên như Ngô Kiến
Huy, Miu Lê, Jun Phạm, Hoàng Yến Chibi, Hạ Anh, Lan Phương. Phim xoay quanh
chuyện tình của Thư (Ngô Kiến Huy) - cậu học trò vừa học kém vừa ham chơi - với cô
bạn học Việt An (Miu Lê).
Nhìn chung, phim mang đến sự dễ thương, hài hước. Tình yêu tuổi học trò của
Thư và Việt An được khắc họa chân thật. Kịch bản cũng khéo léo thêm thắt các tình
tiết kịch tính, bổ sung cho truyện gốc có phần nhẹ nhàng.
(Theo https://giaitri.vnexpress.net)
71
PHỤ LỤC 3
“TÔI THẤY HOA VÀNG TRÊN CỎ XANH" ĐƯỢC DỊCH SANG TIẾNG NHẬT
Sau Mắt biếc, Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh là tác phẩm thứ hai của nhà
văn Nguyễn Nhật Ánh được dịch sang tiếng Nhật. Cả hai cuốn đều do Giáo sư Kato
Sakae chuyển ngữ. Lần này, Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh được nhà xuất bản
Canaria Communications phát hành tại Nhật cuối tháng 11.
Giáo sư Kato Sakae
đánh giá truyện Nguyễn
Nhật Ánh khai thác các
khía cạnh đa dạng trong đời
sống hàng ngày của trẻ em.
Điểm nổi bật trong truyện
của ông là tính cách nhân
vật được kết hợp với các
chi tiết độc đáo.
Giáo sư người Nhật ấn
tượng với nhiều chi tiết hấp
dẫn trong truyện Tôi thấy
hoa vàng trên cỏ xanh như
đoạn chú Đàn kể chuyện ma khiến hai anh em Thiều, Tường hoảng sợ, Tường làm
“chim xanh” cho chú Đàn, hay đoạn thằng Thiều ăn trộm táo của ông Xung, gánh xiếc
mô tô bay về làng biểu diễn dẫn đến câu chuyện thương tâm của cha con ông Tám
Tàng…
Đại diện Nhà xuất bản Trẻ - đơn vị nắm bản quyền sách cho hay trong khi cuốn
sách được phát hành thì tại các rạp phim ở Nhật cũng chiếu bộ phim cùng tên do đạo
diễn Victor Vũ thực hiện. "Thông qua cuốn sách hy vọng khán giả Nhật sẽ hiểu thêm
về văn hóa, con người Việt Nam", người này nói.
72
Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh là một trong những tác phẩm nổi tiếng của nhà
văn Nguyễn Nhật Ánh xuất bản năm 2010. Đến năm 2015, cuốn sách đã tái bản 28 lần
và đạt lượng phát hành ấn tượng - 113.000 bản. Trong đó ngay lần đầu tái bản đã đạt
hơn 20.000 bản.
Cuối năm 2015 sách được chuyển thể thành phim điện ảnh do đạo diễn Victor Vũ
thực hiện. Bộ phim đã đạt doanh thu khủng với 80 tỷ đồng.
(Theohttps://news.zing.vn)