THỜI KỲ THUỘC ĐỊA
I/ NHỮNG DÂN TỘC MỚI
Phần lớn dân di cư tới Mỹ vào thế kỷ XVII là người Anh, nhưng cũng có cả người
Hà Lan, Thụy Điển và Đức ở miền Trung, một số người Pháp theo đạo Tin Lành ở
bang Nam Carolina và một số nơi khác, nô lệ châu Phi chủ yếu ở miền Nam, và rải
rác những nhóm nhỏ người Tây Ban Nha, người Italia, người Bồ Đào Nha sống ở
khắp các thuộc địa. Từ sau năm 1680, nước Anh không còn là điểm xuất phát chủ
yếu của phong trào di cư do số lượng người Scotland và Scotland-Ireland (tín đồ
Tin Lành ở Bắc Ai-len) đã nhiều hơn. Ngoài ra, hàng chục ngàn người di tản đã
rời bỏ Tây Bắc Âu để tránh chiến tranh, những cuộc đàn áp và chế độ chiếm hữu
ruộng đất. Đến năm 1690, dân số nước Mỹ đã tăng lên tới một phần tư triệu người.
Kể từ đó đến năm 1775, cứ 25 năm con số này lại tăng lên gấp đôi cho đến khi đạt
mức trên 2, 5 triệu người. Mặc dù các gia đình thường chuyển đến hết thuộc địa
này tới thuộc địa khác song giữa các thuộc địa vẫn có những nét rất khác biệt.
Những nét đặc thù đó thậm chí còn nổi rõ hơn giữa ba nhóm thuộc địa phân định
theo khu vực.
II/ NEW ENGLAND
New England nằm ở miền Đông bắc. Đất đai nơi đây nhìn chung cằn cỗi, đầy sỏi
đá, hiếm nơi bằng phẳng và mùa đông kéo dài. Điều đó khiến cuộc sống thuần
nông thật khó khăn, chật vật. Có lẽ vì thế mà những người dân ở New England đã
lợi dụng sức nước và xây dựng các nhà máy xay ngũ cốc và các xưởng cưa.
Những cánh rừng bạt ngàn gỗ đã khuyến khích nghề đóng tàu phát triển. Những
bến cảng ở vị trí vô cùng thuận lợi đã thúc đẩy thương mại. Biển đã trở thành
nguồn lợi lớn. Ở Massachusetts, chỉ riêng nghề đánh bắt cá tuyết cũng đã nhanh
chóng đem lại sự giàu có.
Do người định cư đầu tiên tập trung rất đông trong các làng và các thị trấn quanh
các cảng biển nên nhiều người ở New England đã tiếp tục nghề kinh doanh hoặc
buôn bán. Những đồng cỏ thuộc đất công và những cánh rừng đã đáp ứng mọi nhu
cầu của người dân thị trấn làm việc trên các nông trại nhỏ gần đó. Dân cư tập
trung cũng giúp xây dựng trường làng, nhà thờ và tòa thị chính để người dân có
thể gặp gỡ trao đổi những vấn đề cùng quan tâm.
Thuộc địa Vịnh Massachusetts tiếp tục mở rộng thương mại. Từ giữa thế kỷ XVII
trở đi, thuộc địa này đã trở nên giàu có và Boston trở thành một trong những hải
cảng lớn nhất nước Mỹ.
Những cánh rừng ở miền Đông Bắc là nguồn cung cấp gỗ sồi để đóng tàu thủy, gỗ
thông để làm cột buồm và hắc -ín để lấp kín những khe ghép của tàu. Nhờ tự đóng
được tàu và giong buồm tới các hải cảng khắp nơi trên thế giới, những người thợ
đóng tàu tài hoa của thuộc địa Vịnh Massachusetts đã đặt nền móng cho lĩnh vực
thương mại ngày càng đóng vai trò quan trọng. Đến cuối thời kỳ thuộc địa, một
phần ba đội tàu mang cờ nước Anh đã được đóng ở New England. Cá, các cửa
hàng trên tàu và đồ gỗ đã thúc đẩy xuất khẩu phát triển. Những lái buôn và những
người làm vận tải ở New England chẳng bao lâu sau đã phát hiện thấy rượu rum
và nô lệ là những món hàng béo bở. Một trong những kiểu làm ăn táo bạo - nếu
không muốn nói là phi đạo đức - của họ thời bấy giờ là buôn bán tay ba. Các lái
buôn mua nô lệ từ duyên hải châu Phi bằng rượu rum New England, rồi bán nô lệ
ở Tây ấn (West Indies), và tại đây họ mua mật đường mang về nhà bán cho các
nhà sản xuất rượu rum địa phương.
III/ CÁC THUỘC ĐỊA MIỀN TRUNG
Xã hội ở các thuộc địa miền Trung đa dạng và phong phú, hòa đồng và khoan
dung hơn nhiều so với ở New England. Nhờ sự lãnh đạo của William Penn,
Pennsylvania vận hành thật suôn sẻ và tăng trưởng nhanh chóng. Đến năm 1685,
dân số ở đây đã lên tới xấp xỉ 9.000 người. Thủ phủ của thuộc địa là thành phố
Philadelphia có những con đường rộng lớn và rợp bóng cây, những ngôi nhà xây
bằng gạch, đá vững chắc và những bến tàu nhộn nhịp. Đến cuối thời kỳ thuộc địa,
khoảng một thế kỷ sau, đã có 30.000 người sống ở đây, đại diện cho nhiều ngôn
ngữ, tín ngưỡng và nghề nghiệp. Tài năng kinh doanh và thành công của họ đã
biến Philadelphia trở thành một trong những trung tâm hưng thịnh bậc nhất của Đế
chế Anh.
Mặc dù tín đồ phái Quaker giữ vai trò chủ đạo ở Philadelphia, song nhiều nơi khác
ở bang Pennsylvania tính chất đại diện của nhóm dân số khác vẫn được đảm bảo
rất tốt. Người Đức đã trở thành các nông dân khéo tay bậc nhất ở thuộc địa này.
Các ngành thủ công như dệt, đóng giày, đóng đồ gỗ, mỹ thuật và các nghề khác
cũng đóng vai trò quan trọng. Bang Pennsylvania cũng là cửa ngõ bước vào Tân
Thế giới đối với những tín đồ Tin Lành ở Bắc Ai-len. Họ đã đến đây từ đầu thế kỷ
XVIII. Một chức sắc bang Pennsylvania đã gọi họ là những con người xa lạ đầy
mưu trí và dũng cảm. Họ căm ghét người Anh và nghi ngờ tất cả mọi hình thức
chính quyền. Những tín đồ Tin Lành ở Bắc Ai-len có xu hướng định cư ở những
vùng hẻo lánh nơi họ khai hoang, sống bằng nghề săn bắt và nông nghiệp tự cung,
tự cấp.
Bang New York là ví dụ điển hình về tính chất đa ngôn ngữ của nước Mỹ. Đến
năm 1646 cư dân sinh sống dọc theo sông Hudson gồm người Hà Lan, Pháp, Đan
Mạch, Na Uy, Thụy Điển, người Anh, Scotland, người Ai-len, Đức, Ba Lan, Bô-
hê-miêng, Bồ Đào Nha và Italia. Người Hà Lan tiếp tục có ảnh hưởng lớn về kinh
tế và xã hội ở New York một thời gian dài sau khi New Netherland bị sụp đổ và
hòa nhập vào hệ thống thuộc địa của Anh. Những mái nhà dâng cao của họ đã trở
thành nét đặc trưng lâu dài trong kiến trúc của thành phố. Những lái buôn Hà Lan
cũng đã giúp khu Manhattan có môi trường kinh doanh đầy náo nhiệt.
IV/ CÁC THUỘC ĐỊA MIỀN NAM
Trái với New England và các thuộc địa miền Trung, các thuộc địa miền Nam chủ
yếu là những khu dân cư thuần nông.
Khoảng cuối thế kỷ XVII, đời sống kinh tế và xã hội ở bang Virginia và bang
Maryland phụ thuộc chủ yếu vào các chủ đồn điền lớn và các chủ trại tiểu nông.
Các chủ đồn điền ở khu vực Tidewater nhờ có nguồn lao động nô lệ đã chiếm giữ
hầu hết quyền lực chính trị và vùng đất màu mỡ nhất. Họ xây những ngôi nhà thật
tráng lệ, sống theo kiểu quý tộc và luôn đón nhận những luồng văn hóa mới nhất
từ nước ngoài.
Các chủ trại tiểu nông canh tác trên diện tích đất nhỏ hơn lại tham gia các hội
đồng lập pháp và từ đó tìm cách tham gia vào đời sống chính trị. Tính thẳng thắn,
bộc trực của họ luôn là lời cảnh báo với nhóm đầu sỏ chính trị bao gồm những chủ
đồn điền lớn: không được xâm phạm quá mức quyền của những con người tự do.
Cư dân ở vùng Carolinas đã nhanh chóng biết cách kết hợp nông nghiệp với
thương mại. Chính vì vậy, thị trường đã trở thành nguồn của cải vật chất khổng lồ
đối với họ. Những cánh rừng bạt ngàn cũng là một nguồn thu: gỗ xẻ, hắc-ín, nhựa
thông là nguồn nguyên liệu đóng tàu tốt nhất trên thế giới. Không phải phụ thuộc
vào duy nhất một vụ canh tác như ở bang Virginia, hai bang Bắc và Nam Carolina
sản xuất và xuất khẩu gạo, thuốc nhuộm màu chàm tím - một loại thuốc nhuộm
được chiết xuất từ các loài cây địa phương dùng để nhuộm vải. Đến năm 1750, có
hơn 100.000 người sống ở cả hai thuộc địa Bắc và Nam Carolina. Charleston,
bang Nam Carolina, trở thành trung tâm thương mại và hải cảng hàng đầu trong
khu vực.
Ở các thuộc địa ở cực Nam, cũng tương tự như tất cả mọi nơi khác, tăng trưởng
dân số ở khu vực hẻo lánh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Do không muốn định cư
ở khu vực Tidewater chịu sự ảnh hưởng nặng nề của người Anh nên những người
nhập cư từ Đức và tín đồ Tin Lành Bắc Ai-len đành di chuyển sâu vào đại lục.
Những người không thể bảo vệ được những mảnh đất màu mỡ dọc bờ biển hoặc
đất đai của họ đã trở nên bạc màu thì phát hiện những ngọn đồi về phía Tây là
vùng đất mới trù phù đầy hứa hẹn. Dù còn gặp muôn vàn khó khăn song những cư
dân nơi đây vẫn không ngừng ra đi. Đến thập niên 1730, họ đã đổ tới thung lũng
Shenandoah ở bang Virginia và chẳng bao lâu sau, vùng đất này đã có rất nhiều
những trang trại.
Những gia đình sống ở vùng giáp ranh với người da đỏ đã dựng những túp lều gỗ,
khai vỡ đất hoang trồng ngô và lúa mì. Nam giới mặc quần áo da hươu hoặc da
cừu còn phụ nữ mặc quần áo được may bằng vải họ đã dệt ở quê cũ. Thức ăn của
họ gồm thịt hươu, nai, gà rừng và cá. Họ cũng có những thú tiêu khiển riêng -
những bữa tiệc ăn thịt nướng ngoài trời, khiêu vũ, sưởi ấm ngôi nhà cho những
cặp vợ chồng mới cưới, thi bắn súng và làm chăn bông. Các cuộc thi làm chăn cho
đến nay vẫn còn là một truyền thống ở nước Mỹ.