
KIỂM SÓAT NHỮNG TÁC DỤNG PHỤ KHI
DÙNG PEGINTERFERON
ĐIỀU TRỊ VIÊM GAN C MẠN TÍNH
Sự phối hợp điều trị Iterferon Pegylated với ribavirin dẫn đến đáp ứng virus
bền vững (SVR) trên 50% bệnh nhân bị HCV. Mặc dù hiệu quả của điều trị như
thế nhưng thỉnh thỏang có sự kèm theo của những ảnh hưởng tâm thần kinh, huyết
học và những tác dụng phụ khác mà có thể dẫn đến việc hiệu quả điều trị bị giảm
sút, sự an tòan bị ảnh hưởng và chất lượng cuộc sống của những bệnh nhân viêm
gan virus C bị giảm. Sự hiểu biết về những ảnh hưởng phụ có khả năng xảy ra này
có thể ngăn cản được những hậu quả xấu cho bệnh nhân.
Việc tuân thủ tuyệt đối điều trị, việc giảm những tác dụng phụ, và việc tránh
không tiếp tục điều trị hay giảm liều là những thành phần then chốt cho việc điều
trị thành công của viêm gan virus C. Theo đó, những kế họach tích cực và mới
trong việc kiểm sóat sự suy kiệt, mệt mỏi, thiếu máu và những triệu chứng bất lợi
khác đã điều tra và có thể trình bày một phương thức quan trọng để giảm thiểu
những kết quả không mong muốn của những tác dụng ngòai ý muốn của việc phối
hợp điều trị peg interferon và ribavirin.
I/Những kế họach cho việc giảm những tác dụng ngòai ý muốn liên quan đến
điều trị: giảm thời gian điều trị.
Một trong những cách thức then chốt để giảm những tác dụng ngòai ý muốn liên
quan đến điều trị là việc giảm thời gian điều trị cho bệnh nhân. Cũng như việc điều
trị kéo dài ở những bệnh nhân có đáp ứng chậm có thể đem lại sự thành công điều
trị cao hơn, một bằng chứng cho thấy rằng việc giảm quá trình điều trị ở những
bệnh nhân là những người có đáp ứng nhanh có thể giảm những tác dụng phụ có ý
nghĩa. Thêm vaò đấy, những dữ liệu cho thấy rằng những kế họach điều trị được

xác định chính xác và tốt nhất là tùy từng đối tượng bệnh nhân.
Hai nghiên cứu gần đây đề nghị việc sử dụng quá trình điều trị ngắn hơn cho
những bệnh nhân đáp ứng điều trị nhanh – sau 4 tuần từ khi bắt đầu điều
trị. Mangia và các cộng sự đã so sánh việc điều trị 12 tuần với 24 tuần với
peginterferon và ribavirin ở những bệnh nhân HCV genotype 2 hay 3, những
người đã đáp ứng trong 4 tuần của điều trị ban đầu. Họ thấy rằng tỉ lệ SVR giữa
những người đáp ứng nhanh này là 77% tương tự như những bệnh nhân được nhận
24 tuần điều trị sau khi kiểm tra HCV – dương tính ở tuần thứ 4. Về những chú
thích, họ cho thấy rằng những bệnh nhân nhận quá trình điều trị trong 12 tuần thì
có vẻ ít phải báo cáo về những sự việc bất lợi hay việc bỏ điều trị sớm.
Trong một nghiên cứu tương tự ở những bệnh nhân genotype 1 với số lượng virus
thấp (dưới 600,000 IU/ml), những cá thể âm tính với HCV ở tuần 4 (47%) được
nhận một đợt điều trị phối hợp ribavirin với peg interferon trong 24 tuần. Những
cá thể mà virus – dương tính ở tuần 4 được tiếp tục điều trị suốt 48 tuần. Trong
nhóm người đáp ứng sớm, tỉ lệ SVR là 89%, tương tự như với những bệnh nhân
nhận được quá trình điều trị đầy đủ 48 tuần. Lại một lần nữa, quá trình điều trị
ngắn hơn liên quan đến tỉ lệ thấp hơn của việc không tiếp tục điều trị bởi những
vấn đề bất lợi. Trong việc đánh giá những dữ liệu đã được thu thập, một sự gia
tăng đã trở nên rõ rang rằng quá trình điều trị nên được lựa chọn dựa vào từng
bệnh nhân và sự ảnh hưởng lớn bởi sự đáp ứng sớm virus đối với quá trình đìêu trị.
II/NHỮNG TRIỆU CHỨNG TÂM THẦN KINH LIÊN QUAN ĐẾN ĐIỀU
TRỊ
1.Trầm cảm
Viêm gan virus C và bệnh tâm thần đi song hành. Rất rõ ràng, bệnh tâm thần có
liên quan đến những thói quen có nguy cơ cao, như dùng thuốc tiêm, là lý do
thường dẫn đến việc nhiễm viêm gan virus C. Vì vậy viêm gan virus C có liên
quan đến những tỉ lệ cao hơn của việc trầm cảm, sự rối lọan lưỡng cực, và những

bệnh tâm thần khác. Vì vậy, trước đây việc điều trị được giới thiệu đối cả với
những bệnh nhân này, rất nhiều điều đã ảnh hưởng bởi bệnh tâm thần, sự giới hạn
cơ hội của họ được chăm sóc và sự phục tùng điều trị của họ và tỉ lệ SVR. Tuy
nhiên, nếu những bệnh nhân này được điều trị trong bối cảnh thích hợp thì học có
thể được làm sạch virus một cách thành công.
Thêm vào đó, những triệu chứng về thần kinh nhận thức thì thường được báo cáo
ở những bệnh nhân dùng interferon, bao gồm: mệt mỏi (ở 80% bệnh nhân), trầm
cảm (60%), cảm giác đau gia tăng (55%), sự căng thẳng hay dễ bị kích thích
(50%), những khó chịu đường tiêu hóa dạ dày ruột (50%), sự lo lắng (45%), giấc
ngủ bất thường (40%), và sự trì trệ vận động tinh thần (40%). Mặc dù sự gia tăng
rõ ràng những triệu chứng này, cơ chế sinh học đằng sau những hành vi này vẫn
còn chưa rõ ràng. Những nghiên cứu hình ảnh chức năng cho rằng interferon có
thể khởi động sự gia tăng chuyển hóa trong thùy trước trán của não, một vùng họat
hóa trong việc đáp ứng với sự kích thích về cảm xúc. Việc đáp ứng liên quan đến
interferon đã gây ra một sự giảm khả năng đáp ứng những kích thích này.
Interferon có một ảnh hưởng trực tiếp lên chức năng của não, điều này có thể liên
quan đến những con đường của serotonin. Tuy nhiên, đến ngày nay, không một
thử nghiệm có kiểm sóat, ngẫu nhiên, và lớn nào kiểm tra thành công sự ức chế
hấp thu lại có chọn lọc của serotonin (SSRIs) trong việc trầm cảm có liên quan
đến điều trị interferon ở HCV đã được quản lý. Musselman và các cộng sự đã đánh
giá việc dung paroxetin phòng ngừa ở 40 bệnh nhân được điều trị interferon vì
melanoma ác tính. Tỉ lệ trầm cảm trầm trọng đã được giảm xuống giữa những
bệnh nhân dung SSRIs, điều này liên quan đến một tỉ lệ thấp hơn của việc điều trị
cai nghiện bởi việc trầm cảm nặng nề. Đấy là chứng minh rõ ràng cho lý do cơ bản
của việc dùng những chất này như việc phòng ngừa chống lại sự trầm cảm, như
cũng có thể dung như một hình thức chống lại đối với những trường hợp trầm cảm
mới giữa những bệnh nhân dùng interferon.
Gần đây, Raison đã nêu bật sự quan trọng của việc điều trị trầm cảm trong việc
đạt được thành công trong việc điều trị HCV.] Sự gia tăng việc trầm cảm liên quan

đến interferon thì liên quan đến việc giảm ở đáp ứng HCV ở tuần 24, như đề
cập ở bảng 1. Trên thực tế, điểm tự đánh giá trầm cảm là một ước đóan mạnh cho
việc thất bại điều trị HCV. Việc điều khiển và ngăn ngừa trầm cảm ở những bệnh
nhân trong điều trị là quyết định.
Trong cùng một thời điểm, có bằng chứng cho thấy rằng những cá thể với những
bệnh tâm thần có từ trước có thể được điều trị một cách hiệu quả đối với HCV. Ví
dụ, một nghiên cứu đã được thực hiện thành công với những nhóm bệnh nhân
khác nhau được điều trị ở một thiết kế đã kỷ cương với sự tiếp cận của những nhà
tâm thần học, những chuyên gia cai nghiện và những chuyên gia điều trị khác
nhau.Trong một điều kiện như vậy, những cá thể với những rối lọan tâm thần,
những người sử dụng thuốc tiêm chích, và những bệnh nhân theo dõi tất cả đều đạt
được tỉ lệ SVR tương tự nhau. Nghiên cứu này cũng cho thấy rằng những người
nghiện thuốc từ trước thì có khả năng hơn để tiếp tục với interferon và ribavirin
nếu điều trị với methadone.
2.Những rối lọan giới tính của nam giới
Sự trầm cảm của bệnh nhân được điều trị HCV có thể liên quan đến một ảnh
hưởng tâm thần kinh khác, rối lọan tình dục ở nam. Để nghiên cứu có sự liên quan
trực tiếp hay không, hay với sự thay đổi testosterone và những hormone androgen
khác, Kraus và các cộng sự đã thực hiện ở 34 người đàn ông được điều trị với
interferon và ribavirin. Kết quả của họ chứng minh rằng có một sự liên hệ giữa
hai vấn đề này, như là khi mức độ trầm cảm gia tăng thì cảm giác tình dục bị giảm
và mức androgen giảm xuống. Một trong những thong điệp quan trong của nghiên
cứu này là việc điều trị trầm cảm có thể giải quyết những tác dụng ngòai ý muốn
về tâm thần kinh khác. Tuy nhiên, việc điều trị với SSRIs có thể liên quan với việc
giảm khả năng tình dục, điều mà có thể làm gia tăng mức độ trầm trọng của vấn đề
này. Việc thay đổi những chất khác, như bupropion, có thể là những khả năng tốt
hơn cho những cá thể này.
3.Sự mệt mỏi
Như đề cập mới đây, sự mệt mỏi là một báo cáo thông thường nhất về tác dụng

phụ ở những bệnh nhân nhận điều trị HCV; xấp xỉ khỏang 80% các bệnh nhân
than phiền về một sự thiếu năng lượng trong khi điều trị.
Bảng 1. Những Liên quan giữa Trầm cảm và Việc làm sạch virus HCV
Gia tăng điểm trầm cảm SDS
HCV âm tính tại tuần 24, %
< 10 69
10 – 19 59
≥ 20 34
Thất bại điều trị được ước đóan dựa vào
Tỉ lệ Odds được hiệu chỉnh
(95% CI; giá trị P)
HCV genotype 1 3.9 (1.2 – 12.1; P= .05)
≥ 20 – điểm gia tăng ở điểm SDS 3.6 (1.3 – 9.5; P= .01)
CI: khỏang tin cậy; SDS: thang điểm trầm cảm tự đánh giá của Zung
Điều quan trọng là phải loại bỏ những nguyên nhân gây mệt không phải do thuốc
điều trị, như thiếu máu hay suy giáp, khi đánh giá những cá thể này. Tuy nhiên,
điều này thường không thể xác định như một vấn đề y tế mà thường là một biến
chứng tâm thần kinh của điều trị interferon. Modafinil, đã được chứng minh bởi
FDA (the United States Food và Drug Administration) như một cách điều trị
chứng ngủ gục, được nghiên cứu gần đây như là phương pháp phòng ngừa chống
lại sự mệt mỏi ở những bệnh nhân điều trị ban đầu interferon – beta do chứng đa
xơ cứng. Modafinil thì liên quan đến việc giảm sự mệt mỏi và giảm việc ngủ ngày
ở trong dân số này. Khi những chất tương tự được dùng thường xuyên ở những
bệnh nhân HCV, một một thử nghiệm phân tầng lớn nào đánh giá hiệu quả của
chúng trong những bệnh nhân ở nhóm bệnh này được thực hiện.
Sự tập luyện là một phương pháp hỗ trợ không dùng thuốc, được công nhận tốt để