LUẬN VĂN:
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN
DỤNG TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU
TẠI SỞ GIAO DỊCH I - NGÂN HÀNG
NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN
NÔNG THÔN VIỆT NAM
LỜI NÓI ĐẦU
Sau 15 năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, nước ta
đã đạt được những thành tựu to lớn và toàn diện với mức tăng trưởng kinh tế khá ổn định.
Trong quá trình đổi mới đó, hoạt động ngoại thương có vai trò vô cùng quan trọng đối
với từng thành phần của nền kinh tế. Hoạt động ngoại thương giúp mở rộng thị trường
tiêu thụ hàng hoá, thúc đẩy sản xuất trong nước, tạo nguồn thu ngoại tệ cho Ngân sách
Nhà nước, giúp các doanh nghiệp đổi mới trang thiết bị công nghệ... Chính vì vai trò
quan trọng của hoạt động ngoại thương nên việc thúc đẩy hoạt động này là rất cần thiết.
Và chính sự ra đời của nghiệp vụ tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng là giải
pháp để thúc đẩy sự phát triển hoạt động ngoại thương.
Hoạt động ngoại thương ngày càng phát triển làm cho nhu cầu thanh toán quốc tế,
mua bán ngoại tệ và đặc biệt là nhu cầu tài trợ ngoại thương của các doanh nghiệp kinh
doanh xuất nhập khẩu ngày càng nhiều. Trước sự đòi hỏi đó, ngành ngân hàng phải
nhanh chóng đổi mới, không ngừng hoàn thiện về tổ chức và cơ chế nghiệp vụ kinh
doanh đối ngoại.
Là một đơn vị trực thuộc Trung tâm điều hành NHNo&PTNTVN, được thành lập
theo quyết định số 15/TCCB ngày 25/11/1990 của Tổng giám đốc NHNo&PTNTVN, Sở
giao dịch I - NHNo&PTNTVN bắt đầu đi vào hoạt động từ tháng 4/1991 và tiến hành
hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu từ năm 1998. Tuy còn nhiều khó khăn, bỡ ngỡ trong quá
trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu nhưng đến nay, hoạt động này
tại Sở đã đạt được không ít thành tựu và góp phần không nhỏ vào việc phát triển hoạt
động đối ngoại của NHNo&PTNTVN.
Trong quá trình thực tập và học hỏi tại SGDI-NHNo&PTNTVN, em nhận thấy hoạt
động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại SGD I đang đóng một vai trò quan trọng trong
việc đảm bảo nguồn vốn và cung cấp các dịch vụ cần thiết liên quan trong lĩnh vực xuất
nhập khẩu, đặc biệt là khi các khách hàng của Sở đang thiếu vốn và kinh nghiệm như
hiện nay. Các khách hàng của Sở là những doanh nghiệp đang xuất khẩu sản phẩm mũi
nhọn thuộc các ngành nông, lâm, thuỷ, hải sản và là các doanh nghiệp nhập khẩu máy
móc thiết bị để hiện đại hoá dây chuyền sản xuất và mở rộng quy mô kinh doanh. Nhu
cầu về tài trợ xuất nhập khẩu của những khách hàng trên không ngừng tăng và SGD I
cũng cố gắng để đáp ứng đầy đủ và kịp thời những nhu cầu ấy. Tuy nhiên, để không
ngừng phát triển nghiệp vụ này tại SGDI - NHNo&PTNTVN thì việc đi sâu tìm hiểu và
hệ thống hoá những vấn đề cơ bản về tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, phân tích tình hình
thực hiện hoạt động này tại SGDI, trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp là vấn đề rất hấp
dẫn và cần thiết.
Với suy nghĩ đó, em đã mạnh dạn chọn đề tài:
"Một số giải pháp nhằm phát triển hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại
Sở giao dịch I - Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam".
Mục đích nghiên cứu của đề tài:
Nghiên cứu giải pháp nhằm phát triển hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại
SGD I - NHNo&PTNTVN. Để thực hiện được mục đích này khoá luận đã đi sâu nghiên
cứu tổng luận về tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của NHTM, từ đó soi rọi vào thực tiễn
hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại SGDI - NHNo&PTNTVN. Trên cơ sở những
tồn tại, khoá luận đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển hoạt động tín
dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại SGD I - NHNo&PTNTVN.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Khoá luận tập trung nghiên cứu, phân tích hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu
tại SGDI - từ năm 1999 tới nay và đề xuất biện pháp mở rộng hoạt động này trong 5 - 10
năm tới.
Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở lý luận về tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, khoá luận soi rọi vào thực tiễn
hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại SGDI - NHNo&PTNTVN bằng phương
pháp phân tích, so sánh, tổng hợp.
Ngoài lời mở đầu và kết luận, bản khoá luận được kết cấu thành 3 chương:
CHƯƠNG 1 : LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍN DỤNG TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU
CỦA NHTM
CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TÀI TRỢ XUẤT NHẬP
KHẨU TẠI SỞ GIAO DỊCH I - NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN
NÔNG THÔN VIỆT NAM.
CHƯƠNG 3 : MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG
TÀI TRỢ XNK TẠI SGD I - NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN
NÔNG THÔN VIỆT NAM
CHƯƠNG 1:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍN DỤNG TÀI TRỢ
XUẤT NHẬP KHẨU CỦA NHTM
1.1 TÍN DỤNG TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU & VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG
NÀY.
1.1.1 Khái niệm tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu
Ngày nay, với xu hướng toàn cầu hoá, nền kinh tế của từng quốc gia luôn chịu ảnh
hưởng và tác động của nền kinh tế thế giới. Trong bối cảnh đó, một quốc gia không thể
tồn tại độc lập với quốc gia khác về mặt kinh tế, không thể không hội nhập với kinh tế thế
giới nếu quốc gia đó không muốn bị cô lập. Thông qua hoạt động kinh tế quốc tế, tiềm
năng và thế mạnh của nền kinh tế được phát huy đồng thời tận dụng được vốn và công
nghệ tiên tiến của các nước phát triển.
Thị trường thương mại thế giới ngày càng mở rộng dẫn đến nhu cầu xuất nhập khẩu
của các quốc gia cũng tăng lên nhằm khai thác tốt hơn lợi thế so sánh của đất nước mình.
Tuy nhiên, do khả năng tài chính có hạn nên không phải lúc nào các doanh nghiệp xuất
nhập khẩu cũng có đủ vốn để thu mua, chế biến hàng xuất khẩu hay thanh toán tiền hàng
nhập khẩu. Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp dù có đủ khả năng tài chính nhưng vẫn
không thể xuất nhập khẩu hàng hoá do họ còn chưa có danh tiếng và uy tín trên thị
thường quốc tế. Đây chính là nguyên nhân làm nảy sinh quan hệ tín dụng và bảo lãnh của
các ngân hàng thương mại với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. Nhờ các
loại hình tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng mà nhu cầu về tài chính hoặc uy tín của
thương nhân trong giao dịch thương mại quốc tế được đáp ứng, mà những nhu cầu này
chính là một nét đặc trưng của giao dịch quốc tế hiện đại. Vì vậy, có thể nói sự ra đờì của
tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu là một yêu cầu tất yếu khách quan, nó gắn liền với các
quan hệ mua bán ngoại thương giữa các nước với nhau.
Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại các ngân hàng thương mại dựa vào 4 nguyên tắc
cơ bản sau:
1. Việc cho vay phải trên cơ sở thẩm định rõ khách hàng.
Nguyên tắc này là nguyên tắc quan trọng trong công tác tín dụng của ngân hàng. Thực
hiện tốt nguyên tắc này sẽ giúp ngân hàng giảm thiểu những rủi ro có thể gặp phải, nâng
cao hiệu quả kinh doanh, nâng cao uy tín và vị thế của ngân hàng trên thị trường.
2. Tiền vay phải được hoàn trả đúng hạn cả vốn và lãi.
Trong hợp đồng tín dụng, ngân hàng và khách hàng thoả thuận với nhau số tiền vay,
lãi suất cho vay và thời hạn của hợp đồng. Để tạo điều kiện cho khách hàng hoàn trả nợ
đúng hạn, ngân hàng nên định kỳ hạn nợ phù hợp với chu kỳ sản xuất, thời gian giao
hàng, thời gian tiêu thụ hàng hoá...
3. Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích.
Đây là một nguyên tắc quan trọng bởi chỉ khi khách hàng sử dụng vốn vay đúng mục
đích và đúng với phương án sản suất kinh doanh như đã cam kết với ngân hàng thì khoản
tín dụng ngân hàng cấp mới đảm bảo an toàn và hiệu quả. Để làm được điều này, cán bộ
tín dụng của ngân hàng phải thường xuyên kiểm tra giám sát quá trình sử dụng tiền vay.
4. Vốn vay phải có tài sản tương đương làm đảm bảo.
Đây là một nguyên tắc cần thiết bởi tài sản làm đảm bảo sẽ là nguồn thu thứ hai cho
ngân hàng khi khách hàng không thanh toán được nợ vay. Bằng cách phát mãi tài sản
cầm cố, thế chấp, ngân hàng có thể thu hồi một phần vốn cho vay khi khách hàng không
còn khả năng trả nợ ngân hàng.
Cùng với sự phát triển của ngoại thương và của hệ thống ngân hàng, các phương thức
thanh toán quốc tế ngày càng đa dạng đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của các doanh
nghiệp. Nhờ đó, nghiệp vụ tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng cũng phát triển
dưới nhiều hình thức, góp phần phục vụ tích cực và có hiệu quả cho hoạt động xuất nhập
khẩu.
Tóm lại : Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu là một mảng dịch vụ trong hệ thống tất cả
các dịch vụ chuyên biệt của ngân hàng nhằm hỗ trợ các nhà kinh doanh xuất nhập
khẩu trong giao dịch thương mại quốc tế. Mảng dịch vụ này mang nét chung là ngân
hàng cung ứng vốn bằng tiền hoặc bảo lãnh bằng uy tín cho các bên xuất khẩu, nhập
khẩu, giúp họ gia tăng hiệu quả trong kinh doanh và thực hiện thương vụ thành công.
1.1.2 Vai trò của tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu
Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu là một mảng dịch vụ có ý nghĩa cực kỳ quan trọng
không những đối với các doanh nghiệp mà còn đối với cả ngân hàng và đối với nền kinh
tế. Nhờ hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng mà tất cả các bên tham gia vào
thương mại quốc tế đều được hưởng lợi từ chính hoạt động này.
1.1.2.1 Đối với nền kinh tế
Thông qua các hình thức tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của các ngân hàng thương
mại, hoạt động mua bán hàng hoá xuất nhập khẩu theo yêu cầu của thị trường được thực
hiện thường xuyên, liên tục; các sản phẩm trong nước có thể thâm nhập thị trường quốc
tế dễ dàng hơn. Hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu góp phần nâng cao tính năng động của
nền kinh tế và giúp ổn định thị trường.
Bên cạnh đó, hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng còn giúp các doanh
nghiệp nói chung và các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nói riêng tồn tại và đứng vững
trong cơ chế thị trường, mở rộng sản xuất kinh doanh, nâng cao uy tín và danh tiếng trên
thị trường quốc tế. Và chính sự phát triển của các doanh nghiệp là động cơ thúc đẩy nền
kinh tế phát triển. Thông qua tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng mà các doanh
nghiệp có vốn để thay đổi dây chuyền công nghệ, hiện đại hoá máy móc thiết bị nhằm
tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, tạo ra sản phẩm phong phú đa dạng về
mẫu mã chủng loại để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của ngươì dân. Các doanh nghiệp
cũng có thể nhập khẩu các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống sinh hoạt của
nhân dân hoặc các mặt hàng phục vụ sản xuất mà trong nước chưa sản xuất được hay giá
thành còn cao. Vì vậy, sự phát triển của các doanh nghiệp đã mang lại lợi ích cho người
tiêu dùng.
Hoạt động tài trợ tín dụng của ngân hàng còn giúp tạo cho công ăn việc làm cho người
lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp, tạo nguồn thu ngoại tệ cho ngân sách nhà nước, góp
phần phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước, giúp mở rộng mối quan hệ đối
ngoại với các nước trên thế giới.
1.1.2.2 Đối với các ngân hàng thương mại
Tài trợ xuất nhập khẩu đóng vai trò quan trọng đối với các ngân hàng thương mại bởi
vì đây là mảng dịch vụ tạo nguồn thu phí và lãi lớn nhất trong số các dịch vụ kinh doanh
đối ngoại của ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng thương mại ở những nước đang phát
triển như Việt Nam Có nhiều loại lãi suất trong quá trình tài trợ như lãi cho vay thanh
toán, lãi chiết khấu chứng từ, lãi vay bắt buộc (bằng mức lãi quá hạn)...Tiền phí và lãi
ngân hàng thu được cao bởi vì giá trị tài trợ xuất nhập khẩu thường ở mức vừa và lớn.
Thêm vào đó, đây còn là hình thức cho vay mang lại an toàn, đảm bảo sử dụng vốn
đúng mục đích và thời gian thu hồi vốn nhanh. Do gắn liền với thời hạn thực hiện thương
vụ nên kỳ hạn tài trợ thường ngắn (dưới 1 năm), vì vậy nó phù hợp với kỳ hạn huy động
vốn của ngân hàng, giúp ngân hàng tránh các rủi ro về thanh khoản. Thông qua việc cấp
tín dụng xuất nhập khẩu, các ngân hàng có thể kiểm soát các giao dịch của doanh nghiệp,
tránh tình trạng doanh nghiệp được tài trợ vốn sử dụng vốn sai mục đích, giúp cho ngân
hàng tránh rủi do tín dụng.
Lợi ích quan trọng khác mà hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu mang lại cho
ngân hàng là không những giúp thắt chặt mối quan hệ bền vững giữa ngân hàng với các
doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu mà cón giúp mở rộng hoạt động và nâng cao uy
tín của ngân hàng trên thị trường quốc tế.
1.1.2.3 Đối với các doanh nghiệp
Thông qua tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng mà nhu cầu tài chính cho các
thương vụ lớn của các thương nhân được đáp ứng. Trong kinh doanh quốc tế, có những
thương vụ ngoại thương đòi hỏi một nguồn vốn rất lớn để thanh toán tiền hàng mà nguồn
vốn lưu động của doanh nghiệp nhiều khi không đáp ứng kịp thời cho nhu cầu thanh toán
hàng nhập hoặc chuẩn bị hàng xuất. Chính nhờ hoạt động tài trợ của ngân hàng mà doanh
nghiệp có thể thực hiện những hợp đồng lớn này.
Bên cạnh đó, hiệu quả của doanh nghiệp trong quá trình thực hiện hợp đồng tăng lên
nhờ có nghiệp vụ tài trợ ngoại thương. Đối với doanh nghiệp xuất khẩu, vốn tài trợ giúp
doanh nghiệp thu mua hàng đúng thời vụ; gia công chế biến và giao hàng đúng thời điểm.
Đối với doanh nghiệp nhập khẩu, vốn tài trợ của ngân hàng giúp doanh nghiệp mua được
lô hàng lớn, giá cả hạ hơn. Cả hai trường hợp này đều giúp tăng hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp.
Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiểu
thủ công nghiệp phát triển sản xuất, tăng nhanh sản lượng, đa dạng hoá mặt hàng xuất
khẩu, giúp cho các sản phẩm trong nước có thể thâm nhập thị trường nước ngoài dễ dàng
hơn.
Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng còn giúp doanh nghiệp nâng cao uy tín
trên thị trường quốc tế. Nhờ có bảo lãnh của ngân hàng, các doanh nghiệp có thể thực
hiện các hợp đồng lớn trôi chảy, quan hệ làm ăn với các khách hàng lớn trên thế giới, từ
đó không ngừng nâng cao uy tín doanh nghiệp trên thị trường quốc tế.
1.2 MỘT SỐ HÌNH THỨC TÍN DỤNG TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU
Hoạt động kinh doanh quốc tế ngày càng phát triển và nhu cầu tài trợ của ngân hàng
đối với các hoạt động này ngày càng tăng. Thông thường, nghiệp vụ tín dụng tài trợ xuất
nhập khẩu của ngân hàng thường gắn với nghiệp vụ thanh toán quốc tế.và tạo điều kiện
để nghiệp vụ này phát triển. Trong lĩnh vực tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng, có hai
loại hình tài trợ chủ yếu:
- Tài trợ bằng cách cho vay
- Tài trợ bằng cách bảo lãnh
1.2.1 Tài trợ bằng cách cho vay
1.2.1.1 Tài trợ nhập khẩu
Trong giao dịch kinh doanh, uy tín và khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu là vấn
đề quan trọng nhất. Đó là bởi nhà xuất khẩu thiếu thông tin về tình hình tài chính, năng
lực kinh doanh của bên nhập khẩu; môi trường kinh tế, môi trường pháp lý của nước
nhập khẩu... nên nhà xuất khẩu khó có thể tin tưởng và bán hàng cho bên nhập khẩu, đặc
biệt là bán hàng trả chậm. Vì vậy, nhà nhập khẩu phải tìm giải pháp để nâng cao uy tín và
khả năng thanh toán của mình một cách chắc chắn trước đòi hỏi của nhà xuất khẩu. Dưới
đây là một số hình thức tài trợ nhập khẩu chủ yếu:
1.2.1.1.1 Tài trợ phát hành tín dụng thư
Đối với nhà nhập khẩu, mở L/C được xem là hình thức tài trợ của ngân hàng. Khi
ngân hàng đồng ý mở L/C cho nhà nhập khẩu có nghĩa là ngân hàng cam kết thanh toán
cho người hưởng lợi L/C nếu bộ chứng từ hợp lý. Vì vậy nếu người nhập khẩu không có
khả năng thanh toán hoặc không muốn thanh toán khi đến hạn L/C thì ngân hàng mở L/C
chính là người gánh chịu rủi ro. Do đó, trước khi mở L/C, ngân hàng phải kiểm tra tình
hình tài chính và khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu.
SƠ ĐỒ 1.1 : Quy trình nghiệp vụ tín dụng chứng từ
(6)
(3) Ngân hàng phục vụ nhà xuất khẩu (Advising
Ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu (Issuing Bank)
(6) (4) (8) (9) (2)
(1)
Người xuất khẩu
Người nhập khẩu
(1) Nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu ký hợp đồng.
(2) Nhà nhập khẩu đề nghị ngân hàng phục vụ mình mở thư tín dụng(L/C).
(3) Ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu mở L/C theo yêu cầu của nhà nhập khẩu và
thông báo về việc mở L/C với ngân hàng phục vụ nhà xuất khẩu.
(4) Ngân hàng phục vụ nhà xuất khẩu thông báo toàn bộ L/C đã được xác định tính
chân thực cho nhà xuất khẩu.
(5) Nhà xuất khẩu có được L/C như yêu cầu sẽ tiến hành giao hàng.
(6) Nhà xuất khẩu tập trung chứng từ chuyển cho ngân hàng phục vụ mình và ngân
hàng này có trách nhiệm kiểm tra bộ chứng từ.
(7) Ngân hàng phục vụ nhà xuất khẩu gửi toàn bộ chứng từ kèm theo lệnh đòi tiền
sang ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu
(8) Ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu kiểm tra toàn bộ chứng từ xem có phù hợp
với L/C không. Nếu phù hợp thì sẽ trả tiền cho nhà xuất khẩu thông qua ngân hàng
phục vụ nhà xuất khẩu.
(9) Ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu đòi tiền nhà nhập khẩu.
1.2.1.1.2 Cho vay ký quỹ L/C
Ký quỹ là quy định của ngân hàng phát sinh trong trường hợp khách hàng đề nghị
ngân hàng phát hành L/C, xác nhận L/C hoặc bảo lãnh cho doanh nghiệp vay vốn nước
ngoài. Khách hàng sẽ phải nộp một khoản tiền nhất định vào tài khoản của họ tại ngân
hàng và khoản tiền đó sẽ bị phong toả cho đến khi nghĩa vụ của ngân hàng chấm dứt.
Khoản ký quỹ thường tỷ lệ với giá trị L/C phát hành hoặc giá trị mà khách hàng xin bảo
lãnh. Để đề phòng rủi ro, với những khách hàng thiếu sự tin cậy hoặc với thương vụ tiềm
ẩn rủi ro cao, ngân hàng thường yêu cầu ký quỹ đủ 100% giá trị L/C hoặc 100% giá trị
khách hàng xin bảo lãnh. Trong thực tế, ngân hàng thường phân loại khách hàng của
mình tuỳ theo tình hình tài chính, uy tín, khả năng thanh toán giữa ngân hàng và khách
hàng mà ngân hàng tài trợ sẽ quyết định mức ký quỹ cao hay thấp. Trong một số trường
hợp, ngân hàng có thể cho vay để ký quỹ mở L/C.
Cho vay ký quỹ là một nghiệp vụ cần thiết bởi vì nó vừa giúp giải quyết khó khăn về
vốn lưu động cho khách hàng, tăng tính an toàn, mang lại hiệu quả cho ngân hàng vừa
đảm bảo tuân thủ những quy định pháp lý của ngân hàng về ký quỹ bảo lãnh.
1.2.1.1.3 Tín dụng ứng trước đối với nhà nhập khẩu
Theo phương thức này, khách hàng cần lập phương án sản xuất kinh doanh khả thi cho
lô hàng nhập về, đồng thời khách hàng phải lên kế hoạch tài chính nhằm xác định khả
năng thanh toán khi đến thời điểm thanh toán dự kiến, xác định khoản thiếu hụt cần ngân
hàng tài trợ. Sau khi xem xét kế hoạch và phương án trên, ngân hàng sẽ ra quyết định tài
trợ và mức chấp nhận tài trợ. Tất cả các công đoạn này cần thực hiện trước khi bộ chứng
từ giao hàng của người xuất khẩu về đến ngân hàng đứng ra tài trợ.
Khi hàng hoá và bộ chứng từ đến nơi, nhà nhập khẩu có thể nhận được sự tài trợ từ
ngân hàng thông qua hình thức vay thanh toán tiền hàng. Sau đó, nhà nhập khẩu bán hàng
đi và thanh toán cho ngân hàng.
1.2.1.1.4 Chấp nhận hối phiếu
Chấp nhận hối phiếu là việc nhà nhập khẩu hoặc ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu ký
chấp nhận lên hối phiếu trong thời hạn quy định. Điều này đồng nghĩa với việc nhà nhập
khẩu hoặc ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu cam kết thanh toán khi đến hạn.
Tín dụng chấp nhận hối phiếu là khoản tín dụng mà ngân hàng ký chấp nhận hối phiếu.
Người vay khoản tín dụng này là người nhập khẩu và khoản tín dụng này chỉ là một hình
thức, một sự đảm bảo bởi vì ngân hàng chưa phải cấp vốn thực sự cho nhà nhập khẩu.
Chỉ đến khi đến hạn mà nhà nhập khẩu không thể thanh toán thì ngân hàng là người cho
vay ( người chấp nhận hối phiếu ) sẽ phải đứng ra trả nợ thay. Đối với ngân hàng, kể từ
khi ngân hàng ký chấp nhận hối phiếu cũng chính là thời điểm bắt đầu gánh chịu rủi ro
khi nhà nhập khẩu không có khả năng thanh toán khi hối phiếu đến hạn. Bù lại , ngân
hàng sẽ được nhận một khoản phí chấp nhận, khoản tiền bù đắp chi phí gánh chịu rủi ro.
Khoản phí này thường nhỏ mà rủi ro do nghiệp vụ này mang lại rất lớn nên các ngân
hàng thường ít thực hiện nghiệp vụ này.
Tín dụng chấp nhận hối phiếu này xảy ra trong trường hợp người xuất khẩu không tin
tưởng vào khả năng thanh toán của người nhập khẩu nên nhà xuất khẩu đề nghị nhà nhập
khẩu yêu cầu một ngân hàng đứng ra chấp nhận hối phiếu do người xuất khẩu ký phát.
Nếu ngân hàng không tin tưởng vào nhà nhập khẩu thì ngân hàng có thể đồng ý chấp
nhận hối phiếu nếu nhà nhập khẩu ký quỹ 100% giá trị hối phiếu. Trong trường hợp này
thì ngân hàng là người tài trợ uy tín cho nhà nhập khẩu.
1.2.1.1.5 Tín dụng thuê mua (leasing)
Đây là hình thức cam kết giữa người cho thuê và người đi thuê để thuê một tài sản
nhất định do người thuê chọn lựa, người thuê được quyền sử dụng tài sản này trong
khoảng thời gian nhất định và phải trả tiền dần từng kỳ theo hợp đồng thuê mua. Khi kết
thúc hợp đồng, người mua được quyền chọn mua tài sản cho thuê theo giá cả ấn định.
Người cho thuê là công ty thuê mua của ngân hàng và người đi thuê chính là các
doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu. Hình thức tín dụng này thường là trung dài hạn, nó
tạo điều kiện cho doanh nghiệp đổi mới công nghệ, máy móc, thiết bị mà không phải trả
tiền ngay một lúc.
SƠ ĐỒ 1.2 : Quy trình nghiệp vụ tín dụng thuê mua
(2)
NHÀ XUẤT KHẨU ( NHÀ SẢN XUẤT )
NHÀ NHẬP KHẨU ( NGƯỜI ĐI THUÊ)
(4) (3) (1) (5)
CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH CỦA NGÂN HÀNG
(1) Nhà nhập khẩu ký hợp đồng thuê mua
(2) Nhà nhập khẩu lựa chọn nhà xuất khẩu để mua hàng hoá
(3) Công ty thuê mua của ngân hàng ký hợp đồng mua tài sản với nhà xuất khẩu
(4) Nếu nhà xuất khẩu chấp nhận giá mua và công ty thuê mua đồng ý với các điều
kiện thoả thuận thì nhà xuất khẩu bán 100% giá trị tài sản cho công ty thuê mua
(5) Trong thời gian thuê mua, nhà nhập khẩu (người đi thuê) phải đặt cọc một
khoản tiền và phải trả tiền thuê cho công ty thuê mua.
1.2.1.2 Tài trợ xuất khẩu
1.2.1.2.1 Cho vay thực hiện hàng xuất khẩu theo L/C đã mở
Khi nhận được L/C do ngân hàng mở L/C phát hành theo yêu cầu của nhà nhập khẩu
có nghĩa là nhà xuất khẩu được đảm bảo thanh toán sau khi giao hàng nếu bộ chứng từ
phù hợp với L/C. Nhà xuất khẩu có thể dựa vào đó để yêu cầu ngân hàng phục vụ mình
cấp một khoản tín dụng để thực hiện xuất hàng theo quy định của L/C.
1.2.1.2.2 Tín dụng chiết khấu hoặc tín dụng ứng trước đối với nhà xuất khẩu
Sau khi giao hàng, người xuất khẩu có nhu cầu bù đắp vốn để tiếp tục quá trình sản
xuất kinh doanh trong khoảng thời gian xuất chuyển hàng hoá đến khi nhà nhập khẩu
chấp nhận bộ chứng từ và đồng ý trả tiền. Để bù đắp nhu cầu về vốn này, nhà xuất khẩu
sau khi giao hàng có thể thương lượng với ngân hàng để ngân hàng thực hiện chiết khấu
bộ chứng từ hoặc ứng trước tiền khi bộ chứng từ được thanh toán.
Chiết khấu bộ chứng từ là hình thức ngân hàng tài trợ thông qua việc mua lại hoặc
cho vay trên cơ sở giá trị bộ chứng từ hoàn hảo được xuất trình. Có 2 hình thức chiết
khấu là chiết khấu miễn truy đòi và chiết khấu được phép truy đòi nhưng hình thức chiết
khấu miễn truy đòi ít được sử dụng do nó tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với ngân hàng chiết
khấu. Phạm vi chiết khấu bộ chứng từ thường chỉ được áp dụng trong phương thức thanh
toán quốc tế tín dụng chứng từ bởi phương thức này có sự ràng buộc chặt chẽ trách nhiệm
giao hàng của nhà xuất khẩu và trách nhiệm thanh toán của nhà nhập khẩu thông qua các
ngân hàng phục vụ các bên.
Đối với tín dụng ứng trước, những giấy tờ có giá theo lệnh hoặc những giấy tờ chính
như vận đơn, hoá đơn thương mại, hợp đồng bảo hiểm...đều là vật thế chấp cho ngân
hàng. Do đó tất cả những giấy tờ có giá theo lệnh đều phải có mệnh đề chuyển nhượng
khống hoặc chuyển nhượng cho ngân hàng cấp tín dụng ứng trước. Nếu những giấy tờ có
giá trị trên không cho phép chuyển nhượng thì người vay vốn phải sử dụng hình thức cấp
vốn khác.
Mức độ cấp vốn ứng trước phụ thuộc vào các yếu tố sau:
- Khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu
- Khả năng cạnh tranh của hàng hoá và giá trị hàng hoá dự kiến
- Chính sách kinh tế, chính trị của nước nhập khẩu đối với ngân hàng phục vụ nhà xuất
khẩu
- Những rủi ro về tỷ giá hối đoái
Điểm khác biệt lớn giữa tài trợ chiết khấu và tài trợ ứng trước là ở mức giá trị tài trợ.
Tương ứng với sự khác biệt này, quyền hạn của ngân hàng đối với việc thụ hưởng giá trị
hối phiếu, các quyền hạn khác liên quan tới hối phiếu và quyền hạn trong việc xử lý bộ
chứng từ.
- Trong tài trợ chiết khấu, ngân hàng có toàn quyền ra chỉ thị xử lý và yêu cầu ngân
hàng xuất trình thực hiện
- Trong tài trợ ứng trước, ngân hàng chỉ đơn giản là ngân hàng chuyển giao chỉ thị
của nhà xuất khẩu
Đối với nghiệp vụ chiết khấu bộ chứng từ cũng như tài trợ ứng trước, ngân hàng chỉ
có quyền truy đòi nhà xuất khẩu khi bị bên mua từ chối thanh toán.
1.2.1.2.3 Chiết khấu hối phiếu
Đây là nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn được thực hiện dưới hình thức khách hàng chuyển
quyền sở hữu hối phiếu chưa đáo hạn cho ngân hàng để nhận một số tiền bằng mệnh giá
của hối phiếu trừ đi lãi chiết khấu và hoa hồng phí chiết khấu.
Thông qua hình thức chiết khấu hối phiếu ngân hàng tài trợ một khoản tín dụng cho
nhà xuất khẩu để họ tiếp tục quá trình tái sản xuất. Đặc trưng của nghiệp vụ này là ngân
hàng khấu trừ tiền lãi ngay khi chiết khấu và chỉ chuyển cho người xuất khẩu số tiền còn
lại. Điều này có nghĩa là ngân hàng thu lãi của khoản tín dụng ngay khi cấp tín dụng. Khi
kết thúc thời hạn chiết khấu, ngân hàng sẽ đòi tiền ở người có nhiệm vụ trả tiền hối
phiếu. Ngân hàng sẽ gặp rủi ro khi người có trách nhiệm trả tiền hối phiếu từ chối trả tiền
hối phiếu hoặc không có khả năng trả tiền khi hối phiếu đến hạn hoặc hối phiếu không
hợp lệ. Vì vậy ngân hàng phải thận trọng khi quyết định chiết khấu một hối phiếu.
1.2.1.2.4 Tín dụng bao thanh toán (factoring)
Tín dụng bao thanh toán là hình thức tín dụng tài trợ ngắn hạn của ngân hàng dành cho
các nhà xuất khẩu. Hình thức tài trợ này có nghĩa là nhà xuất khẩu giao hết tất cả các bản
sao hoá đơn bán hàng cho tổ chức tài trợ (ngân hàng) để nhận một mức tài trợ nhất định
và tổ chức tài trợ sẽ đảm nhận toàn bộ quá trình thu tiền và ghi chép, kế toán các khoản
phải thu. Khi thực hiện nghiệp vụ này ngân hàng thu được một khoản phí khá cao.
Tuỳ theo tính chất hoàn hảo của chứng từ, tình hình tài chính và khả năng thanh toán
của người mắc nợ mà ngân hàng quyết định tỷ lệ mua nợ cao hay thấp đối với nhà xuất
khẩu. Có 2 loại tín dụng bao thanh toán là bao thanh toán có truy đòi và bao thanh toán
miễn truy đòi.
- Bao thanh toán có truy đòi là loại bao thanh toán mà ngân hàng sẽ thanh toán tiền
cho nhà xuất khẩu nhưng với thoả thuận là nhà xuất khẩu sẽ phải trả lại ngân hàng số tiền
đó nếu như nhà nhập khẩu không thanh toán cho ngân hàng.
- Bao thanh toán không truy đòi là loại bao thanh toán mà ngân hàng sẽ chịu mọi rủi ro
nếu như người nhập khẩu không trả tiền.
Tín dụng bao thanh toán mang lại nhiều lợi ích cho nhà xuất khẩu bởi vì nhà xuất khẩu
sẽ có vốn để thực hiện hoạt động kinh doanh ngay sau khi vừa bán hàng dù người nhập
khẩu có trả tiền ngay hay mua chịu. Bên cạnh đó, nhà xuất khẩu không phải bận tâm vào
việc quản lý thanh toán phức tạp kéo dài mà giao nó cho ngân hàng, một tổ chức có nhiều
kinh nghiệm trong lĩnh vực này..
1.2.2 Tín dụng bằng cách bảo lãnh
Bảo lãnh ngân hàng là một hình thức ngân hàng tài trợ uy tín cho các doanh nghiệp
xuất nhập khẩu và ngân hàng không phải bỏ ra một đồng vốn nào. trách nhiệm của ngân
hàng khi đứng ra bảo lãnh là đảm bảo thi hành đúng cam kết với nước ngoài trong trường
hợp người xin bảo lãnh không thực hiện đầy đủ một nghiệp vụ nào đó với bên nước
ngoài.
Trong kinh doanh quốc tế hiện nay, nhu cầu về bảo lãnh của ngân hàng ngày một gia
tăng. Nhà xuất khẩu cần có sự bảo lãnh của ngân hàng khi nhà nhập khẩu yêu cầu bởi nhà
nhập khẩu không biết hay không tin tưởng vào khả năng thực hiện hợp đồng của nhà xuất
khẩu. Ngược lại, nhà nhập khẩu cũng cần có sự bảo lãnh của ngân hàng khi nhà xuất
khẩu yêu cầu bởi vì nhà xuất khẩu không nắm chắc khả năng tài chính, khả năng thanh
toán hay mức độ tín nhiệm của nhà nhập khẩu.
Trên thực tế, có rất nhiều loại bảo lãnh ngân hàng tuỳ theo yêu cầu của các bên mua
bán trong quá trình thực hiện hợp đồng. Một số loại bảo lãnh ngân hàng cho người xuất
khẩu là bảo lãnh đấu thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh tiền cọc, bảo lãnh bảo
hành, bảo lãnh bảo lưu... Một số hình thức bảo lãnh ngân hàng dành cho người nhập khẩu
là : tài trợ xác nhận L/C...
Thực chất việc ký xác nhận vào L/C phát hành của ngân hàng ở nước xuất khẩu là
nghiệp vụ bảo lãnh uy tín thanh toán cho ngân hàng phát hành, đây là một dạng tài trợ
liên ngân hàng. Khi thực hiện nghiệp vụ tài trợ này, ngân hàng xác nhận đã đảm nhận
trước nhà xuất khẩu tất cả rủi ro liên quan đến uy tín và khả năng thanh toán của nhà
nhập khẩu, của ngân hàng phát hành L/C và cả của quốc gia nhập khẩu.
Hình thức tín dụng bảo lãnh mang lại nhiều lợi ích cho các bên liên quan:
- Đối với nhà xuất khẩu: nếu nhà nhập khẩu là người được bảo lãnh thì nhà xuất khẩu
hoàn toàn yên tâm là mình sẽ được thanh toán khi đến hạn nếu thực hiện đúng hợp đồng.
Còn nếu nhà xuất khẩu là người được bảo lãnh thì người xuất khẩu có thể ký được hợp
đồng và bán được hàng do ngân hàng đã bảo lãnh thực hiện hợp đồng cho anh ta.
- Đối với nhà nhập khẩu: nếu nhà nhập khẩu là người được bảo lãnh thì nhà nhập khẩu
sẽ được hưởng một khoản vốn của bên xuất khẩu mà không phải trả lãi, chỉ trả một khoản
phí cho người bảo lãnh. Nếu nhà xuất khẩu là người được bảo lãnh thì nhà nhập khẩu yên
tâm là mình sẽ mua được hàng và không bị mất thời cơ trong kinh doanh vì không có
hàng.
- Đối với ngân hàng (người bảo lãnh): thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh nghĩa là ngân
hàng có được uy tín, được sự tín nhiệm của bên xuất khẩu hay nhập khẩu. Bên cạnh đó
ngân hàng còn có thu nhập là khoản phí bảo lãnh.
1.3 NHỮNG RỦI RO TRONG TÍN DỤNG TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU
Trong lĩnh vực kinh doanh, đặc biệt là trong lĩnh vực tài trợ ngoại thương, hoạt động
tín dụng của ngân hàng thường gặp nhiều rủi ro. Đó là bởi hoạt động tài trợ ngoại thương
của ngân hàng có mối liên hệ chặt chẽ với hoạt động kinh doanh quốc tế, mà hoạt động
kinh doanh quốc tế có nhiều rủi ro do nhiều đối tác ở các quốc gia khác nhau cùng tham
gia. Vì vậy, các rủi ro trong tài trợ ngoại thương của ngân hàng cũng bắt nguồn từ rủi ro
mà các công ty xuất nhập khẩu sẽ phải gánh chịu trong quá trình kinh doanh. Những rủi
ro này có thể là do chủ quan hoặc khách quan nhưng đều có tác động không tốt đến hoạt
động của ngân hàng. Chính vì vậy, việc hiểu biết về các loại rủi ro và nguyên nhân phát
sinh chúng là rất cần thiết, nó giúp ngân hàng có biện pháp phòng tránh và giảm thiểu
hậu quả mà rủi ro mang lại.
1.3.1 Rủi ro tín dụng
Đây là loại rủi ro phát sinh khi khách hàng được tài trợ không có khả năng thanh toán
tiền đã vay hoặc thực hiện những nghĩa vụ đã cam kết của mình.
Để khắc phục và chống đỡ rủi ro này, ngân hàng phải thẩm định kỹ khách hàng và sẽ
áp dụng nguyên tắc lãi suất cho vay hoặc mức phí tài trợ tương ứng với mức độ rủi ro của
khách hàng.
1.3.2 Rủi ro lãi suất
Rủi ro về lãi suất phát sinh do những biến động giữa lãi suất phải trả cho nguồn vốn
ngân hàng đi vay và lãi suất thu được từ nguồn vốn ngân hàng tài trợ ngoại thương. Rủi
ro lãi suất còn phát sinh do sự bất tương xứng về ngày tái lập lãi suất giữa các loại nguồn
vốn của ngân hàng và các khoản mục kinh doanh của nó. Rủi ro này làm ảnh hưởng đến
khả năng sinh lợi của ngân hàng .
1.3.3 Rủi ro hối đoái
Rủi ro ngoại hối là những rủi ro bắt nguồn từ sự biến động bất lợi của tỷ giá và của
các quy chế quản lý ngoại hối của nhà nước. Các yếu tố này tác động mạnh tới các tài sản
bằng ngoại tệ và các dịch vụ kinh doanh đối ngoại của ngân hàng.
1.3.4 Rủi ro thanh khoản
Rủi ro này phát sinh từ sự bất tương xứng về kỳ hạn giữa nguồn vốn và việc sử dụng
vốn của ngân hàng, trong đó có các khoản tài trợ ngoại thương, khiến cho ngân hàng
thiếu khả năng thanh khoản để đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng. Rủi ro này
làm ngân hàng mất uy tín và có thể dẫn đến phá sản ngân hàng.
1.3.5 Rủi ro tác nghiệp
Đây là loại rủi ro phát sinh từ các dịch vụ thu phí của ngân hàng , theo đó một sai sót
hay một sự bất cẩn khiến cho ngân hàng phải gánh chịu những tổn thất tài chính to lớn.
Những yếu tố gây rủi ro loại này có thể là sự gian lận của khách hàng, sự vị phạm đạo
đức nghề nghiệp của cán bộ ngân hàng, rủi ro pháp lý, rủi ro môi trường...
1.4 QUY TRÌNH THỰC HIỆN TÍN DỤNG TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU CỦA
CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.4.1 Thủ tục tài trợ
Khi có nhu cầu về tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng, khách hàng đến ngân hàng
xin tài trợ và nộp các hồ sơ liên quan để ngân hàng có căn cứ xét duyệt. Các giấy tờ liên
quan gồm có:
* Hồ sơ pháp lý gồm :
Giấy phép thành lập; giấy phép hành nghề của cơ quan chuyên môn; giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh; giấy phép trú đóng; bảng điều lệ công ty; giấy bổ nhiệm giám
đốc, kế toán trưởng.
Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải có: Giấy phép đầu tư, góp đủ
vốn pháp định.
* Hồ sơ kinh tế gồm :
Bảng báo cáo kết quả kinh doanh, bảng cân đối kế toán, bảng báo cáo lưu chuyển tiền
tệ, bảng báo cáo kiểm toán, bảng thuyết minh.
* Hồ sơ cho vay gồm :
Đơn xin vay hoặc đơn xin bảo lãnh; các hợp đồng thương mại, hợp đồng ngoại
thương; hợp đồng uỷ thác (trong trường hợp doanh nghiệp không có chức năng kinh
doanh xuất nhập khẩu); bảng liệt kê tài sản thế chấp, cầm cố (nếu có) kèm theo giấy
chứng nhận quyền sở hữu; các giấy tờ liên quan khác.
1.4.2 Thẩm định hồ sơ
Thẩm định hồ sơ là việc cán bộ tín dụng thẩm tra lại các thông tin về khách hàng dựa
trên cuộc phỏng vấn tiếp xúc trực tiếp với khách hàng và qua hồ sơ khách hàng cung cấp
- một bước quan trọng trong quá trình tài trợ của ngân hàng. Làm tốt bước này sẽ giúp
ngân hàng hạn chế rủi ro tín dụng và mang lại hiệu quả cho hoạt động kinh doanh của
ngân hàng và doanh nghiệp.
Cán bộ tín dụng phải thực hiện các bước sau trong quá trình thẩm định hồ sơ :
- Kiểm tra tính hợp pháp của hồ sơ pháp lý
- Đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp.
- Đánh giá tính khả thi và hiệu quả của dự án
- Thẩm định tài sản đảm bảo
1.4.3 Lập tờ trình
Sau khi thẩm định hồ sơ khách hàng, cán bộ tín dụng lập tờ trình lên trưởng phòng
tín dụng. Tờ trình này phải nêu rõ tình hình tài chính của doanh nghiệp, nhu cầu vốn, số
tiền xin tài trợ, tính khả thi, hiệu quả của phương án kinh doanh và kiến nghị của cán bộ
tín dụng có nên cho vay hay không.
Trưởng phòng tín dụng căn cứ ý kiến của cán bộ tín dụng đồng thời xem xét lại hồ sơ
và cho ý kiến để trình lên ban giám đốc xét duyệt. Nếu cần thiết có thể đưa ra hội đồng
tín dụng xét duyệt.
Trong trường hợp vốn vay vượt mức phán quyết của chi nhánh thì trình ra hội đồng
tín dụng trung ương để xin ý kiến.
1.4.4 Phát tiền vay
Nếu ngân hàng đồng ý tài trợ vốn thì hai bên ký hợp đồng tín dụng, lập giấy nhận nợ
và phát tiền vay cho khách hàng.
Trường hợp ngân hàng đồng ý bảo lãnh thì ký chấp nhận đơn xin bảo lãnh và chuyển
về phòng ban có liên quan.
1.4.5 Kiểm tra và xử lý nợ vay
Trong quá trình cấp tín dụng, cán bộ tín dụng phải thường xuyên kiểm tra và giám sát
chặt chẽ quá trình vay vốn của khách hàng. Nếu phát hiện việc sử dụng sai mục đích hay
những sai lệch trong quá trình sử dụng vốn thì cán bộ tín dụng có trách nhiệm báo ngay
cho kế toán để ngưng ngay việc phát tiền vay và tiến hành thu nợ trước hạn bằng cách
phong toả vật tư hàng hoá, phát mãi tài sản cầm cố thế chấp...và có thể khởi kiện doanh
nghiệp trước pháp luật.
Cán bộ tín dụng kiểm tra việc sử dụng vốn vay phải xác định được cả hình thái hiện
vật và giá trị thực tế tiền vay của đơn vị về các mặt như : hiệu quả kinh tế, mục đích và
đối tượng sử dụng vốn, khả năng hoàn trả cả gốc lẫn lãi.
Cán bộ tín dụng có thể kiểm tra thông qua 2 loại thông tin chủ yếu sau:
- Thông tin từ khách hàng vay vốn. Thông tin này thu được thông qua kiểm tra các
loại chứng từ gốc như : chứng từ ghi sổ, bản kê chi phí sử dụng tiền vay, các hợp đồng
kinh tế, sổ sách kế toán thống kê, bảng cân đối tài sản, tồn kho thực tế vật tư hàng hoá,
công nợ phải trả...
- Các loại thông tin khác do ngân hàng tự điều tra hoặc xác minh từ nhiều nguồn
khác nhau: từ bạn hàng và khách hàng của người vay, từ cơ quan quản lý kinh tế của Nhà
nước...
1.4.6 Tính lãi - thu lãi - thu nợ - gia hạn
Ngân hàng sẽ tính lãi theo lãi suất hai bên đã thoả thuận tại thời điểm ký kết hợp đồng.
Sắp đến ngày đáo hạn thì ngân hàng phải thông báo cho khách hàng biết để chuẩn bị tiền
trả nợ cho ngân hàng.
Trong trường hợp đến ngày đáo hạn mà khách hàng không trả được nợ thì ngân hàng
buộc phải chuyển nợ quá hạn và khách hàng phải chịu lãi suất phạt do nợ quá hạn. Lãi
suất phạt này thường bằng 150% lãi suất của hợp đồng tín dụng.
Trong trường hợp bất khả kháng nên khách hàng không thể thanh toán tiền vay đúng
hạn thì khách hàng phải xin gia hạn nợ và thời gian gia hạn nợ không được vượt quá thời
gian tài trợ vốn. Trong trường hợp này thì khách hàng không phải trả lãi suất theo lãi suất
nợ quá hạn.
1.4.7 Thanh lý hợp đồng tín dụng
Sau khi khách hàng hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi tiền vay, cán bộ tín dụng đối chiếu
xác nhận với kế toán và đóng hồ sơ tài trợ lại, chuyển vào hồ sơ lưu của khách hàng.
Quy trình thực hiện tài trợ đến đây là kết thúc.
1.5 CÁC HÌNH THỨC TÍN DỤNG TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU TẠI CÁC
NHTM VIỆT NAM HIỆN NAY
Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với các doanh nghiệp
Việt Nam đặc biệt là khi các doanh nghiệp nước ta hiện nay đang thiếu vốn, uy tín lẫn
kinh nghiệm trong hoạt động kinh doanh quốc tế. Nắm bắt được nhu cầu của các doanh
nghiệp, các NHTM Việt Nam đã có một số hình thức tín dụng tài trợ ngoại thương để đáp
ứng nhu cầu về vốn và uy tín cho doanh nghiệp. Các hình thức tài trợ này tuy chưa đa
dạng bằng các hình thức tài trợ của các NHTM ở những nước phát triển nhưng cũng góp
phần không nhỏ vào hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam và của nền kinh
tế.
SƠ ĐỒ 1.3: Các hình thức tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của các NHTM
Việt Nam hiện nay
Hình thức tài trợ XNK của NHTM
ệ
Tài trợ xuất khẩu
Tài trợ nhập khẩu
Nghiệp vụ bảo lãnh
Mở L/C thanh toán hàng nhập khẩu
Cho vay thu mua, chế biến hàng xuất theo L/C, theo hợp Cho vay thanh toán bộ chứng từ Chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất
Mở L/C trả chậm Phát hành thư bảo lãnh
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Chương 1 đã đi sâu nghiên cứu lý luận tài trợ xuất nhập khẩu của các NHTM trên
những khía cạnh:
. Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu và vai trò của hoạt động này
. Một số hình thức tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu.
. Những rủi ro trong hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu đối với NHTM
. Quy trình thực hiện tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của NHTM
Qua những nội dung trên, ta hiểu rõ hơn bản chất, quy trình của hoạt động tài trợ xuất
nhập khẩu của ngân hàng và những rủi ro ngân hàng có thể gặp phải khi thực hiện hoạt
động này.
CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU TẠI SỞ
GIAO DỊCH I - NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ
PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM.
2.1 QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NGÂN HÀNG NÔNG
NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM & CỦA SỞ GIAO DỊCH I
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn Việt Nam
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, gọi tắt là ngân hàng
Nông nghiệp , có tên giao dịch quốc tế là Vietnam Bank for Agriculture and Rural
Development (VBARD), có trụ sở chính đặt tại số 2 Láng Hạ, Ba Đình, Hà Nội.
Tổ chức tiền thân của ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam
(NHNo&PTNTVN) là ngân hàng Phát triển nông nghiệp Việt Nam, được thành lập theo
quyết định số 53/HĐBT ngày 26/3/1988 nhằm đáp ứng nhu cầu cấp bách của nền kinh tế,
góp phần thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng, ổn định tiền tệ với thị trường hoạt động chủ
yếu là khu vực nông thôn, lĩnh vực nông nghiệp và đối tượng là nông dân.
Từ khi thành lập tới nay, ngân hàng đã qua hai lần đổi tên. Lần thứ nhất, theo quyết
định 400/CT ngày 14/11/1990 của Thủ tướng Chính phủ, ngân hàng được đổi tên thành
Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam. Sau đó, nhằm chuyển đổi mô hình hoạt động của các
ngân hàng thương mại theo dạng Tổng công ty, ngày 15/10/1996 theo quyết định số
280/QĐ - NH5 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được Thủ tướng Chính
phủ uỷ quyền ký quyết định thành lập tại văn bản số 3329/ĐMDN ngày 11/7/1996, ngân
hàng Nông nghiệp Việt Nam được đổi tên thành ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn Việt Nam (NHNo &PTNTVN). NHNo&PTNTVN là một trong bốn ngân hàng
thương mại quốc doanh lớn nhất Việt Nam hiện nay được thành lập theo mô hình Tổng
công ty Nhà nước với thời gian hoạt động là 99 năm.
Qua 14 năm hoạt động, NHNo&PTNTVN đang trên đà phát triển ổn định và không
ngừng lớn mạnh. Từ số vốn ban đầu do Nhà nước cấp là 2200 tỷ VND, đến cuối năm
2001, ngân hàng có tổng nguồn vốn đạt 73635 tỷ VND, tăng 33,7% so với năm 2000.
Nguồn vốn hiện có của ngân hàng chủ yếu đầu tư cho các thành phần kinh tế, đến nay đã
giải ngân tới hơn 8 triệu hộ trong đó cho vay hơn 2,6 triệu hộ nghèo và gần 20.000
doanh nghiệp. Tổng dư nợ của ngân hàng đạt 66.230 tỷ VND trong đó dư nợ cho vay hộ
nghèo là 6200 tỷ VND. Ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn thấp : 0,7% (giảm 0,4 % so với
năm 2000). Hiện nay NHNo&PTNTVN có hơn 24000 cán bộ công nhân viên với mạng
lưới rộng khắp gồm gần 1600 chi nhánh trên toàn quốc.
Cùng với việc mở rộng hoạt động kinh doanh đối nội, NHNo&PTNT vẫn tiếp tục
quan hệ quốc tế và kinh doanh đối ngoại. Ngân hàng hiện có quan hệ với 740 tổ chức tài
chính tín dụng, ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam và ở 89 quốc gia trên thế giới. Đến
cuối 2001, đã có 55 chi nhánh NHNo&PTNTVN trực tiếp tham gia thanh toán quốc tế.
Trong năm 2001, doanh số thanh toán quốc tế là 1754 triệu USD, doanh số mua bán
ngoại tệ đạt 4038 triệu USD. Bên cạnh đó, hoạt động đối ngoại và thanh toán biên giới đã
được mở rộng tới nhiều chi nhánh trong toàn hệ thống, góp phần đa dạng hoá sản phẩm
dịch vụ, thu hút thêm nhiều khách hàng và tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chu
trình khép kín từ khâu cho vay để thu mua nguyên liệu, chế biến hàng hoá đến khâu xuất
khẩu. Nghiệp vụ bảo lãnh và mở tín dụng thư trả chậm vẫn tiếp tục phát triển và được
quản lý chặt chẽ, các khoản bảo lãnh đều được thanh toán đầy đủ, đúng hạn.
Chính vì những thành tựu trên mà tạp chí ASIA WEEK, một tạp chí kinh tế lớn nổi
tiếng ở châu Á số 15/09/2000 đã xếp NHNo&PTNTVN đứng thứ 335 trong số 500 ngân
hàng lớn nhất châu Á và đứng thứ 46 trong số 50 ngân hàng lớn nhất Đông Nam Á.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, NHNo&PTNTVN đang trên đà phát
triển và ngày càng vững mạnh. Trong thời gian tới, NHNo&PTNTVN phấn đấu trở thành
NHTM tiên tiến trong khu vực và có uy tín cao trên trường quốc tế, mở rộng hoạt động
kinh doanh vững chắc an toàn, có quy mô vốn tự có ngang tầm các ngân hàng trong khu
vực để góp phần vào sự phát triển kinh tế của đất nước.
2.1.2 Giới thiệu về SGDI - NHNo&PTNT
Sở giao dịch I là một đơn vị trực thuộc Trung tâm điều hành NHNo&PTNT. Được
thành lập theo quyết định số 15/TCCB ngày 25/11/1990 của Tổng giám đốc
NHNo&PTNT, Sở bắt đầu đi vào hoạt động từ tháng 4/1991 theo luật các tổ chức tín
dụng và theo điều lệ của NHNo&PTNTVN và tiến hành hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu
từ năm 1998.
SGDI có trụ sở đặt tại số 4 Phạm Ngọc Thạch, Đống Đa, Hà Nội.
2.1.2.1 Cơ cấu tổ chức của SGDI
Cán bộ công nhân viên của sở gồm có 82 người trong đó có một giám đốc và ba phó
giám đốc. Giám đốc sở là người trực tiếp điều hành và chịu trách nhiêm trực tiếp trước
Tổng giám đốc NHNo &PTNTVN. Hiện nay Sở gồm có 6 phòng ban:
- Phòng hành chính
- Phòng tổ chức
- Phòng kế hoạch kinh doanh
- Phòng kế toán
- Phòng kiểm tra, kiểm toán nội bộ
- Phòng ngân quỹ.
Ngoài ra, SGDI còn có 2 chi nhánh ở Tây Sơn, Trung Yên và 2 phòng giao dịch.
SƠ ĐỒ 2.1 : Cơ cấu tổ chức của SGDI (trang bên)
2.1.2.2 Hoạt động kinh doanh của SGDI
Nhiệm vụ chính của SGDI là thực hiện các lệnh thanh toán, điều chuyển vốn trong
toàn hệ thống NHNo&PTNTVN và trực tiếp kinh doanh tiền tệ, tín dụng, cung cấp các
dịch vụ ngân hàng trên địa bàn Hà Nội.
Nhằm thực hiện tốt hai nhiệm vụ trên, Sở có các hoạt động kinh doanh cụ thể như sau:
- Hoạt động huy động vốn:
Sở huy động vốn thông qua nhận tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và có kỳ hạn bằng cả
nội tệ và ngoại tệ của các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong và ngoài
nước. Bên cạnh đó Sở còn phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng
và thực hiện các hình thức huy động khác theo quy định của NHNo&PTNT.
Khi cần thiết, SGDI còn có thể vay vốn của các tổ chức tài chính, tín dụng trong
nước theo quy định của NHNo&PTNT
Ngoài ra, Sở còn tiếp nhận các nguồn vốn tài trợ, uỷ thác của Chính phủ và các tổ
chức kinh tế trong và ngoài nước.
- Hoạt động cho vay:
Sở thực hiện cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn bằng nội tệ và ngoại tệ đối với
khách hàng của thành phần kinh tế khác nhau. Sở cho vay hộ gia đình nhằm đáp ứng nhu
cầu vốn cho sản xuất, tiêu dùng... Sở tài trợ vốn cho các doanh nghiệp quốc doanh và
doanh nghiệp tư nhân kinh doanh xuất nhập khẩu ...
Bên cạnh đó, Sở còn thẩm định, tái thẩm định các dự án tín dụng, trực tiếp cho vay các
dự án theo phân cấp uỷ quyền của Tổng giám đốc NHNo&PTNTVN.
- Hoạt động khác
Ngoài 2 hoạt động chính là huy động vốn và cho vay vốn, Sở còn có các hoạt động
khác như :
Kinh doanh ngoại hối: đây là hoạt động mua bán ngoại tệ mà chủ yếu nhằm mục đích
cho vay và phục vụ thanh toán quốc tế, những dịch vụ khác về ngoại hối theo chính sách
quản lý ngoại hối của chính phủ, NHN và NHNo&PTNTVN
Thanh toán quốc tế: đây là dịch vụ mang lại nguồn thu lớn cho Sở, nó góp phần giúp
cho hoạt động tín dụng và hoạt động kinh doanh ngoại hối thêm phần sôi nổi.
Dich vụ khác như dịch vụ thẻ tín dụng, két sắt, dịch vụ chiết khấu các loại giấy tờ có
giá, thẻ thanh toán uỷ thác cho vay người nghèo, uỷ thác cho thuê tài chính...
Đầu mối cân đối điều hoà nguồn vốn kinh doanh nội tệ đối với các chi nhánh trong
hệ thống NHNo&PTNTVN.
Thực hiện các nhiệm vụ khác được Tổng giám đốc NHNo&PTNTVN giao cho.
2.2 TÌNH HÌNH XUẤT NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN
QUA VÀ TRIỂN VỌNG TRONG TƯƠNG LAI
2.2.1 Tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam trong thời gian qua
Từ sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, nền kinh tế nước ta đang từng bước
phát triển và hội nhập cùng nền kinh tế thế giới. Với sự phát triển không ngừng của kinh
tế quốc tê, trong thời gian qua, hoạt động xuất nhập khẩu ở Việt Nam đã góp phần đáng
kể vào công cuộc Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước và góp phần hoàn thành
những nhiệm vụ đề ra trong Kế hoạch 5 năm 1996 - 2000.
Kế hoạch 5 năm 1996 - 2000 cho lĩnh vực xuất nhập khẩu tuy gặp khó khăn trong quá
trình thực hiện do tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính nhưng đã hoàn thành
về cơ bản. Hoạt động xuất nhập khẩu tiếp tục phát triển khá với tổng kim ngạch xuất
khẩu 5 năm từ 1996 - 2000 đạt trên 5,6 tỷ USD, tăng bình quân hàng năm trên 21% và
cao gấp 3 lần tốc độ tăng trưởng kinh tế. Tổng kim ngạch nhập khẩu trong 5 năm khoảng
61 tỷ USD với tốc độ tăng bình quân hàng năm khoảng 13,3%.
Năm 2000, kim ngạch xuất khẩu nước ta đạt trên 180 USD/người/năm tuy còn ở mức
thấp nhưng đã thuộc nhóm các nước có nền ngoại thương phát triển.
BẢNG 2.1 : Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt nam giai đoạn 1996 - 2000
Kim ngạch Tổng kim Kim ngạch Kim ngạch xuất Chỉ
xuất khẩu ( ngạch XNK so xuất khẩu so khẩu XK tiêu
triệu USD) GDP(%) GDP (%) (USD/người/năm)
7 255,9 80,0 31,5 96 1996
9 185,0 80,6 35,6 116 1997
9 360,3 77,7 35,1 116 1998
11 540,0 81,1 40,3 150 1999
14 308,0 95,7 46,4 180 2000
Nguồn: Tổng cục thống kê
BẢNG 2.2 : Cơ cấu hàng xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 1996 - 2000
Chỉ tiêu Năm 1996 Năm 2000
Cơ cấu hàng xuất khẩu 100% 100%
42,3% 30% - Nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản
29% 34,3% - Nhóm hàng công nghiệp nhẹ & tiểu thủ công
28,7% 35,7% nghiệp
- Nhóm hàng công nghiệp nặng - khoáng sản
Cơ cấu hàng nhập khẩu 100% 100%
87% 94,8% - Nhóm hàng tư liệu sản xuất
13% 5,2% - Nhóm hàng tiêu dùng
Nguồn: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
Cơ cấu xuất nhập khẩu chuyển dịch theo hướng tích cực:
Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản tuy vẫn chiếm vị trí
quan trọng nhưng có xu hướng giảm dần, từ 42,3% năm 1996 xuống còn 30% năm 2000.
Tỷ trọng của nhóm hàng công nghiệp nhẹ, tiểu thủ công nghiệp và thủ công nghiệp tăng
tương ứng từ 29% năm 1996 lên 34,3% năm 2000. Tỷ trọng của nhóm hàng công nghiệp
nặng và khoáng sản tăng từ 28,7% năm 1996 lên 35,7% năm 2000. Tuy nhiên, cơ cấu
hàng xuất khẩu của Việt Nam vẫn còn bất hợp lý. Đó là do ở nước ta, xuất khẩu nguyên
liệu thô vẫn là chủ yếu, chiếm tỷ trọng trên 70% kim ngạch xuất khẩu. Trong khi đó, ở
Trung Quốc xuất khẩu nguyên liệu thô chỉ chiếm 16,3% năm 1994.
Tỷ trọng hàng tiêu dùng trong tổng kim ngạch nhập khẩu giảm đáng kể, từ 13% năm
1996 giảm xuống còn 5,2% năm 2000. Trong khi đó, tỷ trọng nhập khẩu tư liệu sản xuất
tăng từ 87% năm 1996 lên tới 94,8% năm 2000.
Thị trường xuất nhập khẩu của Việt Nam cũng không ngừng được củng cố và mở rộng
thêm. Thị trường châu Á chiếm gần 58% tổng kim ngạch xuất khẩu và trên 80% tổng kim
ngạch nhập khẩu cuả Việt Nam, trong đó riêng các nước ASEAN tương ứng chiếm trên
18% và 29%. Trên một số thị trường khác như EU, Mỹ, Trung Đông, hàng xuất khẩu của
Việt Nam cũng có mặt và kim ngạch xuất khẩu đang tăng dần. Trong thời gian qua, Mỹ
là một thị trường lớn của Việt Nam nhưng do Việt Nam chưa được hưởng Tối huệ quốc
nên thuế đánh vào hàng xuất khẩu cao nên hàng hoá của nước ta rất khó cạnh tranh, Tuy
nhiên kim ngạch xuất khẩu của Việt nam vào thị trường Mỹ cũng vẫn không ngừng tăng
lên.
BẢNG 2.3 : Tổng kim ngạch XNK của Việt Nam sang Mỹ giai đoạn 1995- 2001
Năm Xuất khẩu Nhập khẩu Tổng kim ngạch
Triệu % so với Triệu % so với Triệu % so với
USD USD năm năm USD năm
trước trước trước
130 170 - - 400 - 1995
246 201 20 89,2 450 12,5 1996
46 273 34 69,1 689 51 1997
326 469 71,8 -21,6 795 15,4 1998
335 504 7,5 2,8 839 5,5 1999
352 732 45,2 5,1 1084 48,1 2000
370 1000 36,6 5,1 1370 26,5 2001
Nguồn: Thời báo kinh tế số ra ngày 30/11/2001
Từ bảng trên ta nhận thấy kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt nam với Hoa Kỳ không
ngừng tăng lên trong các năm từ 1995 đến 2001. Năm 1995, tổng kim ngạch xuất nhập
khẩu là 400 triệu USD, sang năm 1996, tổng kim ngạch tăng lên 450 triệu USD, tăng
12,5% so với năm 1995, năm 1997 tăng 51% so với năm 1996, năm 1998 tổng kim ngạch
tăng 15,4% so với năm 1997. Và tổng kim ngạch xuất nhập khẩu sang Mỹ năm 2001 tăng
26,5% so với năm 2000. Tính bình quân trong 7 năm từ 1995 đến 2001, hàng hoá của
Việt Nam xuất vào thị trường Mỹ mỗi năm đạt 480 triệu USD và nhập khẩu từ Mỹ đạt
310 triệu USD. Nếu so sánh với tỷ lệ tăng nhập khẩu của Việt Nam từ Hoa Kỳ thì tốc độ
hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ nhanh hơn.
Những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Mỹ là: cà phê, chè, hạt tiêu,
hải sản, hạt điều, rau quả chế biến...Rau quả chế biến của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ
chủ yếu là dứa hộp : trong năm 1998, xuất khẩu dứa hộp đạt 2 triệu USD, đứng thứ 8
trong số các nước xuất khẩu dứa hộp vào thị trường Mỹ.
Hiện nay, Việt Nam đang đứng thứ 76 về tổng kim ngạch buôn bán với Mỹ và đứng
thứ 71/229 nước xuất khẩu hàng hoá vào thị trường Mỹ. Tuy nhiên, tỷ trọng hàng hoá
Việt Nam xuất sang Hoa Kỳ mới chiếm tỷ trọng khoảng 0,05% tổng giá trị nhập khẩu của
Hoa Kỳ.
Trong thời gian tới khi Hiệp định thương mại Việt Mỹ được thực thi thì Mỹ là một thị
trường tiềm năng của Việt Nam và cơ hội xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp Việt
Nam sang Mỹ tăng đáng kể. Nếu hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ chiếm tỷ
trọng 2% tổng giá trị nhập khẩu của Mỹ thì kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ
đạt gần 1,8 tỷ USD.
2.2.2 Triển vọng xuất nhập khẩu của Việt Nam trong tương lai
Hiệp định thương mại Việt - Mỹ chính thức có hiệu lực ngày 10/12/2001. Việc HĐTM
này được thực thi mang lại cho các doanh nghiệp Việt Nam cơ hội xuất nhập khẩu, nhất
là xuất khẩu. Mỹ là nước có nền kinh tế mạnh nhất thế giới, quan hệ thương mại phát
triển mạnh mẽ. Mỹ còn là thị trường tiêu thụ hàng hoá khổng lồ và tương đối dễ tính,
không quá khắt khe khi thâm nhập như các thị trường Nhật Bản và các nước châu Âu.
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng năm của Mỹ là 1500 tỷ USD trong đó kim nghạch
nhập khẩu chiếm gần 920 tỷ USD, trong đó có một số mặt hàng mà Việt Nam có thế
mạnh là: dày dép, cao su, đồ gỗ, dệt may, hải sản, rau quả, cà phê. Nếu hàng hoá của Việt
Nam xuất khẩu sang Mỹ chiếm tỷ trọng 2% giá trị nhập khẩu của Mỹ thì kim ngạch xuất
khẩu của Việt Nam sang Mỹ đạt gần 1,8 tỷ USD.
Mức thuế của hàng hoá Việt Nam khi được hưởng Tối huệ quốc sẽ giảm bình quân từ
35%-40% xuống còn trên dưới 5%, trong đó có một số mặt hàng mà mức thuế giảm
mạnh làm tăng lợi thế cạnh tranh của các mặt hàng đó. Những mặt hàng này của Việt
Nam nhờ giảm thuế mà có thể xuất khẩu được:
BẢNG 2. 4 : Mức thuế của hàng Việt Nam khi xuất khẩu vào Mỹ
Mức thuế (%)
TT Loại hàng hoá Không có tối huệ Có tối huệ quốc
quốc
23,6 5,8 1. Gạo đã chế biến
35,4 8,2 2. Hạt có dầu
68,9 3,4 3. Hàng may mặc
33 5,6 4. Sản phẩm da
30,3 4,3 5. Sản phẩm hoá chất,cao
su,nhựa
41,6 4,3 6. Sản phẩm khoáng chất
34 2,8 7. Thiết bị điện tử
55,1 10,3 8. Hàng dệt
Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam số ra ngày 30/11/2001
Khi thâm nhập vào thị trường Mỹ, các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội là thuế suất
thấp và thị trường rộng lớn. Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội thì tiềm ẩn không ít những
thách thức. Vì vậy, để có thể tiếp cận và không ngừng mở rộng thị trường, để có thể xâm
nhập vào thị trường Mỹ hoặc thị trường bất cứ quốc gia nào thì điều cần thiết là Chính
phủ có các giải pháp, định hướng kịp thời, đúng đắn và bản thân các doanh nghiệp kinh
doanh xuất nhập khẩu phải chủ động khai thác thị trường và vận dụng khôn khéo các quy
định ưu đãi cho các nước đang phát triển...
2.3 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TÀI TRỢ XNK TẠI SGDI - NHNo
&PTNTVN
2.3.1 Những thuận lợi và khó khăn trong hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu
tại SGDI
2.3.1.1 Những thuận lợi
NHNo &PTNTVN đã có chương trình hành động trong những năm tới để thực hiện
Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ IX của Ban cán sự Đảng Ngân hàng Nhà nước. Bên
cạnh đó, thống đốc NHNo &PTNTVN cũng đã đề ra giải pháp để thực hiện đúng nội
dung, lộ trình của Đề án cơ cấu lại NHNo&PTNTVN 2001- 2010 đã được Chính phủ phê
duyệt. Thêm vào đó, hệ thống văn bản quy phạm về hoạt động ngân hàng, hoạt động tín
dụng và những văn bản liên quan của NHNo &PTNTVN và của SGDI ngày càng đầy đủ,
chặt chẽ hơn. Đây chính là hành lang pháp lý giúp hạn chế rủi ro trong kinh doanh, tạo
tính chủ động cho Sở thực hiện cho vay khách hàng có tín nhiệm và chưa tín nhiệm và
cũng là định hướng cho hoạt động tín dụng của SGDI.
Hoạt động trên dịa bàn thủ đô Hà Nội, Sở có khả năng lớn về huy động vốn và tiếp
xúc với các doanh nghiệp lớn kinh doanh xuất nhập khẩu. Đó là bởi vì 75% các doanh
nghiệp của Tổng công ty 90, Tổng công ty 91 đóng trụ sở tại Hà Nội, nhiều doanh nghiệp
ở Hà Nội có vị trí đầu mối, chi phối một vùng. Sở còn có thể học hỏi thêm kinh nghiệm
trong hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu từ các ngân hàng thương mại lớn cùng
địa bàn.
Hoạt động trên dịa bàn thủ đô Hà Nội, Sở còn nhận được sự chỉ đạo trực tiếp và có
tính tổng lực từ ngân hàng "mẹ" khi cần thiết.
SGDI còn có đội ngũ cán bộ điều hành và đội ngũ cán bộ chuyên môn có năng lực,
nhiệt tình, tâm huyết và còn trẻ. Đội ngũ cán bộ này thường xuyên được đào tạo và
trưởng thành dần trong kinh doanh sẽ là nền tảng cho sự phát triển hoạt động kinh doanh
của Sở.
Trong năm 2001, Sở tăng thêm nhiều nhân sự cho tổ thanh toán quốc tế và phòng tín
dụng, điều này giúp cho hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu của Sở trong thời gian tới phát
triển mạnh mẽ hơn.
2.3.1.2 Những khó khăn
* Những khó khăn về môi trường pháp lý
Hầu hết các giao dịch thanh toán bằng phương pháp tín dụng chứng từ đều tuân theo
UCP nhưng UCP chỉ là thông lệ quốc tế và nếu UCP trái với luật quốc gia thì phải tuân
theo luật quốc gia. Hiện nay, do chưa có một văn bản pháp lý nào quy định cụ thể các
tranh chấp liên quan đến thanh toán bằng L/C hoặc phương pháp thanh toán khác nên
ngân hàng và các doanh nghiệp sẽ gặp rủi ro khi có tranh chấp xảy ra.
Luật doanh nghiệp ra đời tạo điều kiện cho doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát triển
nhưng về góc độ nào đó thì doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn gặp nhiều khó khăn
trong việc tiếp cận vốn vay ngân hàng. Đó là bởi ngân hàng thường không muốn đầu tư
cho thành phần kinh tế ngoài quốc doanh khi không có tài sản thế chấp.
* Những khó khăn về môi trường kinh doanh
Hà Nội là nơi hội tụ của nhiều tổ chức tín dụng. Hiện nay trên địa bàn Hà Nội có 26
SGD và chi nhánh thành viên của các NHTMQD. Hà Nội còn có mạng lưới của
NHTMCP với 5 SGD & 9 chi nhánh, ngân hàng nước ngoài với 3 chi nhánh & 2 chi
nhánh phụ, ngân hàng liên doanh với SGD & 2 chi nhánh. Trong khi đó, SGDI chỉ mới
tham gia hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu từ năm 1998 nên các cán bộ còn chưa có nhiều
kinh nghiệm. Vì vậy, hoạt động này của Sở gặp nhiều bất lợi so với các ngân hàng
thương mại khác như ngân hàng Ngoại thương, ngân hàng Đầu tư, các chi nhánh ngân
hàng nước ngoài tại Hà Nội... là những ngân hàng chuyên doanh phục vụ xuất nhập khẩu
lâu năm với bề dày kinh nghiệm và họ đã chiếm lĩnh hầu hết khách hàng kinh doanh xuất
nhập khẩu.
Trên địa bàn Hà Nội hiện nay đang diễn ra cuộc cạnh tranh quyết liệt giữa các ngân
hàng trong việc giành giật khách hàng là DNNN thành viên của các Tổng công ty 90,
Tổng công ty 91, các công ty cổ phần, các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và những
khách hàng có nguồn USD. Trong cuộc cạnh tranh này, lợi thế thuộc về ngân hàng nước
ngoài, chi nhánh liên doanh và các NHTM trong nước có năng lực tài chính cao, bình
quân lãi suất đầu vào thấp, có công nghệ thanh toán hiện đại.Thêm vào đó, trong lĩnh vực
huy động tiền gửi và cho vay hiện nay đã có sự cạnh tranh ngày càng gay gắt bằng công
cụ lãi suất giữa các ngân hàng, thậm chí giữa các chi nhánh theo xu hướng hạ thấp lãi
suất, giải quyết nhanh gọn nhu cầu của khách hàng lớn.
* Những khó khăn từ phía các doanh nghiệp xuất nhập khẩu
Do thời gian mở cửa hội nhập chưa lâu nên các doanh nghiệp Việt Nam chưa có nhiều
kiến thức và kinh nghiệm trong làm ăn, kinh doanh với nước ngoài. Trong khi đó, các
đối tác nước ngoài lại là các chuyên gia có kinh nghiệm, đã kinh doanh lâu trên thương
trường quốc tế làm cho các doanh nghiệm Việt Nam không tránh khỏi thiệt thòi khi làm
ăn với họ. Thêm vào đó, sự hiểu biết về thông lệ, luật pháp quốc tế, luật pháp của nước
đối tác của các doanh nghiệp Việt Nam rất hạn chế nên khi xảy ra rủi ro, tranh chấp thì
doanh nghiệp Việt Nam thường là người chịu thiệt mà ngân hàng là người hỗ trợ vốn cho
các doanh nghiệp nên ngân hàng cũng bị ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh.
Ngân hàng là người tư vấn cho các doanh nghiệp nhưng nhiều khi do trình độ có hạn
nên các doanh nghiệp không thực hiện theo lời tư vấn của ngân hàng dẫn đến việc doanh
nghiệp bị lừa hoặc chịu thiệt trong kinh doanh. Doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả
cũng làm ảnh hưởng đến lợi nhuận và hoạt động của ngân hàng.
Bên cạnh những bất lợi do trình độ và kinh nghiệm có hạn của doanh nghiệp mang lại,
doanh nghiệp và ngân hàng còn gặp khó khăn do thực lực tài chính của các doanh nghiệp
kinh doanh xuất nhập khẩu Việt Nam còn quá yếu. Có rất nhiều doanh nghiệp kinh doanh
chủ yếu bằng vốn vay ngân hàng nên nếu buôn bán với nước ngoài bị thua lỗ thì sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh và hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.
* Những khó khăn từ phía SGDI
Như đã phân tích ở trên, hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của Sở chỉ mới bắt
đầu từ năm 1998 nên các cán bộ làm công tác này còn chưa có nhiều kinh nghiệm, phải
vừa làm vừa học hỏi. Năng lực cán bộ tín dụng không đồng đều. Cán bộ làm nghiệp vụ
này phần lớn là mới, chưa qua lớp tập huấn chính thức nhưng do số lượng công việc ngày
một nhiều nên phải bắt tay ngay vào công việc. Mặt khác, thời gian để truyền đạt kinh
nghiệm và kiến thức của những cán bộ đi trước cho những cán bộ mới là ít nên đôi khi
còn sai sót trong nghiệp vụ.
Sở giao dịch I chưa tự cân đối được nguồn ngoại tệ giữa xuất và nhập. Thêm vào đó,
nguồn ngoại tệ Sở huy động được chủ yếu gửi Sở đầu mối để hưởng phí nên Sở phải phụ
thuộc vào cơ chế và phí điều hoà làm cho sự chủ động trong sử dụng vốn chưa cao.
Khi thực hiện mở L/C nhập khẩu, việc quyết định mức ký quỹ là rất quan trọng nhưng
hiện nay, theo quyết định 447/NHNo ngày 7/6/2001 quy định về quy trình và kỹ thuật
nghiệp vụ thanh toán quốc tế trong hệ thống NHNo chưa quy định cụ thể mức ký quỹ tối
đa và mức ký quỹ tối thiểu trong từng thời kỳ. Vì vậy, chưa có mức ký quỹ thống nhất
cho từng đối tượng khách hàng. Khi mức ký quỹ không được đảm bảo chắc chắn thì nếu
có rủi ro tỷ giá xảy ra, ngân hàng mở L/C (Sở I) sẽ chịu thiệt thòi. Nếu Sở đã thanh toán
tiền hàng cho nhà xuất khẩu (vì L/C phù hợp bộ chứng từ) mà người nhập khẩu không
thanh toán cho ngân hàng vì tỷ lệ ký quỹ nhỏ hơn tỷ lệ trượt giá của nội tệ thì Sở I là
người chịu rủi ro.
Bên cạnh đó, trang thiết bị của SGDI còn chưa hiện đại bằng một số ngân hàng
thương mại khác nên cũng làm giảm phần hấp dẫn khách hàng, đặc biệt là khách hàng
nước ngoài.
2.3.2 Nguồn vốn huy động tại SGDI
Nguồn vốn luôn đóng vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của một ngân
hàng. Để có nguồn vốn phục vụ tín dụng xuất nhập khẩu mà đặc biệt là nguồn ngoại tệ,
SGDI phải huy động vốn từ nhiều nguồn.
Tình hình huy động vốn của SGDI từ năm 1999 đến năm 2001 được thể hiện qua bảng
sau:
BẢNG 2.5 : Tình hình huy động vốn của Sở giao dịch I năm 1999- 2001
Đơn vị: Triệu đồng, USD
Chỉ tiêu 1999 2000 2001
Doanh số Doanh số % so Doanh số % so
với với
năm năm
trước trước
+ 55,0 1. Nguồn nội tệ 2 337 900 1 822 000 - 22,0 2 824 000
1 477 997 200 - 32,5 997 000 - 0,2 - Không kỳ hạn
+ 700 224 800 - 37,6 527 000 - Có kỳ hạn
360 200 600 000 + 20,0 1 300 000 134,4 - Tiền vay các TCTD,
+ 500 000 TCKT
116,7
+ 2. Nguồn ngoại tệ 15 321 30 233 000 + 97,3 36 700 000
2 866 000 + 5,7 2 400 000 111,0 - Không kỳ hạn 574
2 712 112 27 367 000 + 34 300 000 - 16,3 - Có kỳ hạn
12 609 117,4 + 25,3
462
Tổng nguồn vốn 2 553 672 2 260 000 - 3 379 000 + 49,0
11,5
Nguồn: Báo cáo tổng kết kinh doanh 1999-2001
Qua bảng trên ta thấy, tổng nguồn vốn huy động của SGDI năm 2000 là 2.260 tỷ đồng
( bao gồm cả USD quy đổi ), giảm 11,5% so với năm 1999. Trong đó, nguồn vốn huy
động nội tệ năm 2000 là 1.822 tỷ đồng, giảm 22% so với năm 1999; nguồn vốn huy động
ngoại tệ năm 2000 là 30.233 ngàn USD, tăng 97,3% so với năm 1999. Sở dĩ tổng nguồn
vốn huy động của Sở giảm, trong đó nguồn nội tệ giảm còn nguồn ngoại tệ tăng mạnh là
do trong năm 2000, tỷ giá USD không ngừng tăng làm cho người dân có xu hướng rút
VND để mua USD gửi vào ngân hàng vì lo sợ việc đồng Việt Nam mất giá. Bên cạnh đó,
dù cho lãi suất VND tăng cao hơn USD nhưng vẫn không đủ bù đắp mức độ trượt giá của
VND so với USD nên người ta cảm thấy an tâm hơn khi nắm giữ USD.
Trong năm 2001, tổng nguồn vốn huy động của Sở tăng mạnh cả về nguồn nội tệ lẫn
ngoại tệ. Tính đến 31/2/2001, tổng nguồn vốn huy động tại Sở là 3379 tỷ đồng (bao gồm
cả USD quy đổi), tăng 49% so với năm 2000. Trong đó, nguồn vốn nội tệ là 2.824 tỷ
đồng, tăng 55% so với năm 2000; nguồn vốn ngoại tệ là 36,7 triệu USD, tăng 111% so
với năm 2000.
Việc tăng trưởng mạnh nguồn vốn tại Sở năm 2001 là do Sở đã áp dụng hình thức huy
động đa dạng (tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu...), thực hiện trả lãi huy động linh hoạt hơn và
Sở cũng thực hiện phân loại khách hàng để giảm phí thanh toán cho khách hàng. Bên
cạnh đó, trong năm 2000 và 2001, tỷ giá ngoại tệ luôn biến động theo xu hướng tăng nên
khách hàng chủ yếu gửi tiền vào ngân hàng để lấy lãi và chờ giá ngoại tệ tăng. Đây cũng
là một lý do dẫn đến nguồn vốn ngoại tệ tại Sở tăng nhanh.
Trong năm 2001, nguồn vốn huy động ngoại tệ là 36,7 triệu USD, đạt 111% so với
năm 2000. Trong đó tiền gửi không kỳ hạn là 2,4 triệu USD (chiếm tỷ trọng 6,5%), giảm
16,3% so với năm 2000; tiền gửi có kỳ hạn là 34,3 triệu USD (chiếm tỷ trọng 93,5%),
tăng 25,3% so với năm 2000. Nguồn ngoại tệ không kỳ hạn giảm và nguồn ngoại tệ có kỳ
hạn tăng chứng tỏ nguồn vốn của Sở ổn định hơn, đây là một thuận lợi cho hoạt động tín
dụng của Sở.
Nguồn vốn nội tệ và nhất là nguồn ngoại tệ huy động tăng nhanh trong thời gian qua
sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Sở trong công tác tài trợ xuất nhập khẩu trong tương lai.
2.3.3 Quy chế hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại SGDI
Hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại SGDI hiện nay đang được thực hiện
theo Quyết định số 284/2000/NHNN1 ngày 25/08/2000 của thống đốc NHNN về viêc
ban hành Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng và hướng dẫn cụ thể
theo quyết định số 06/QĐ - HĐQT ngày 18/01/2001 của Chủ tịch Hội đồng quản trị
NHNo&PTNTVN.
* Mục đích cho vay
SGDI tài trợ vốn cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu đặc biệt là các
doanh nghiệp nhập khẩu đủ khả năng tài chính để thực hiện hợp đồng nhập hàng và thanh
toán tiền hàng cho nhà xuất khẩu. Sở cũng cho các doanh nghiệp xuất khẩu vay để bổ
sung nhu cầu vốn tạm thời trong quá trình thu mua, chế biến hàng xuất khẩu và đối với
những doanh nghiệp xuất khẩu lớn, có uy tín, Sở cho vay để đáp ứng nhu cầu tiếp tục sản
xuất sau khi xuất khẩu mà chưa nhận được tiền hàng.
* Đối tượng cho vay
SGDI tài trợ cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu để thực hiện một trong
các hoạt động sau:
- Nhập khẩu vật tư hàng hoá, nguyên vật liệu sản xuất kinh doanh, máy móc thiết bị,
phụ tùng thay thế nhằm mở rộng sản xuất, cải tiến kỹ thuật.
- Thực hiện các dự án sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu có thị trường xuất khẩu.
- Thực hiện thanh toán số tiền thuế xuất khẩu, nhập khẩu phải nộp để làm thủ tục xuất
nhập khẩu mà giá trị lô hàng đó NHNo cho vay.
- Cho vay thanh toán các chi phí liên quan đến vận tải, bảo hiểm nước ngoài.
* Nguyên tắc cho vay
Khách hàng vay vốn của Sở phải đảm bảo 3 nguyên tắc sau:
1. Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng
Trong quá trình cho vay, Sở sẽ kiểm tra việc sử dụng vốn vay của khách hàng. Khách
hàng vay vốn phải sử dụng vốn đúng mục đích thoả thuận trong hợp đồng tín dụng, nếu
không Sở sẽ thu hồi vốn trước hạn.
2. Hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín
dụng.
Khách hàng và SGDI sẽ thoả thuận số tiền vay, lãi suất vay, thời hạn vay vốn. Khi đến
hạn, khách hàng có nghĩa vụ thanh toán đầy đủ cả gốc và lãi cho Sở. Nếu không, Sở sẽ tự
động trích tài khoản của khách hàng để thu nợ và nếu tài khoản của khách hàng không đủ
số dư thì Sở sẽ chuyển sang nợ quá hạn và khách hàng phải chịu lãi suất phạt. Nếu như
khách hàng không còn khả năng trả nợ thì Sở sẽ phát mại tài sản cầm cố, thế chấp của
khách hàng.
3. Việc đảm bảo tiền vay phải được thực hiện theo quy định của Chính phủ, Thống
đốc NHNN và hướng dẫn về bảo đảm tiền vay của NHN0 đối với khách hàng.
* Điều kiện cho vay
SGDI xem xét và quyết định cho vay khi khách hàng có đủ các điều kiện sau:
- Phải có tư cách pháp nhân và có thời gian hoạt động còn lại phù hợp với thời gian
vay vốn.
- Phải có vốn tự có tối thiểu bằng giá trị thực có của vốn điều lệ. Những tài sản hình
thành bằng vốn vay phải mua bảo hiểm tại 1 công ty bảo hiểm được phép hoạt động hợp
pháp tại Việt Nam và khách hàng cam kết sử dụng số tiền được bồi thường khi gặp rủi ro
để trả nợ cho Sở.
- Có dự án khả thi
- Kinh doanh có lãi, không có nợ quá hạn trên 1 năm
- Được phép kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp
- Có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc được bảo lãnh
Ngoài ra, Sở còn có thêm điều kiện cụ thể với từng đối tượng như sau:
* Cho vay các dự án sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu có thị trường xuất khẩu:
+ Khách hàng sản xuất, chế biến, kinh doanh hàng xuất khẩu phải có thị trường tiêu thụ.
* Cho vay dưới hình thức chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất
+ Ngân hàng mở L/C là ngân hàng có uy tín.
+ Khách hàng mở tài khoản và có quan hệ thường xuyên với NHNo.
+ Chứng từ hoàn toàn phù hợp các điều khoản và điều kiện của L/C.
+ Thị trường truyền thống được phép xuất khẩu tại Việt Nam
+ Số tiền chiết khấu tối đa là 95% giá trị L/C.
+ Thư yêu cầu thanh toán và đơn xin chiết khấu phải có chữ ký của chủ tài
khoản và kế toán trưởng.
* Cho vay thanh toán tiền nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ phục vụ cho hoạt động sản
xuất kinh doanh.
+ Khách hàng được phép kinh doanh nhập khẩu
+ Được cấp giấy phép hoặc hạn ngạch nhập khẩu đối với mặt hàng nhập khẩu
xin vay.
* Giới hạn cho vay
Theo quyết định số 11/QĐ - HĐQT về việc ban hành quy định phân cấp phán quyết
cho vay tối đa đối với một khách hàng thì SGD I được phán quyết cho vay tối đa như sau:
- Đối với khách hàng là doanh nghiệp nhà nước: 100 tỷ VND
- Đối với khách hàng là doanh nghiệp ngoài quốc doanh: 20 tỷ VND
Đối với trường hợp khách hàng có nhu cầu vay vốn vượt quyền phán quyết theo phân
cấp của SGD I, giám đốc Sở phải thông qua ý kiến của Hội đồng tín dụng cùng cấp để
trình lên ngân hàng cấp trên quyết định.
Mức cho vay đối với tài sản thế chấp là 70% giá trị tài sản, đối với tài sản cầm cố do
khách hàng giữ là 50% giá trị tài sản. Mức cho vay tối đa đối với bộ chứng từ hàng xuất
là 95% giá trị thanh toán mà khách hàng được thụ hưởng của bộ chứng từ hoàn hảo.
* Thời hạn cho vay
Có 3 loại thời hạn cho vay tại SGD I:
- Ngắn hạn: dưới 12 tháng
- Trung hạn: từ 12 tháng đến 60 tháng
- Dài hạn: trên 60 tháng
Hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu tại Sở hiện nay chủ yếu là ngắn hạn.
* Đồng tiền cho vay và trả nợ
Sở cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu vay bằng VND và các loại ngoại tệ trong đó
USD là ngoại tệ cho vay chủ yếu. Sở cũng cho vay một số loại ngoại tệ khác như: DEM,
EURO, JPY... theo yêu cầu của khách hàng.
Quyết định số 06/QĐ- HĐQT ngày 18/ 01/ 2000 của Chủ tịch hội đồng quản trị
NHNo&PTNTVN quy định: ngoại tệ cho vay được sử dụng để chuyển trả nước ngoài
theo các phương thức thanh toán quốc tế thực hiện trong hệ thống NHNo&PTNT; trường
hợp chuyển cho NHTM khác thực hiện thanh toán quốc tế phải được sự chấp thuận bằng
văn bản của Tổng giám đốc NHNo&PTNTVN.
Khách hàng vay bằng ngoại tệ nào thì phải trả bằng ngoại tệ đó. Trong trường hợp
khách hàng đề nghị trả nợ bằng ngoại tệ khác với ngoại tệ đã vay hoặc đề nghị trả nợ
bằng VND thì phải được giám đốc Sở đồng ý và thoả thuận tỷ giá quy đổi với khách
hàng.
* Lãi suất cho vay
- Cho vay bằng VND
Đối với các doanh nghiệp kinh doanh hàng xuất khẩu thu ngoại tệ về Sở thì lãi suất ưu
đãi hơn: 0,6%/ tháng.
Đối với công ty xuất nhập khẩu Lào - Việt, công ty giống rau quả, công ty vật tư nông
sản, công ty kim khí Hà Nội, công ty vật tư bảo vệ thực vật I, lãi suất là 0,65%/ tháng.
Đối với công ty cổ phần thức ăn chăn nuôi Pháp - Việt, công ty xuất nhập khẩu đầu tư
xây dựng Hà Nội, công ty giống cây trồng trung ương I, lãi suất là 0,7%/ tháng.
- Cho vay bằng ngoại tệ: được thực hiện theo quy định 241/2000/NHNN1 về lãi suất
cho vay ngoại tệ của NHNN và quy định của Tổng giám đốc NHNo&PTNTVN.
Lãi suất cho vay = lãi suất SIBOR + biên độ giao động nhất định
Lãi suất cho vay ngắn hạn = lãi suất SIBOR kỳ hạn 3 tháng + 1%
* Quy trình cho vay
Tại SGD I, quy trình tài trợ tín dụng xuất nhập khẩu cũng giống như quy trình tín dụng
nói chung.
* Thủ tục tài trợ
Khi có nhu cầu về tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng, khách hàng đến ngân hàng
xin tài trợ và nộp các hồ sơ liên quan để ngân hàng có căn cứ xét duyệt. Các giấy tờ liên
quan gồm có: hồ sơ pháp lý, hồ sơ kinh tế, hồ sơ vay vốn và các giấy tờ liên quan khác
tuỳ theo từng đối tượng vay vốn.
- Đối với khách hàng vay để sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu có thị trường xuất
khẩu thì phải gửi thêm hợp đồng xuất khẩu hoặc hợp đồng sản xuất, chế biến xuất khẩu.
- Đối với khách hàng xin chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất thì phải có cam kết của
khách hàng đồng ý cho SGD I được quyền tự động trích tài khoản của khách hàng để thu
nợ khi tiền hàng xuất khẩu về ngân hàng.
- Đối với khách hàng vay thanh toán cho nước ngoài tiền nhập khẩu hàng hoá thì phải
gửi thêm : giấy phép kinh doanh nhập khẩu, giấy phép hoặc hạn ngạch nhập khẩu.
* Thẩm định hồ sơ
Cán bộ tín dụng thẩm tra lại các thông tin về khách hàng dựa trên cuộc phỏng vấn
tiếp xúc trực tiếp với khách hàng và qua hồ sơ khách hàng cung cấp.
Cán bộ tín dụng phải thẩm định các nội dung sau theo quy định của
NHNo&PTNTVN:
- Thẩm định tính hợp pháp của hồ sơ pháp lý
- Thẩm định tình hình tài chính của khách hàng.
- Thẩm định phương án, dự án của khách hàng. Ngân hàng phải xem xét tính hợp pháp
về mục đích sử dụng vốn vay, tính hợp pháp hợp lệ của kế hoạch sản xuất kinh doanh của
khách hàng, tính khả thi và hiệu quả của dự án, nhu cầu vay vốn của khách hàng và khả
năng trả nợ của khách hàng, thị trường tiêu thụ sản phẩm, khả năng cho vay của ngân
hàng.
- Thẩm định tài sản đảm bảo
* Lập tờ trình
Trong vòng 10 ngày kể từ khi nhận được hồ sơ khách hàng, cán bộ tín dụng lập báo
cáo thẩm định trình lên trưởng phòng tín dụng. Báo cáo này phải nêu rõ tình hình tài
chính của doanh nghiệp, nhu cầu vốn, số tiền xin tài trợ, tính khả thi , hiệu quả của
phương án kinh doanh và kiến nghị của cán bộ tín dụng có nên cho vay hay không.
Trưởng phòng tín dụng căn cứ ý kiến của cán bộ tín dụng đồng thời xem xét lại hồ sơ
và cho ý kiến để trình lên ban giám đốc Sở xét duyệt. Nếu món vay thuộc quyền phán
quyết của giám đốc Sở và đủ điều kiện để cho vay, cán bộ tín dụng sẽ hướng dẫn khách
hàng lập hợp đồng tín dụng theo mẫu 16/TD, lập giấy nhận nợ, hợp đồng bảo đảm tiền
vay. Nếu không đủ điều kiện cho vay, cán bộ tín dụng phải ghi rõ lý do để giải thích cho
khách hàng và trả lại hồ sơ xin vay.
Trong trường hợp vốn vay vượt mức phán quyết của Sở thì trình ra hội đồng tín dụng
Sở giao dịch đầu mối để xin ý kiến.
* Phát tiền vay
Sau khi khách hàng có đủ 30% vốn tự có để tham gia vào dự án xin vay, Sở sẽ tiến
hành giải ngân theo từng bước như đã cam kết trong hợp đồng.
* Kiểm tra và xử lý nợ vay
Trong quá trình cấp tín dụng, cán bộ tín dụng phải thường xuyên kiểm tra và giám sát
chặt chẽ quá trình vay vốn của khách hàng. Nếu phát hiện việc sử dụng sai mục đích hay
những sai lệch trong quá trình sử dụng vốn thì cán bộ tín dụng có trách nhiệm báo ngay
cho kế toán để ngưng ngay việc phát tiền vay và tiến hành thu nợ trước hạn hoặc chuyển
nợ quá hạn.
* Tính lãi, thu lãi, thu nợ, gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ, chuyển nợ quá hạn.
Ngân hàng sẽ tính lãi theo lãi suất hai bên đã thoả thuận tại thời điểm ký kết hợp
đồng. Sắp đến ngày đáo hạn thì ngân hàng phải thông báo cho khách hàng biết để chuẩn
bị tiền trả nợ cho ngân hàng.
- Gia hạn nợ
Khi nợ đến hạn nhưng khách hàng chưa trả được nợ do những nguyên nhân khách
quan như giá cả biến động theo chiều hướng không có lợi và các nguyên nhân bất khả
kháng thì khách hàng phải có giấy đề nghị gia hạn nợ gửi SGD I trước ngày đến hạn nợ
để Sở có thể xem xét, quyết định.
Thời gian gia hạn nợ đối với nợ ngắn hạn tối đa bằng một chu kỳ sản xuất kinh doanh
của đối tượng vay nhưng không quá 12 tháng.
- Điều chỉnh kỳ hạn trả nợ
Trong một số trường hợp , Sở và khách hàng sẽ thoả thuận để điều chỉnh kỳ hạn trả
nợ. Đó là các trường hợp sau:
. Khách hàng có khả năng tài chính để trả nợ lớn hơn hoặc nhỏ hơn mức thoả thuận.
. Nhà nước thay đổi chính sách làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh
xuất nhập khẩu của khách hàng.
. Chu kỳ sản suất, kinh doanh của khách hàng thay đổi
. Thị trường trong nước và nước ngoài có biến động
- Chuyển nợ quá hạn
Đối với nợ đến kỳ hạn cuối cùng (tính cả thời gian cho gia hạn nợ) và các phân kỳ nợ
đã thoả thuận cụ thể trong hợp đồng tín dụng, nếu không được Sở gia hạn thêm hoặc điều
chỉnh kỳ hạn nợ mà khách hàng không trả được nợ thì Sở sẽ chuyển sang nợ quá hạn và
báo cho khách hàng biết. Khách hàng sẽ phải chịu lãi suất phạt bằng 150% lãi suất ghi
trong khế ước.
Nếu khách hàng sử dụng vốn sai mục đích thoả thuận trong hợp đồng, Sở sẽ chấm dứt
cho vay, thực hiện thu hồi nợ vay hoặc chuyển sang nợ quá hạn.
* Thanh lý hợp đồng tín dụng
Sau khi khách hàng hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi tiền vay, cán bộ tín dụng đối chiếu
xác nhận với kế toán và đóng hồ sơ tài trợ lại, chuyển vào hồ sơ lưu của khách hàng.
Quy trình thực hiện tài trợ đến đây là kết thúc.
2.3.4 Các hình thức tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại SGDI
Các hình thức tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại SGDI được thực hiện theo Quyết
định số 447/NHNo- HĐQT ngày 7/6/2001 của Tổng giám đốc NHNo&PTNTVN về việc
việc ban hành Quy định về Quy trình và kỹ thuật nghiệp vụ thanh toán quốc tế trong hệ
thống NHNo. Hiện nay, Sở đang thực hiện các hình thức tài trợ là: mở L/C, cho vay thanh
toán L/C, cho vay ký quỹ sửa đổi tăng giá L/C, cho vay thu mua hàng xuất khẩu. Các
hình thức này tuy chưa đa dạng, phong phú nhưng cũng góp phần đáng kể vào việc phát
triển hoạt động thanh toán quốc tế và hoạt động tín dụng của Sở.
2.3.4.1 Tài trợ xuất khẩu
* Cho vay thu mua hàng xuất khẩu
Sau khi nhận được L/C do ngân hàng mở L/C phát hành theo yêu cầu của nhà nhập
khẩu, nhà xuất khẩu có thể dựa vào đó để yêu cầu SGD I cấp một khoản tín dụng để thực
hiện xuất hàng theo quy định của L/C. Sở giao dịch sẽ xem xét các điều kiện cho vay để
quyết định cho vay hay không. Sở cho vay thu mua hàng xuất khẩu bằng nội tệ.
2.3.4.2 Tài trợ nhập khẩu
Mở L/C, cho vay ký quỹ sửa đổi tăng giá trị L/C, cho vay thanh toán L/C là hình
thức tài trợ nhập khẩu của Sở.
* Mở L/C
Khi khách hàng yêu cầu mở L/C, khách hàng phải gửi Sở bộ hồ sơ gồm :
+ Thư yêu cầu mở L/C
+ Hợp đồng nhập khẩu
+ Văn bản cho phép nhập khẩu của Bộ thương mại hoặc cơ quan quản lý chuyên ngành.
+ Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và giấy chứng nhận đăng ký mã số xuất nhập
khẩu.
Cán bộ ngân hàng sẽ xem xét, xác định mức ký quỹ trong vòng 8 giờ làm việc và
khách hàng phải chuyển đủ số tiền ký quỹ vào tài khoản ký quỹ trước khi ngân hàng mở
L/C. Sở không cho khách hàng vay để chuyển vào tài khoản ký quỹ.
* Cho vay ký quỹ sửa đổi tăng giá trị L/C
NHNo không cho khách hàng mở L/C vay để chuyển vào tài khoản ký quỹ. Ngân
hàng chỉ cho vay ký quỹ L/C khi có sửa đổi tăng giá trị L/C và khách hàng đề nghị thanh
toán bằng vốn vay của Sở. Lúc này, phòng tín dụng sẽ xét cho vay khoản vốn bổ sung
tương ứng.Nếu Sở cho vay thì sẽ hạch toán nội bảng số tiền ký quỹ bổ sung và hạch toán
ngoại bảng số tiền tăng giá trị L/C.
* Cho vay thanh toán L/C
Sau khi khách hàng nộp hồ sơ xin vay để thanh toán L/C hoặc xin vay chuyển tiền,
Sở tiến hành phân loại khách hàng, thẩm định hồ sơ như quy trình nêu trên.
Nếu đồng ý cho vay, Sở sẽ ký hợp đồng tín dụng ngoại tệ với khách hàng. Hợp đồng
tín dụng ngoại tệ là cơ sở pháp lý ràng buộc giữa khách hàng và ngân hàng, quy định rõ
quyền và nghĩa vụ của mỗi bên. Trách nhiệm của Sở là sắp xếp vốn để người vay lập thủ
tục thanh toán cho phía nước ngoài. Trách nhiệm của người vay là ký quỹ đầy đủ, chịu
chi phí ( chi phí mở L/C, chi phí chuyển tiền...), thanh toán gốc và lãi vốn vay đầy đủ và
đúng hạn...
Người vay mà cụ thể ở đây là người nhập khẩu phải có số vốn tự có đảm bảo giá trị
hàng hoá cần thanh toán. Sau khi ký hợp đồng tín dụng với ngân hàng, người vay phải
tiến hành ký quỹ một số tiền tỷ lệ với tổng vốn vay. Số tiền ký quỹ này là một phần vốn
tự có của người vay được xác định đối với từng khách hàng cụ thể dựa trên uy tín khách
hàng, mặt hàng nhập khẩu và mức ký quỹ cạnh tranh với các ngân hàng thương mại khác
trên cùng địa bàn. Mức ký quỹ này cũng trong khoảng mức ký quỹ tối thiểu và tối đa do
Tổng giám đốc NHNo&PTNTVN quy định trong từng thời kỳ.
2.3.5 Thực trạng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại SGDI
2.3.5.1 Doanh số cho vay
Doanh số cho vay là một chỉ tiêu quan trọng phản ánh mặt lượng của hoạt động tín
dụng tài trợ xuất nhập khẩu. Trong thời gian qua, doanh số cho vay trong hoạt động tài
trợ xuất nhập khẩu của SGDI như sau:
BẢNG 2.6 : Doanh số cho vay xuất nhập khẩu giai đoạn 1999 - 2001
Chỉ tiêu Đơn vị 1999 2000 2001
Số tiền % Số tiền % Số tiền %
Triệu Doanh số cho vay XNK 265.910 10 563.145 661.123 10 10
- Doanh số cho vay nội tệ đồng 264.428 466.825 604.426 0 0 0
- Doanh số cho vay ngoại Triệu 105.854 6.642.705 3.779.805 99, 82, 91,
tệ đồng 4 4 9
USD 0,6 8,6 17,
1
Triệu Doanh số cho vay của 662.800 1.302.400 1.316.093
đồng SGDI
Doanh số cho
40,12% 43,24% 50,23% % vay XNK
Tỷ trọng -------------------
-----------
Doanh số cho
vay của Sở
Nguồn: Báo cáo tổng kết kinh doanh 1999-2001
Từ năm 1998, Sở mới bắt đầu hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu nên ít khách hàng biết
hoạt động này. Sang năm 2000 và 2001, Sở chủ động tìm kiếm khách hàng và việc mở
rộng dịch vụ thanh toán quốc tế tạo cơ sở cho mở rộng tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu.
Để mở rộng thị phần và đa dạng các hình thức đầu tư, trong năm 2001, Sở đã tiếp cận các
công ty của Tổng công ty 90 - 91 như: Dầu khí, Bưu điện, Dệt may, Công nghiệp tàu
thuỷ.. để thẩm định và cho vay vốn. Sở cũng tiến hành phân tích thực trạng tín dụng năm
2000, phân loại nợ, phân loại khách hàng để có chính sách ưu đãi, mở rộng đầu tư... Sở
đã có thêm nhiều khách hàng mới có nhu cầu vốn lớn để thu mua chế biến hàng xuất
khẩu và nhập khẩu nguyên vật liệu như tổng công ty kim khí Hà Nội, tổng công ty xuất
nhập khẩu thuỷ sản Hà Nội...
Do vậy mà doanh số cho vay xuất nhập khẩu của Sở không ngừng tăng.
Doanh số tài trợ xuất nhập khẩu của Sở năm 1999 là 265.910 triệu đồng, chiếm tỷ
trọng 40,12% doanh số cho vay của Sở.
Doanh số cho vay tài trợ xuất nhập khẩu năm 2000 là 563.145 triệu đồng, chiếm tỷ
trọng 43,24% doanh số cho vay của Sở.
Doanh số cho vay tài trợ xuất nhập khẩu năm 2001 là 661.123 triệu đồng, chiếm tỷ
trọng 50,23% doanh số cho vay tại Sở.
* Doanh số cho vay nội tệ:
Đối với hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu, nhu cầu của khách hàng chủ yếu vay bằng
nội tệ nên cho số cho vay bằng nội tệ chiếm tỷ trọng lớn trong doanh số cho vay xuất
nhập khẩu tại Sở.
Năm 2000, doanh số cho vay nội tệ của Sở là 466.825 triệu VND, chiếm tỷ trọng
82,9% trong doanh số cho vay xuất nhập khẩu.
Năm 2000, doanh số cho vay nội tệ của Sở là 604.426 triệu VND, chiếm tỷ trọng
91,4% trong doanh số cho vay xuất nhập khẩu.
Sở dĩ nhu cầu vay nội tệ nhằm phục vụ hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu tại Sở tăng là
do trong năm 2001, giá USD tăng mạnh, tình trạng khan hiếm USD kéo dài gần như suốt
năm khiến cho khách hàng không dám vay ngoại tệ do sợ tỷ giá tăng làm cho phương án
kinh doanh rơi vào thua lỗ. Do vậy, khách hàng chuyển sang vay bằng nội tệ .
* Doanh số cho vay ngoại tệ
Bên cạnh việc Sở tài trợ xuất nhập khẩu bằng nội tệ, Sở cũng tài trợ bằng ngoại tệ, chủ
yếu là USD nhưng nhu cầu vay bằng ngoại tệ không nhiều do vay bằng ngoại tệ không có
lợi so với vay bằng nội tệ. Tuy nhiên, để tìm đầu ra cho nguồn vốn huy động ngoại tệ, Sở
đã rất cố gắng trong việc thuyết phục khách hàng xuất nhập khẩu vay vốn bằng ngoại tệ
để trả nợ phục vụ cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Cụ thể trong năm 2000,
các khách hàng lớn của Sở như Seaprodex Hà Nội, công ty kim khí Hà Nội, công ty xuất
nhập khẩu Lào - Việt đã vay trên 6,6 triệu USD.
BẢNG 2.7 : Doanh số cho vay tài trợ xuất nhập khẩu bằng ngoại tệ
Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001
USD USD USD % so với năm
2000
- 43 Doanh số cho vay 105.854 6.642.705 3.779.805
ngoại tệ
105 854 5 734 537 2 882 073 - 50 Doanh số thu nợ
0 836 168 1 733 900 + 107 Dư nợ ngoại tệ còn
0 0 0 0 Nợ quá hạn
Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh đối ngoại 1999-2001
Trong năm 2001, nhu cầu vay tín dụng bằng ngoại tệ của khách hàng giảm đi rõ rệt thể
hiện ở doanh số cho vay:
Năm 2000, doanh số cho vay ngoại tệ tài trợ xuất nhập khẩu là 6.642.705 USD
Năm 2000, doanh số cho vay ngoại tệ tài trợ xuất nhập khẩu là 3.779.805 USD, giảm
43% so với năm 2000
Doanh số cho vay bằng ngoại tệ năm 2001 giảm nhiều tuy lãi suất thực tính thấp hơn
lãi suất cho vay bằng VND. Nguyên nhân là do khách hàng vay vốn chủ yếu của Sở là
các đơn vị xuất nhập khẩu không có nguồn USD trả nợ trong khi tốc độ tăng tỷ giá cao
nên tâm lý khách hàng nhập khẩu muốn vay VND để giảm lỗ. Mặt khác, việc thanh toán
thường tập trung vào những thời điểm nhạy cảm nên giá USD cao, không đảm bảo
phương án kinh doanh có lãi đề ra. Thêm vào đó, NHNN chỉ ưu tiên bán ngoại tệ cho
nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu như xăng, dầu... Để có nguồn ngoại tệ giữ khách hàng,
Sở đã tranh thủ NHNN, NHNo&PTNTVN, tranh thủ các ngân hàng bạn và tranh thủ sự
cộng tác, thông cảm của khách hàng. Những nỗ lực của cán bộ phòng kế hoạch và kinh
doanh SGD I đã giúp cho SGD I tuy giảm doanh số cho vay ngoại tệ nhưng tổng doanh
số tài trợ xuất nhập khẩu vẫn không ngừng tăng.
Thời hạn tài trợ xuất nhập khẩu tại Sở chủ yếu là ngắn hạn do nhu cầu vay vốn của
khách hàng là ngắn hạn. Doanh số cho vay xuất nhập khẩu trung dài hạn chiếm tỷ trọng
nhỏ, không đáng kể. Khách hàng được Sở tài trợ xuất nhập khẩu chủ yếu là các doanh
nghiệp Nhà nước và Sở tài trợ nhập khẩu là chính.
* Tỷ trọng các hình thức tài trợ xuất nhập khẩu
- Mở L/C:
Đối với nhà nhập khẩu thì mở L/C cũng được coi là một hình thức tài trợ của ngân
hàng. Số món mở L/C nhập khẩu tại Sở I ngày càng tăng tăng, thể hiện:
Năm 1999, số món mở L/C nhập khẩu là 130 món, trị giá 26 triệu USD
Năm 2000, số món mở L/C nhập khẩu là 153 món, trị giá 48,9 triệu USD tăng 88% so
với năm 1999.
Năm 2001, số món mở L/C nhập khẩu là 165 món, trị giá 52,7 triệu USD tăng 7,8% so
với năm 2000.
Tuy nhiên, tốc độ tăng về số món L/C và trị giá L/C được mở năm 2001 nhỏ hơn so
với năm 2000. Đó là do doanh số nhập khẩu của khách hàng lớn của Sở là Seaprodex Hà
Nội, công ty TNHH Hồng Thuý giảm. Đây là nguyên nhân làm cho trị giá thanh toán của
L/C nhập khẩu tăng không nhiều trong năm 2001.
BẢNG 2.8: Tỷ trọng các hình thức tài trợ XNK trong doanh số cho vay XNK giai
đoạn 1999- 2001
Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001
Tài trợ xuất khẩu 4,5% 4,7% 7,1%
- Cho vay thu mua hàng xuất khẩu 4,5% 4,7% 7,1%
Tài trợ nhập khẩu
95,5% 95,3% 92,9%
- Cho vay thanh toán L/C 90,1% 88,8% 86,6%
- Cho vay ký quỹ sửa đổi tăng giá trị L/C 5,4% 6,5% 6,3%
Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh đối ngoại 1999-2001
Bảng trên cho ta thấy hoạt động tài trợ xuất khẩu tại Sở có xu hướng ngày càng tăng.
Năm 1999, doanh số tài trợ xuất khẩu chiếm 4,5% trong doanh số tài trợ xuất nhập
khẩu.
Năm 2000, doanh số tài trợ xuất khẩu chiếm 4,7% trong doanh số tài trợ xuất nhập
khẩu.
Năm 1999, doanh số tài trợ xuất khẩu chiếm 7,1% trong doanh số tài trợ xuất nhập
khẩu.
Tuy nhiên so với hoạt động tài trợ nhập khẩu thì hoạt động tài trợ xuất khẩu còn quá
nhỏ bé, chiếm chưa đến 10% doanh số tài trợ xuất nhập khẩu. Nguyên nhân là do hoạt
động tài trợ xuất nhập khẩu của Sở còn mới nên số lượng khách hàng chưa nhiều. Thêm
vào đó, do những vướng mắc về cơ chế chính sách nên việc cho vay thu mua hàng xuất
khẩu tại Sở bị hạn chế, các khách hàng có nhu cầu không tìm đến Sở, bên cạnh đó còn có
những khách hàng bỏ Sở ra đi. Ví dụ như trong năm 1999, theo kế hoạch là Sở đầu tư cho
công ty lương thực miền Bắc từ 7-8 triệu USD tương đương với khoảng 100 tỷ VND. Sở
đã trình lên Trung tâm hối đoái NHNo&PTNTVN, trình lên NHNN xin được tài trợ xuất
khẩu gạo nhưng không được chấp thuận. Vì vậy, Tổng công ty lương thực miền Bắc đã
vay các NHTM cổ phần trên địa bàn Hà Nội làm Sở mất đi cơ hội cho vay và mất một
nguồn ngoại tệ lớn thu được từ xuất khẩu gạo.
2.3.5.2 Tình hình thu nợ, dư nợ, nợ quá hạn trong cho vay xuất nhập khẩu
Với bất kỳ hoạt động tín dụng trên lĩnh vực nào thì chất lượng hoạt động tín dụng cần
phải được quan tâm trước hết. Hoạt động tín dụng chỉ thực sự mang lại hiệu quả cho ngân
hàng khi nó sử dụng tối đa nguồn vốn huy động và nguồn vốn cho vay được thu hồi lại
đầy đủ cả gốc lẫn lãi đúng hạn. Chất lượng hoạt động tín dụng của Sở thể hiện ở công tác
thu nợ và tình hình dư nợ, nợ quá hạn.
BẢNG 2.9 : Tình hình thu nợ, dư nợ & nợ quá hạn trong cho vay XNK
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu 1999 2000 2001
339..215 444.545 496.705 Thu nợ cho vay XNK
51.767 169.827 241.918 Tổng dư nợ cho vay XNK
443 21.651 22.098 Nợ quá hạn cho vay XNK
Nợ quá hạn cho vay XNK
0,85% 12,7% 8,89% ........................................... (
%)
Tổng dư nợ cho vay XNK
Nguồn: Báo cáo tổng kết kinh doanh 1999-2001
Bảng trên cho thấy các khoản tài trợ xuất nhập khẩu tại Sở có khả năng thu nợ cao.
Doanh số thu nợ cho vay xuất nhập khẩu của Sở không ngừng tăng lên tỷ lệ thuận với
doanh số cho vay của Sở. Năm 2000 có doanh số thu nợ cho vay xuất nhập khẩu là
444.545 triệu đồng, năm 2001 doanh số thu nợ cho vay xuất nhập khẩu là 496 705 triệu
đồng tăng 11,73% so với năm 2000.
Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ tại Sở tuy có chiều hướng giảm nhưng vẫn còn khá
cao. Năm 1999 là năm có tỷ lệ nợ quá hạn thấp 0,85%.
Trong năm 2000, nợ quá hạn của Sở là 21.651 triệu đồng. Năm 2000 là năm có tỷ lệ
nợ quá hạn cao nhất (12,7%). Tỷ lệ nợ quá hạn cao như vậy một phần là do có công ty
làm ăn không hiệu quả nên Sở chưa thu được nợ, một phần là do món thanh toán L/C 071
hiện đang khởi kiện chưa có kết quả. Nếu như không có khoản ghi nợ bắt buộc 20.329 tỷ
đồng của do món thanh toán L/C 071 thì tỷ lệ nợ quá hạn chỉ là 0,78%.
Trong năm 2001, nợ quá hạn của Sở là 21.198 triệu đồng, tỷ lệ nợ quá hạn giảm xuống
còn 8,76%. Tỷ lệ nợ quá hạn này tuy còn cao nhưng nếu không có khoản ghi nợ bắt buộc
20.329 tỷ đồng của món thanh toán L/C 071 thì tỷ lệ nợ quá hạn chỉ là 0,73%. Điều này
chứng tỏ chất lượng hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu tại Sở năm 2001 đã tăng lên.
Việc tỷ lệ nợ quá hạn của Sở giảm từ 12,7% năm 2000 xuống còn 8,89% năm 2001 là
nhờ biện pháp xử lý nợ quá hạn đúng đắn và nhờ nỗ lực của cán bộ tín dụng của Sở. Sở
đã phân công cán bộ cho vay trực tiếp bám sát các đơn vị có nợ quá hạn để đôn đốc thu
nợ và có biện pháp xử lý theo chế tài tín dụng. Bên cạnh đó, Sở còn thành lập các nhóm
để thực hiện thu hồi nợ quá hạn, theo dõi và đôn đốc thu nợ đến hạn.
Trong thời gian tới, khi công tác thẩm định của cán bộ tín dụng được nâng cao, các
biện pháp xử lý nợ quá hạn được áp dụng mạnh mẽ hơn nữa thì chắc chắn hoạt động tài
trợ xuất nhập khẩu tại Sở sẽ còn phát triển mạnh và có chất lượng cao hơn.
2.3.6 Những mặt được và chưa được trong hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập
khẩu tại SGDI
2.3.6.1 Những kết quả đạt được
Sở đã chủ động tìm kiếm khách hàng và tạo điều kiện thuận lợi cho tổ thanh toán quốc
tế mở rộng dịch vụ thanh toán quốc tế để tạo cơ sở cho mở rộng tín dụng tài trợ xuất nhập
khẩu. Để mở rộng thị phần và đa dạng các hình thức đầu tư, trong năm 2001, Sở đã tiếp
cận các công ty của Tổng công ty 90 - 91 để thẩm định và cho vay vốn.
Sở cũng tiến hành phân tích thực trạng tín dụng năm 2000, phân loại nợ, phân loại
khách hàng để có chính sách ưu đãi, mở rộng đầu tư... Sở đã có thêm nhiều khách hàng
mới có nhu cầu vốn lớn để thu mua chế biến hàng xuất khẩu và nhập khẩu nguyên vật
liệu.
Sở đã áp dụng hình thức huy động đa dạng (tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu...), thực hiện
trả lãi huy động linh hoạt nên nguồn vốn huy động tại Sở năm 2001 tăng mạnh. Việc
nguồn vốn huy động dồi dào sẽ tạo điều kiện để Sở thực hiện cho vay xuất nhập khẩu.
Sở tích cực xử lý nợ quá bằng cách phân công cán bộ cho vay trực tiếp bám sát các
đơn vị có nợ quá hạn để đôn đốc thu nợ và có biện pháp xử lý theo chế tài tín dụng. Bên
cạnh đó, Sở còn thành lập các nhóm để thực hiện thu hồi nợ quá hạn, theo dõi và đôn đốc
thu nợ đến hạn. Chính vì vậy mà trong năm 2001, tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ của Sở
giảm xuống.
2.3.6.2 Những mặt chưa được
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu
của Sở còn một số hạn chế nhất định làm ảnh hưởng phần nào đến sự phát triển hoạt
động tài trợ tại Sở trong thời gian qua. Những mặt chưa được trong hoạt động tín dụng tài
trợ XNK tại Sở thể hiện:
NHNo đã có hướng dẫn thực hiện nghiệp vụ chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất nhưng
triển khai còn chưa sâu rộng, chưa có chiến lược cụ thể. Nguyên nhân một phần là do Sở
chưa chủ động trong cân đối ngoại tệ và nguyên nhân khách quan là do sự biến động tỷ
giá ngoại tệ trong thời gian qua làm cho ngân hàng e ngại khi thực hiện nghiệp vụ này.
Hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu tại Sở khối lượng còn thấp và hình thức chưa phong
phú. Doanh số cho vay xuất nhập khẩu trung, dài hạn chiếm tỷ trọng nhỏ, không đáng kể.
Hoạt động tài trợ xuất khẩu của Sở I chưa nhiều nên khối lượng thanh toán hàng xuất qua
Sở còn thấp. Tại Sở hiện nay chủ yếu là tài trợ nhập khẩu.
Khách hàng được Sở tài trợ xuất nhập khẩu chưa đa dạng, chủ yếu là các doanh nghiệp
Nhà nước nên Sở dễ bị sức ép từ phía khách hàng về lãi suất, phí thanh toán. Mặt khác,
việc tập trung dư nợ vào một số ít khách hàng sẽ không có lợi cho phòng ngừa rủi ro tín
dụng.
Hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu ở Sở còn chưa có chiến lược cụ thể. Việc
khai thác nguồn ngoại tệ phục vụ cho tín dụng và thanh toán còn hạn chế. Sở cũng chưa
có bộ phận riêng làm nghiệp vụ tài trợ xuất nhập khẩu mà nghiệp vụ còn lẫn vào bộ phận
thanh toán và tín dụng nói chung. Điều này sẽ làm cho sở gặp khó khăn trong việc phát
triển hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu.
Công tác tiếp thị đã được Sở quan tâm nhưng kết quả chưa cao vì việc thực hiện
marketing chưa đều khắp cơ sở.
Trên đây là một số hạn chế trong hoạt động tài trợ tín dụng xuất nhập khẩu tại SGDI.
Trong thời gian tới, khi được sự hỗ trợ của NHNo&PTNTVN, của NHNN và Chính phủ
thì hoạt động này tại Sở chắc chắn sẽ phát triển hơn nhiều.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Trên cơ sở lý luận tài trợ xuất nhập khẩu của các NHTM trong chương 1, chương 2 đã
đi sâu phân tích thực trạng hoạt động tín dụng của SGD I - NHNo&PTNTVN qua các
khía cạnh:
. Quá trình hình thành và phát triển của NHNo&PTNTVN và của SGD I
. Tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam trong thời gian qua và trong tương lai
. Thực trạng hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu của SGD I - NHNo&PTNTVN
Bằng phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu của
SGD I - NHNo&PTNTVN đã được nghiên cứu, phân tích trên cơ sở số liệu về nguồn vốn
huy động, doanh số cho vay, tình hình thu nợ và dư nợ, quy trình hoạt động, các hình
thức tài trợ. Từ đó, ta thấy được những kết quả và tồn tại của hoạt động này tại SGD I.
CHƯƠNG 3:
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG
TÀI TRỢ XNK TẠI SGD I - NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
3.1 ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU CỦA VIỆT
NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
Đường lối kinh tế của Đảng ta là: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng
nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát
triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng
xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững.
Xuất phát từ đường lối kinh tế của Đảng, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm
2001-2010 khẳng định định hướng phát triển hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam :
" Nhà nước có chính sách khuyến khích mạnh mẽ các thành phần kinh tế tham gia
sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ. Nâng cao năng lực cạnh
tranh, phát triển mạnh những sản phẩm hàng hoá và dịch vụ có khả năng cạnh tranh
trên thị trường quốc tế; giảm mạnh xuất khẩu sản phẩm thô và sơ chế, tăng nhanh tỷ
trọng sản phẩm chế biến và tỷ lệ nội địa hoá cho sản phẩm; nâng dần tỷ trọng sản
phẩm có hàm lượng trí tuệ, hàm lượng công nghệ cao.
Xây dựng các quỹ hỗ trợ xuất khẩu, nhất là đối với hàng nông sản. Khuyến khích
sử dụng hàng hoá, thiết bị sản xuất trong nước.. Tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu,
tiến tới cân bằng xuất nhập. Thực hiện chính sách bảo hộ có lựa chọn, có thời hạn đối
với các sản phẩm sản xuất trong nước. Phát triển du lịch quốc tế, xuất khẩu lao động
và các dịch vụ thu ngoại tệ khác.
Chủ động và tích cực thâm nhập thị trường quốc tế, chú trọng thị trường các trung
tâm kinh tế thế giới, duy trì và mở rộng thị phần trên các thị trường quen thuộc, tranh
thủ mọi cơ hội mở thị trường mới. Đẩy mạnh hoạt động tiếp thị, xúa tiến thương mại,
thông tin thị trường bằng nhiều phương tiện và tổ chức thích hợp. Khuyến khích các
tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia hoạt động môi giới, khai thác thị
trường quốc tế".
Chiến lược cũng đưa ra định hướng cụ thể cho hoạt động xuất khẩu của từng ngành:
Đối với ngành nông nghiệp : " Đến năm 2010, kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thuỷ
sản đạt 9 - 10 tỷ USD, trong đó thuỷ sản chiếm khoảng 3,5 tỷ USD".
Đối với ngành công nghiệp :" Đến năm 2010, giá trị xuất khẩu công nghiệp chiếm 70-
75% tổng kim ngạch xuất khẩu. Tỷ lệ nội địa hoá trong sản xuất xe cơ giới, máy và
thiết bị đạt 60- 70%; công nghiệp điện tử thông tin trở thành ngành mũi nhọn; chế
biến hầu hết nông sản xuất khẩu; công nghiệp hàng tiêu dùng đáp ứng nhu cầu trong
nước và tăng nhanh xuất khẩu".
Đối với các ngành dịch vụ: " Phát triển mạnh thương mại, nâng cao năng lực và chất
lượng hoạt động để mở rộng thị trường trong nước và hội nhập quốc tế có hiệu quả.
Phát triển thương mại điện tử. Nhà nước, các hiệp hội, các doanh nghiệp phối hợp tìm
kiếm, mở rộng thị trường cho sản phẩm Việt Nam".
Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005 là bước quan trọng trong việc
thực hiện chiến lược 10 năm 2001- 2010. Hoàn thành kế hoạch này sẽ góp phần thực hiện
tốt Chiến lược 10 năm đã đề ra. Kế hoach này đã đưa ra định hướng phát triển kinh tế đối
ngoại mà đặc biêt là hoạt động xuất nhập khẩu như sau:
" Tăng nhanh tổng kim ngạch xuất khẩu, bảo đảm nhập khẩu những vật tư, thiết bị
chủ yếu, có tác động tích cực đến sản xuất kinh doanh. tạo thị trường ổn định cho một
số mặt hàng nông sản thực phẩm và hàng công nghiệp có khả năng cạnh tranh; tìm
kiếm thị trường cho mặt hàng xuất khẩu mới. Nâng cao chất lượng các mặt hàng xuất
khẩu, tăng thêm thị phần ở các thị trường truyền thống, tiếp cận và mở mạnh các thị
trường mới.
Tiếp tục đầu tư, nâng cao chất lượng để tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu các mặt
hàng chủ lực như dầu thô, gạo, cà phê, cao su, hàng thuỷ sản, dệt may, da giầy, hàng
thủ công mỹ nghệ, hàng điện tử và linh kiện điện tử, phần mềm máy tính...Đẩy mạnh
xuất khẩu lao động".
Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005 cũng đưa ra những chỉ tiêu
định hướng cần thực hiện sau:
BẢNG 3.1 : Kế hoạch tăng kim ngạch xuất nhập khẩu giai đoạn 2001- 2005
Chỉ tiêu Tỷ trọng Tốc độ tăng
bình quân
hàng năm
Hàng xuất khẩu 100% 16%
30% 16,2% - Nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản
43% 22% - Nhóm hàng công nghiệp nhẹ & tiểu thủ công
27% 6,2% nghiệp
- Nhóm hàng công nghiệp nặng - khoáng sản
Hàng nhập khẩu 100% 100%
32,6% 17,2% - Nhóm hàng máy móc, thiết bị và phụ tùng
63,5% 13,9% - Nhóm hàng nguyên nhiên vật liệu
3,9% 0% - Nhóm hàng tiêu dùng
Nguồn: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001- 2010 và kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005 là những căn cứ quan trọng để NHNo&PTNTVN nói chung
và SGDI nói riêng định hướng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng
mình.
3.2 ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NHNO&PTNT VÀ SGD I
TRONG THỜI GIAN TỚI
3.2.1 Định hướng chiến lược 2001- 2010 của NHNo &PTNTVN
Trên cơ sở những thành tựu đã đạt được qua hơn 10 năm đổi mới và nhất là những bài
học kinh nghiệm rút ra từ những tồn tại yếu kém, NHNo &PTNTVN đã tập trung xây
dựng Đề án cơ cấu lại giai đoạn 2001- 2010. Đề án này đã được Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt tại Quyết định số 161/2001/QĐ-TTg ngày 23/10/2001.
Mục tiêu tổng quát của Đề án là:
Trong vòng 10 năm tới, xây dựng NHNo&PTNTVN tiếp tục là NHTM hàng đầu ở
Việt Nam, trở thành NHTM tiên tiến trong khu vực và có uy tín cao trên trường quốc tế;
mở rộng hoạt động kinh doanh vững chắc an toàn, có quy mô vốn tự có ngang tầm các
ngân hàng trong khu vực, áp dụng công nghệ ngân hàng hiện đại, cung cấp các dịch vụ
tiện lợi, duy trì và nâng cao khả năng sinh lời, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực.
Trên cơ sở Đề án này và những định hướng của Chính phủ và Nhà nước, NHNo
&PTNTVN đưa ra định hướng chiến lược 2001- 2010 của mình.
* Định hướng chiến lược 2001- 2010 của NHNo &PTNTVN là:
NHNo &PTNTVN phải tập trung sức triển khai tốt chương trình hành động
thực hiện Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ IX của Ban cán sự Đảng Ngân hàng Nhà
nước, đặc biệt phải thực hiện đúng nội dung, lộ trình của Đề án cơ cấu lại
NHNo&PTNTVN 2001- 2010 đã được Chính phủ phê duyệt; tiếp tục duy trì tốc độ
tăng trưởng cao nguồn vốn và sử dụng vốn, đảm bảo an toàn vốn và khả năng sinh
lời nhằm tăng năng lực cạnh tranh; đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu sản xuất,
sắp xếp đổi mới doanh nghiệp, mở rộng nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng,
thích ứng nhanh chóng với môi trường kinh doanh mới; tiếp tục đổi mới công nghệ
và đào tạo nguồn nhân lực phù hợp với tiến trình hiện đại hoá hệ thống ngân hàng
và theo kịp tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế trong tương lai gần.
* Định hướng phát triển hoạt động đối ngoại của NHNo &PTNTVN là:
Tổ chức thực hiện tốt các dự án hiện có, tập trung khai thác, tiếp nhận nhiều dự án,
bao gồm cả uỷ thác, dịch vụ, nâng cao năng lực, tài trợ kỹ thuật.
Mở rộng hoạt động kinh doanh ngoại hối, thanh toán quốc tế tại các địa bàn có môi
trường hoạt động. nâng cao chất lượng nghiệp vụ, thu hút khách hàng, đưa doanh số
thanh toán năm 2005 lên gấp đôi hiện nay. Chuẩn bị các điều kiện để đến năm 2005 tham
gia mua bán ngoại tệ tại thị trường thế giới.
Mở rộng hoạt động quan hệ quốc tế, đóng vai trò tích cực trong các tổ chức quốc tế
và khu vực.
Cụ thể là NHNo&PTNTVN phấn đấu đến cuối năm 2010 đạt những chỉ tiêu sau:
Vốn tự có đạt 16.000 tỷ VND tương đương 1 tỷ USD
Tổng nguồn vốn đạt 250.000 tỷ VND tương đương 15 tỷ USD
Tổng dư nợ đạt 176.000 tỷ VND tương đương 12 tỷ USD
Trước mắt trong năm 2002 NHNo&PTNTVN phấn đấu hoàn thành một số chỉ tiêu
cơ bản sau:
So với năm 2001, phấn đấu đưa tổng nguồn vốn tăng từ 22% đến 25%, tổng dư nợ
tăng từ 20% đến 22%, tỷ lệ cho vay trung dài hạn không quá 45% tổng dư nợ, nợ quá hạn
dưới 3% tổng dư nợ hữu hiệu. Đảm bảo lợi nhuận tăng từ 3% đến 5%, hoàn thành các
nghĩa vụ đối với Ngân sách nhà nước theo quy định, trích lập các quỹ đáp ứng đủ chi phí,
bao gồm cả trích lập các quỹ dự phòng rủi ro, phấn đấu đạt mức tiền lương trên nền
lương cơ bản.
* Định hướng tiến hành của NHNo&PTNT:
- Thực hiện đúng nội dung, lộ trình của Đề án cơ cấu lại NHNo&PTNTVN 2001- 2010
đã được Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 161/2001/QĐ-TTg ngày 23/10/2001.
- Xây dựng, ban hành quy định quy trình nghiệp vụ chặt chẽ, cụ thể, rõ ràng.
- Tạo bước chuyển về chất trong quản trị điều hành theo đúng pháp luật, điều lệ, quy
chế, đúng chức năng nhiệm vụ, thẩm quyền; phân công rõ người rõ việc, rõ trách nhiệm
và có cơ chế phân cấp, uỷ quyền hợp lý để chủ động trong quản lý, điều hành hoạt động
kinh doanh toàn hệ thống.
- Tổ chức đào tạo, tập huấn thường xuyên quy chế, quy định của NHNN, quy trình
nghiệp vụ của NHNo; nâng cao trình độ kỹ thuật nghiệp vụ, tay nghề cho CBCNV; đẩy
nhanh ứng dụng công nghệ tin học trong các nghiệp vụ ngân hàng.
- Đa dạng hoá đối tượng đầu tư, chú trọng cho vay hộ sản xuất, hộ trang trại, doanh
nghiệp vừa và nhỏ, Tổng công ty 90, Tổng công ty 91. Mở rộng tín dụng theo hướng đáp
ứng có hiệu quả các chương trình dự án chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng khai thác
tối đa tiềm năng về con người, tài nguyên, nâng cao tỷ trọng xuất khẩu hàng hoá nông
sản, góp phần vào tiến trình CNH- HĐH nông thôn.
- Tăng cường công tác giám sát, kiểm tra, kiểm toán nội bộ; thực hiện dân chủ, thực
hiện tiết kiệm; chống lãng phí, tham nhũng, tiêu cực.
- Đẩy mạnh hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, trong đó chú trọng ưu tiên cho hoạt
động đối ngoại, tạo cơ sở vật chất thực hiện tốt hoạt động này.
3.2.2 Định hướng kinh doanh của SGDI trong năm 2002
Trong năm 2002, mục tiêu định hướng hoạt động của SGDI là đạt được những chỉ
tiêu sau :
- Huy động vốn: 3000 tỷ VND
- Tổng dư nợ ( cả ngoại tệ quy VND ): 1000 tỷ VND
- Tỷ lệ nợ quá hạn: dưới 3 %
- Tỷ lệ cho vay trung dài hạn: 30%
- Tỷ lệ cho vay doanh nghiệp: 80%
- Phấn đấu đến cuối 2002 Sở có 20 chi nhánh, phòng giao dịch và quỹ tiết kiệm
3.3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI SGDI - NHNO&PTNTVN NHẰM PHÁT
TRIỂN HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU
Sau một thời gian thực tập tại SGDI - NHNo&PTNTVN, em xin đề xuất một số giải
pháp nhằm phát triển hơn nữa hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại Sở giao dịch I
như sau:
3.3.1 Giải pháp thu hút nguồn vốn
Nguồn vốn luôn đóng một vai trò quan trọng đối với hoạt động của SGD I, nó là cơ sở
để phát triển hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng.
Trong thời gian qua, nguồn vốn huy động tại Sở không ngừng tăng cả về số lượng lẫn
chất lượng. Tuy nhiên, do giá USD không ngừng tăng trong suốt năm 2001 và những
tháng đầu 2002 làm cho nhu cầu vay VND tăng mà Sở khó có thể đáp ứng. Thêm vào đó,
đang có sự cạnh tranh gay gắt về nguồn vốn huy động ở các ngân hàng trên địa bàn Hà
Nội làm cho các ngân hàng không ngừng tăng lãi suất huy động của mình để thu hút
khách hàng. Để có thể cạnh tranh được với các ngân hàng khác thì Sở không chỉ tăng lãi
suất huy động mà còn phải không ngừng đa dạng hoá các hình thức huy động vốn bằng
cách xử lý linh hoạt lãi suất, thời hạn gửi, miễn phí dịch vụ, cung cấp thông tin, tư vấn
khách hàng và nhiều dịch vụ chăm sóc khách hàng khác.
3.3.1.1 Đa dạng hoá hình thức huy động vốn
Sở phải nhanh chóng đa dạng các dịch vụ huy động nguồn vốn như : tiền gửi thanh
toán, kỳ phiếu, huy động bằng nhiều loại ngoại tệ khác ngoài USD, huy động tiết kiệm
bằng vàng, đến tận nhà khách hàng hoặc cơ quan khách hàng thu tiền để phục vụ những
khách hàng không có nhiều thì giờ để đến ngân hàng gửi tiền., có dịch vụ huy động tiết
kiệm ngoài giờ với lãi suất thấp hơn hoặc có một khoản phí nhỏ...
Thêm vào đó, Sở cũng đa dạng hoá các hình thức trả lãi : trả lãi trước, trả lãi sau, trả
lãi bậc thang...
Sở cũng cần cung cấp thêm các dịch vụ bổ trợ để tăng thêm giá trị sản phẩm như :
triển khai trương trình cung cấp thông tin về theo yêu cầu của khách hàng về số dư tiền
gửi, tiền vay, hoạt động tài khoản của khách hàng, lãi suất, tình hình tỷ giá, giá cả trong
ngoài nước...
Thực hiện đa dạng hoá các hình thức huy động vốn và cung cấp thêm các dịch vụ bổ
trợ sẽ giúp Sở có thêm nhiều nguồn vốn nội tệ và ngoại tệ phục vụ cho hoạt động tín
dụng tài trợ xuất nhập khẩu.
3.3.1.2 Biện pháp thu hút nguồn ngoại tệ
Hiện nay, hoạt động kinh doanh ngoại tệ chủ yếu tại Sở là để phục vụ cho nhu cầu mở
L/C, chuyển tiền và nhờ thu của khách hàng. Để đáp ứng tốt nhu cầu này, trong thời gian
tới, Sở cần tăng cường hoạt động mua bán ngoại tệ để phục vụ cho hoạt động tài trợ xuất
nhập khẩu tại Sở:
- Với doanh nghiệp xuất khẩu thu ngoại tệ, ngân hàng nên khuyến khích họ bán lại số
ngoại tệ chưa dùng cho ngân hàng và sẽ cho họ hưởng lãi suất ưu đãi khi vay lại ngoại tệ
để thanh toán.
- Tham gia tích cực vào thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Thị trường liên ngân hàng
là thị trường mua bán ngoại tệ giữa các NHTM được phép kinh doanh ngoại tệ với mục
đích điều hoà nguồn ngoại tệ giữa nơi thừa và nơi thiếu. Việc tham gia vào thị trường này
sẽ giúp Sở bổ sung được nguồn vốn khi cần thiết nhằm đáp ứng đầy đủ và nhanh nhất
nhu cầu tín dụng phục vụ xuất nhập khẩu tại Sở.
3.3.1.3 Mở rộng mạng lưới kinh doanh
Việc mở rộng mạng lưới kinh doanh không những giúp Sở huy động vốn nhiều hơn và
dễ dàng hơn mà còn giúp sản phẩm, dịch vụ đến được tay khách hàng và mục tiêu lợi
nhuận của Sở trở thành hiện thực. Để cung ứng sản phẩm, dịch vụ của Sở đến từng khách
hàng thì việc lựa chọn kênh phân phối nào cho phù hợp là điều cần thiết. Để thực hiện tốt
việc phân phối sao cho khối lượng sản phẩm, dịch vụ cung ứng được nhiều mà không
lãng phí nguồn nhân lực, Sở cần phải:
- Mở rộng thêm quy mô của Sở
Do đặc điểm của Sở là tài trợ xuất nhập khẩu tập trung vào khách hàng là các DNNN
và công ty lớn nên không cần mở thêm nhiều chi nhánh mà chỉ cần mở rộng thêm quy
mô của Sở là vừa đủ.
- Mở rộng thêm các chi nhánh loại 4, các phòng giao dịch và quỹ tiết kiệm để đẩy
mạnh hoạt động huy động vốn nội tệ và ngoại tệ từ dân cư. Địa điểm của những quỹ tiết
kiệm, phòng giao dịch này phải thuận tiện về giao thông và nằm ở những nơi dân cư
đông đúc và có nhu cầu giao dịch với ngân hàng nhiều để giảm sự đi lại cho khách hàng.
3.3.1.4 Biện pháp khác
- Sở cần nhanh chóng và tích cực thu hút thêm khách hàng là các công ty có nguồn
tiền gửi lớn trên địa bàn Hà Nội. Bên cạnh đó, Sở cũng chú trọng tập trung vào khách
hàng lớn là Tổng công ty, khách hàng có nguồn vốn, khách hàng có ngoại tệ để không bị
mất khách hàng. Sở cũng cần chủ động bám sát các khách hàng lớn để có chính sách ưu
đãi phù hợp nhằm giữ nguồn.
- Đối với tiền gửi thanh toán của doanh nghiệp, ngoài việc được hưởng lãi suất như
quy định, nếu doanh nghiệp nào có số dư tài khoản này lớn thì ngân hàng có thể khuyến
mại bằng cách giảm phí dịch vụ thanh toán hoặc tặng quà...
3.3.2 Hoàn thiện và đa dạng hoá các hình thức tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu
Các hình thức tài trợ xuất nhập khẩu của Sở trong thời gian qua còn chưa đa dạng ,
phong phú. Hiện nay, tại SGD I có các hình thức tài trợ chủ yếu sau: mở L/C, cho vay ký
quỹ L/C khi sửa đổi tăng giá trị L/C, cho vay thanh toán L/C, cho vay thu mua hàng xuất
khẩu ; trong đó, các hình thức tài trợ xuất khẩu rất hạn chế, chủ yếu là các hình thức tài
trợ nhập khẩu.Hình thức chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất tuy đã có quy chế thực hiện
nhưng hình thức tài trợ này tại Sở vẫn chưa được thực hiện tại Sở.
Trong thời gian tới, Sở có thể hoàn thiện và đa dạng hoá các hình thức tài trợ xuất
nhập khẩu theo hướng :
3.3.2.1 Tài trợ xuất khẩu
* Nhanh chóng triển khai nghiệp vụ chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất
Chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất là hình thức tín dụng tài trợ cho các doanh nghiệp
xuất khẩu. Tuy tại Sở hiện nay đã có quy chế thực hiện hình thức chiết khấu bộ chứng từ
hàng xuất nhưng hình thức tài trợ này vẫn còn chưa được thực hiện.
Để thu hút thêm nhiều khách hàng xuất khẩu đến với mình, Sở cần phải nhanh chóng
triển khai nghiệp vụ này và nếu cần Sở phải thuê các chuyên gia có nhiều kinh nghiệm
đào tạo thêm các cán bộ thanh toán và tín dụng liên quan đến nghiệp vụ này. Điều này sẽ
giúp cho các cán bộ tín dụng thêm những kinh nghiệp cần thiết để phòng tránh rủi ro khi
thực hiện nghiệp vụ này.
Khi các doanh nghiệp xuất khẩu muốn xin chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất, Sở có thể
chiết khấu theo một trong hai cách dưới đây:
- Chiết khấu có truy đòi
Chiết khấu có truy đòi được thực hiện khi bộ chứng từ thoả mãn các điều kiện sau:
Đối với phương thức thanh toán L/C:
+ Ngân hàng mở L/C là ngân hàng có uy tín.
+ Khách hàng mở tài khoản và có quan hệ thường xuyên với NHNo.
+ Thị trường truyền thống được phép xuất khẩu tại Việt Nam
+ Khách hàng cam kết hoàn trả số tiền ngân hàng đã chiết khấu khi nhận được thông báo
từ chối thanh toán bộ chứng từ của nước ngoài.
+ Số tiền chiết khấu tối đa là 95% giá trị L/C.
+ Thư yêu cầu thanh toán và đơn xin chiết khấu phải có chữ ký của chủ tài khoản và kế
toán trưởng.
+ Đối với bộ chứng từ của L/C trả chậm có thời hạn 30 ngày trở lên, ngân hàng chỉ thực
hiện chiết khấu khi đã nhận được chấp nhận thanh toán của ngân hàng phát hành/ ngân
hàng chấp nhận.
Đối với phương thức thanh toán nhờ thu:
+ Khách hàng có quan hệ giao dịch thường xuyên tại ngân hàng, có quan hệ thanh toán
tốt.
+ Thị trường truyền thống
+ Mặt hàng được phép xuất khẩu
+ Khách hàng cam kết hoàn trả số tiền ngân hàng đã chiết khấu khi nhận
được thông báo từ chối thanh toán bộ chứng từ của nước ngoài.
- Chiết khấu miễn truy đòi: Chỉ áp dụng với phương thức thanh toán L/C
Chiết khấu miễn truy đòi được thực hiện khi bộ chứng từ thoả mãn các điều kiện sau:
+ L/C là L/C đã được NHNo xác nhận.
+ Chứng từ hoàn toàn phù hợp các điều khoản và điều kiện của L/C.
+ Thư yêu cầu thanh toán đề nghị chiết khấu miễn truy đòi phải có chữ ký của chủ tài
khoản và kế toán trưởng.
* Tài trợ khép kín cho doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu qua các công đoạn từ
vay vốn chế biến, sản xuất đến công đoạn tài trợ để doanh nghiệp thực hiện tái sản xuất.
Quá trình tài trợ khép kín này được thực hiện như sau:
- Khi doanh nghiệp sản xuất hàng theo hợp đồng ngoại thương đã ký, ngân hàng có thể
cho doanh nghiệp vay bổ sung nhu cầu vốn lưu động để mua vật tư, nguyên liệu. Mức
cho vay cụ thể do giám đốc Sở quyết định nhưng tối đa bằng chi phí sản xuất hàng hoá
theo hợp đồng xuất khẩu đã ký trừ đi vốn tự có, vốn ứng trước của người mua và vốn huy
động từ nguồn khác của doanh nghiệp. Sở cũng có thể thu mua ngoại tệ có được từ xuất
khẩu của doanh nghiệp bằng cách đề nghị doanh nghiệp cam kết đảm bảo việc thanh toán
tiền hàng xuất khẩu được chuyển vào tài khoản mở tại Sở để Sở mua lại số ngoại tệ đó.
- Sau khi doanh nghiệp gửi hàng, doanh nghiệp có trong tay bộ chứng từ thanh toán,
nếu doanh nghiệp muốn vay vốn để tiếp tục sản xuất trước khi đến hạn thanh toán thì
ngân hàng sẽ tài trợ bằng cách thực hiện chiết khấu chứng từ cho doanh nghiệp.
* Chiết khấu hối phiếu:
Trên cơ sở những hối phiếu đã được ngân hàng nước ngoài chấp nhận nhưng chưa đến
hạn thanh toán, Sở có thể cấp tín dụng cho người xuất khẩu bằng cách chiết khấu hối
phiếu đó.
* Tín dụng ứng trước kết hợp với kinh doanh ngoại tệ
Dựa trên hợp đồng ngoại thương đã ký kết hoặc L/C đã thông báo, Sở cho doanh
nghiệp vay để thu mua chế biến hàng xuất khẩu theo hợp đồng. Đồng thời, Sở yêu cầu
khách hàng ký hợp đồng bán lại cho Sở số ngoại tệ của khách hàng khi họ được thanh
toán theo tỷ giá hai bên thoả thuận và Sở tiến hành thu nợ từ nguồn bán ngoại tệ đó.
* Bảo lãnh thực hiện hợp đồng
Sở nên đa dạng hoá các hình thức tài trợ xuất khẩu của mình bằng cách bảo lãnh thực
hiện hợp đồng cho người xuất khẩu khi họ có yêu cầu. Việc bảo lãnh thực hiện hợp đồng
giúp cho người nhập khẩu tin tưởng rằng người xuất khẩu sẽ thực hiện đúng hợp đồng và
hình thức tài trợ này sẽ tạo điều kiện cho người xuất khẩu ký được hợp đồng bán hàng.
Sở có cũng thể thực hiện hình thức bảo lãnh thực hiện hợp đồng kết hợp với hình thức
cho vay thu mua hàng xuất theo L/C. 3.3.2.2 Tài trợ nhập khẩu:
Tương tự như hình thức tài trợ xuất khẩu, Sở nên đa dạng hoá các hình thức tài trợ để
hấp dẫn khách hàng bằng cách đưa thêm một số hình thức tài trợ nhập khẩu như: tín dụng
chấp nhận hối phiếu, tín dụng ứng trước đối với người nhập khẩu, bảo lãnh thanh toán
cho người nhập khẩu...
Với những khách hàng truyền thống, có uy tín, có khả năng tài chính tốt, Sở nên tài trợ
cho họ bằng cách bảo lãnh thanh toán. Việc bảo lãnh thanh toán cho nhà nhập khẩu sẽ
giúp họ có thể mua được hàng và mang lại nguồn thu cùng với uy tín cho Sở.
3.3.3 Đa dạng hoá khách hàng và thực hiện chính sách khách hàng phù hợp
3.3.3.1 Đa dạng hoá khách hàng
Khách hàng vay vốn chủ yếu tại Sở hiện nay là : Tổng công ty xuất nhập khẩu thuỷ
sản Hà nội, Công ty vật tư nông sản, công ty kim khí hà Nội, Tổng công ty chăn nuôi,
Tổng công ty lương thực miền Bắc... nên Sở dễ bị sức ép từ phía khách hàng về lãi suất,
phí thanh toán. Mặt khác, việc tập trung dư nợ vào một số ít khách hàng sẽ không có lợi
cho phòng ngừa rủi ro tín dụng.
Vì vậy, Sở I cần sử dụng nhiều biện pháp cần thiết để đa dạng hoá khách hàng, thu hút
thêm nhiều khách hàng mới như : cử cán bộ tiếp cận trực tiếp với khách hàng, chủ động
triển khai các hoạt động tín dụng theo các dự án lớn của doanh nghiệp. Sở cũng cần đẩy
mạnh tiếp thị để thu hút thêm các khách hàng vay vốn, khách hàng dịch vụ theo hướng
tập trung vào các Tổng công ty 90 - 91 và các thành viên của Tổng công ty này.
3.3.3.2 Thực hiện chính sách khách hàng phù hợp:
* Đối với khách hàng:
- Do trên địa bàn Hà Nội hiện nay đang diễn ra cuộc cạnh tranh gay gắt trong giành
giật khách hàng bằng cách tăng lãi suất huy động, giảm lãi suất cho vay làm cho Sở gặp
khó khăn. Để có thể cạnh tranh trong tình hình như vậy, Sở cần phải phân loại khách
hàng thường xuyên thông qua phân tích tài chính doanh nghiệp, phân tích thực trạng tín
dụng để có chính sách ưu đãi, chính sách giá cả linh động, phù hợp tình hình cạnh tranh
tuỳ từng thời điểm và tuỳ từng khách hàng.
+ Với những khách hàng truyền thống, có uy tín, khách hàng lớn hoặc khách hàng
mang lại nguồn thu ngoại tệ cho Sở, Sở cần cho vay với lãi suất ưu đãi và phải tăng lãi
suất tiền gửi khi cần thiết để giữ bằng được những khách hàng đã có.
Với những khách hàng nhỏ hoặc khách hàng mới, khách hàng chưa có uy tín, nếu việc
giảm lãi suất cho vay hoặc tăng lãi suất tiền gửi làm cho Sở không có lãi hoặc khó khăn
khi thực hiện thì Sở có thể từ bỏ.
+ Đối với khách hàng gửi tiền: Sở cần phân loại các khách hàng lớn, có nguồn vốn rẻ
để có ưu đãi về phí dịch vụ trong thanh toán, bố trí cán bộ phục vụ tận tình, chu đáo và
nếu cần thiết có thể đến đơn vị của khách hàng để phục vụ.
Đối với khách hàng vay vốn: Sở cần phân loại khách hàng thường xuyên để có chính
sách ưu đãi về lãi suất, điều kiện vay, phương thức cấp tín dụng, phong cách phục vụ...,
đặc biệt là đối với khách hàng có nguồn ngoại tệ cho thanh toán.
Sở cũng cần chú trọng tập trung vào khách hàng lớn, khách hàng có nguồn vốn, khách
hàng kinh doanh có hiệu quả để có chính sách ưu đãi phù hợp.
- SGD I cần tổ chức hội nghị khách hàng hàng năm nhằm tuyên truyền, củng cố mối
quan hệ giữa ngân hàng với khách hàng và biết được những nhu cầu của khách hàng để
đáp ứng kịp thời.
* Đối với cán bộ ngân hàng
Sở cần xem xét để có chính sách khen thưởng xứng đáng đối với những cán bộ đã tiếp
thị, lôi kéo, có sáng kiến mới để lưu giữ, thu hút khách hàng mà đặc biệt là khách hàng
lớn cho Sở.
3.3.4 Phòng ngừa rủi ro tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu
Trong hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu thì rủi ro tín dụng là yếu tố tiềm ẩn
mà các ngân hàng khó có thể triệt tiêu. Các ngân hàng chỉ có thể giảm thiểu rủi ro này
đến mức thấp nhất thông qua việc tuân thủ nghiêm túc các khâu trong quy trình nghiệp
vụ tín dụng, thực hiện phân tán và san sẻ rủi ro. Trong quy trình nghiệp vụ tín dụng, ngân
hàng nên chú trọng vào 2 khâu: khâu thẩm định tín dụng và khâu kiểm tra, kiểm soát sau
khi cấp tín dụng.
3.3.3.1 Nâng cao chất lượng công tác thẩm định tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu
Thẩm định tín dụng là một trong những khâu then chốt trong quy trình tín dụng góp
phần nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tài trợ xuất nhập khẩu tại Sở. Để thẩm
định một dự án đầy đủ, chính xác thì cán bộ tín dụng của Sở phải phân tích đầy đủ các
khía cạnh sau: tư cách khách hàng, năng lực khách hàng, nguồn hoàn trả nợ vay, đảm bảo
tín dụng, môi trường hoạt động kinh doanh của khách hàng, sự kiểm soát của ngân hàng .
- Tư cách khách hàng: cán bộ tín dụng phải xác định rõ mục đích thực sự của khách
hàng khi yêu cầu ngân hàng tài trợ và thái độ nghiêm túc của khách hàng khi hoàn trả nợ
vay. Cán bộ tín dụng còn phải xem xét hồ sơ về quá trình thanh toán của khách hàng với
ngân hàng và vơí ngân hàng khách để đánh giá uy tín của khách hàng.
- Năng lực khách hàng: cán bộ tín dụng cần đảm bảo rằng khách hàng có đủ thẩm
quyền yêu cầu ngân hàng tài trợ và có đủ năng lực pháp lý khi ký hợp đồng tín dụng với
ngân hàng.
- Nguồn hoàn trả nợ vay: dựa trên số liệu của báo cáo tài chính, báo cáo của cơ quan
kiểm toán, báo cáo chi phí hoạt động kinh doanh, hệ số an toàn kinh doanh, năng lực
quản trị của doanh nghiệp, khả năng thanh khoản, nguồn vật tư nguyên liệu tồn kho...để
đánh giá nguồn hoàn trả nợ vay cho ngân hàng.
- Đảm bảo tín dụng: cán bộ tín dụng cần quan tâm đặc biệt đến đặc điểm về chất
lượng, giá trị và khả năng phát mãi tài sản đảm bảo. Đây là những đặc điểm quan trọng,
nó ảnh hưởng đến nguồn thu nợ của ngân hàng khi khách hàng không có khả năng trả nợ.
- Môi trường kinh doanh của khách hàng: đây là một yếu tố quan trọng đối với hoạt
động kinh doanh của khách hàng và khả năng thu hồi vốn của ngân hàng. Môi trường
kinh doanh của khách hàng bao gồm: vị thế và thị phần của khách hàng trên thị trường,
tình hình cạnh tranh, triển vọng phát triển của ngành, môi trường pháp lý chính trị, tình
hình kinh tế của quốc gia và quốc tế...
- Sự kiểm soát của ngân hàng: bao gồm luật, quy chế ngân hàng về hoạt động tín dụng
và chất lượng tín dụng; sự phù hợp giữa nhu cầu tín dụng và chính sách tài trợ của ngân
hàng.
Thẩm định được đầy đủ sáu khía cạnh trên sẽ giúp cán bộ tín dụng của Sở hiểu rõ về
dự án và đây là cơ sở để khoản tín dụng đạt chất lượng tốt.
3.3.3.2 Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát sau khi cấp tín dụng
Công tác kiểm tra, kiểm soát sau khi cấp tín dụng cũng là một khâu then chốt trong
quy trình tín dụng của ngân hàng; đảm bảo việc sử dụng vốn vay của khách hàng đúng
mục đích , phát hiện kịp thời các sai phạm để có biện pháp xử lý, tránh mất vốn của ngân
hàng.
Sở có thể kiểm tra việc sử dụng vốn của khách hàng thông qua chứng từ, sổ sách, hoá
đơn hoặc bản kê chi phí sử dụng tiền vay, thông qua tồn kho vật tư hàng hoá thực tế...
Cán bộ tín dụng của Sở nên thường xuyên kiểm tra việc sử dụng vốn vay của khách hàng
mà không báo trước để có thể phát hiện các sai phạm khi khách hàng chưa kịp chuẩn bị.
Với những khoản tín dụng có tài sản thế chấp, cán bộ tín dụng của Sở cần bám sát việc
sử dụng, bảo vệ tài sản, sự biến động về giá trị của tài sản trên thị trường và các quy định
mới về tài sản thế chấp ... để có biện pháp xử lý kịp thời, đảm bảo nguồn thu nợ vay cho
Sở.
3.3.3.3 Phân tán rủi ro
Hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại SGD I hiện nay chỉ tập trung vào một số
khách hàng lớn như : tổng công ty xuất nhập khẩu thuỷ sản Hà Nội, tổng công ty kim khí
Hà Nội... nên khi những công ty này gặp khó khăn hoặc rủi ro thì sẽ ảnh hưởng rất lớn
đến hoạt động kinh doanh của Sở . Vì vậy, phân tán rủi ro là một biện pháp mà Sở I cần
thực hiện ngay.
- Sở không nên dồn vốn vào một vài khách hàng lớn mà cần tiếp cận thêm nhiều khách
hàng lớn, có uy tín để có thể phân bổ nguồn vốn vào nhiều đối tượng khách hàng khác
nhau. Sở cũng nên cho vay đối nhiều loại hàng hoá khác nhau với các thời hạn khác
nhau.
- Ngoài ra, đối với dự án lớn, có hiệu quả cao, thay vì từ chối vì không đủ vốn thì Sở
nên chủ động tìm kiếm các ngân hàng lớn có kinh nghiệm để có thể đồng tài trợ cho dự
án đó. Với những dự án mà Sở có khả năng tài trợ nhưng mức độ rủi ro hơi cao, Sở cũng
cần liên kết với ngân hàng khác để san sẻ thiệt hại khi rủi ro xảy ra.
3.3.5 Tăng cường tiếp cận nguồn thông tin tài trợ ngoại thương
Nguồn thông tin phục vụ cho hoạt động tín dụng của ngân hàng và độ tin cậy của
nguồn thông tín ấy là một yếu tố quyết định hoạt động tín dụng của ngân hàng. Ngân
hàng nào có nguồn thông tin nhanh hơn, nhiều hơn và chính xác hơn, ngân hàng đó có
thể giảm thiểu rủi ro và đứng vững trong cạnh tranh. Chính vì nguồn thông tin quan
trọng như vậy nên Sở I cần chủ động hơn nữa trong việc tiếp cận nguồn thông tin sẵn có
sau:
- Nguồn thông tin nhằm giảm thiểu rủi ro quốc gia
Nguồn thông tin này gồm có các báo cáo, ấn phẩm về tình hình chính trị, kinh tế của
các nước trên thế giới do các tổ chức xúc tiến mậu dịch quốc tế, tổ chức hỗ trợ phát triển
ngoại thương , tổ chức tài chính quốc tế và cơ quan quốc tế có uy tín phát hành. Các tổ
chức này gồm có IMF, WB, các tổ chức của Liên hiệp quốc và tổ chức chuyên nghiệp
như Moody's, Standard & Poor's...
- Nguồn thông tin nhằm giảm thiểu rủi ro tỷ giá
Nguồn thông tin này gồm các ấn phẩm, các báo cáo đánh giá và dự đoán tình hình,
diễn biến tỷ giá, chính sách ngoại hối của các quốc gia trên thế giới do những tổ chức
chuyên nghiệp phát hành. Những ấn phẩm này gồm có: Financial Times, Euromoney,
Wall Street Journal...
- Nguồn thông tin nhằm giảm thiểu rủi ro khách hàng
Nguồn thông tin này gồm hồ sơ tín dụng của khách hàng, báo cáo quan hệ tín dụng và
uy tín khách hàng do các ngân hàng đối tác hay ngân hàng đại lý cung cấp, báo cáo của
ngành, cơ quan liên quan...
3.3.6 Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng cáo về hoạt động tín dụng tài trợ xuất
nhập khẩu tại Sở.
Ngày nay, khi cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng ngày càng trở nên gay gắt thì việc
đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng cáo về hoạt động ngân hàng là tất yếu và Sở I
cũng không nằm ngoài quy luật đó.
Hiện nay, hoạt động tuyên truyền, quảng cáo tại Sở I tuy đã được quan tâm hơn trước
nhưng kết quả chưa cao do công tác này chưa được thực hiện đều khắp cơ sở. Trong định
hướng thực hiện kế hoạch năm 2002, Sở I có đề ra giải pháp thực hiện marketing nhưng
các giải pháp cho hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu còn chưa thật cụ thể.
Để không ngừng nâng cao khả năng cạnh tranh, tăng uy tín, tăng khả năng sinh lời
trong hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu nói riêng thì
SGD I cần đẩy mạnh hoạt động marketing thông qua chính sách giao tiếp, khuéch trương.
Để tác động có hiệu quả hơn đối với công chúng và đảm bảo giao tiếp có hiệu quả, Sở
cần phải lựa chọn chính sách giao tiếp khuyếch trương phù hợp.
Do hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu tại Sở mới đi vào hoạt động nên nhiều khách hàng
chưa biết hoặc chưa tin tưởng vào hoạt động này tại ngân hàng khi so sánh với các ngân
hàng có kinh nghiệp lâu năm như VIETCOMBANK, ngân hàng nước ngoài...Vì vậy Sở
cần đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền tiếp thị để thu hút thêm nhiều khách hàng
bằng cách:
- Tăng cường quảng cáo trên báo chuyên ngành và đặc biệt là báo được nhiều tầng lớp
dân chúng đọc như báo Hà Nội Mới, báo Lao động...Bên cạnh đó, Sở cũng nên quảng cáo
về hoạt động của ngân hàng mình thông qua các phóng sự trên vô tuyến truyền hình,
thông qua các bài báo. Cách làm này sẽ giúp cho nhiều người biết về những dịch vụ mới
tại Sở và lợi ích của họ khi trở thành khách hàng của Sở.
- Cử cán bộ có tài ăn nói, năng động, nhiệt tình, có trình độ nghiệp vụ đến các doanh
nghiệp nhất là các doanh nghiệp lớn và làm ăn có hiệu quả để giới thiệu về Sở và NHNo,
thuyết phục họ trở thành khách hàng của Sở.
- Lựa chọn cán bộ có khả năng giao tiếp tốt, nhanh nhẹn, nhiệt tình thực hiện nghiệp
vụ mà phải tiếp xúc với khách hàng. Chính phong cách giao tiếp của các nhân viên ngân
hàng sẽ mang lại uy tín cho Sở và giúp Sở thu hút thêm nhiều khách hàng mới mà không
cần quảng cáo.
- SGD I cần tổ chức hội nghị khách hàng hàng năm nhằm tuyên truyền, củng cố mối
quan hệ giữa ngân hàng với khách hàng và biết được những nhu cầu của khách hàng để
đáp ứng kịp thời.
- Sở cũng cần sửa sang địa điểm giao dịch cho khang trang hơn để tạo ấn tượng tốt cho
khách hàng về Sở ngay từ cái nhìn đầu tiên.
3.3.7 Nâng cao chất lượng cán bộ
Trình độ cán bộ và phong cách giao tiếp của họ đối với khách hàng rất quan trọng. Tuy
nhiên, tại Sở hiện nay, một trong những khó khăn là năng lực cán bộ tín dụng chưa đồng
đều và một số cán bộ là mới và chưa có kinh nghiệm.Thêm vào đó, vụ từ chối thanh toán
L/C số: LN/SGDI-00/071 đã gây ảnh hưởng đến uy tín của Sở. Vì vậy, trong thời gian
tới, để lấy lại uy tín với ngân hàng cấp trên và khách hàng trong lĩnh vực quan hệ quốc tế,
Sở cần chú trọng nhiều đến công tác sắp xếp, đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ tín
dụng và thanh toán quốc tế, củng cố thêm nhân sự cho tổ thanh toán quốc tế, có chính
sách đãi ngộ với cán bộ có năng lực và có thành tích trong việc thu hút khách hàng cho
Sở theo hướng:
- Sở phải hướng dẫn cụ thể việc cử những cán bộ có kinh nghiệm kèm cặp cán bộ trẻ
mới vào nghề, mở thêm những lớp nâng cao kiến thức về kinh tế thị trường, tài trợ dự án,
phân tích tài chính doanh nghiệp, marketing, thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại hối
cho cán bộ.
- Sở cũng cần đào tạo ngoại ngữ, tin học theo mức độ phổ cập và chuyên sâu tuỳ theo
yêu cầu của từng cán bộ. Ngoại ngữ đóng vai trò quan trọng trong công tác của các cán
bộ tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu bởi phần lớn hồ sơ, chứng từ là bằng tiếng Anh. Vì
vậy, Sở I cần chú trọng đào tạo ngoại ngữ chuyên ngành cho các cán bộ làm công tác tài
trợ xuất nhập khẩu và thanh toán quốc tế.
- Sở nên tổ chức nhiều đợt tập huấn nghiệp vụ để tất cả các cán bộ có nhu cầu vừa có
điều kiện học thêm vừa có thể đi làm. Bên cạnh đó, Sở nên nâng cao trình độ cán bộ hiện
có bằng cách gửi đi học khoá đào tạo trong nước và nước ngoài ngắn ngày, liên hệ với
các ngân hàng nước ngoài tại Hà Nội để cử cán bộ làm nghiệp vụ thanh toán quốc tế và
nghiệp vụ tín dụng tại Sở I đến học tập kinh nghiệm.
- Sở cũng cần xem xét để hợp đồng, tuyển thêm cán bộ đã qua đào tạo tín dụng, ngoại
thương và có nhiều kinh nghiệm về nghiệp vụ thanh toán quốc tế, tài trợ xuất nhập khẩu.
- Sở cần nhanh chóng đề ra chính sách đãi ngộ hoặc khen thưởng với những cán bộ có
năng lực, nhiệt tình, có thành tích trong hoạt động kinh doanh của Sở. Sở cũng cần đề ra
biện pháp xử phạt với những cán bộ có trách nhiệm.
- Sở cần tổ chức khoán một số khoản chi phí, khoán tiền lương theo công việc với từng
đơn vị và từng cán bộ công nhân viên, thực hiện việc trả lương theo số lượng, chất lượng,
hiệu quả công việc. Đây chính là động lực để gắn kết cán bộ, nhân viên của SGD I và kết
quả kinh doanh của Sở trong môi trường cạnh tranh ngày càng quyết liệt như hiện nay.
3.4 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TÀI
TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU
Thực tiễn hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu cho thấy có nhiều hình thức tài trợ
mà ngoài các tổ chức tài trợ do chính phủ thành lập, các NHTM có vai trò đặc biệt quan
trọng trong việc thực hiện các hình thức tài trợ ngoại thương khác như chiết khấu bộ
chứng từ hàng xuất, chiết khấu hối phiếu, bao thanh toán...Vì vậy, các ngân hàng cấp
trên, NHNN và Chính phủ cần tạo điều kiện để các NHTM thực hiện tốt nghiệp vụ tài trợ
xuất nhập khẩu của mình.
3.4.1 Kiến nghị đối với NHNo&PTNTVN
Trong thời gian qua, hoạt động quan hệ đối ngoại nói chung và hoạt động tín dụng tài
trợ xuất nhập khẩu nói riêng của NHNo&PTNTVN đã có nhiều đổi mới. Tuy nhiên, có
một số vấn đề cần NHNo&PTNTVN giải quyết nhằm phát triển mạnh mẽ hơn hoạt động
tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu:
- Đề nghị NHNo&PTNTVN triển khai việc hướng dẫn cụ thể các văn bản, chính sách,
chế độ của Chính phủ, của các ngành có liên quan đến xuất nhập khẩu, quản lý ngoại hối
và tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu và các quy định của chính NHNo&PTNTVN tới Sở và
các chi nhánh một cách kịp thời.
- NHNo&PTNTVN cần sửa đổi, bổ sung một số điểm trong Quy trình nghiệp vụ cụ thể
mới về thanh toán quốc tế (trong đó có tài trợ xuất nhập khẩu) của NHNo&PTNTVN là
văn bản 447 có hiệu lực thi hành từ 1/7/2001. Cụ thể là:
Văn bản 447 quy định: thư yêu cầu mở L/C phải có chữ ký của chủ tài khoản và kế
toán trưởng, nhưng với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên thì chỉ có 1 chữ ký
của chủ tài khoản. Vì vậy trên đơn xin mở L/C chỉ nên quy định phải có chữ ký của chủ
tài khoản và kế toán (nếu có)
Số tiền chiết khấu bộ chứng từ nên để cho Sở tự quyết định và chịu trách nhiệm, có
thể số tiền chiết khấu là 98% sau khi đã trừ đi các khoản phí và một tỷ lệ rủi ro nhất
định. Như vậy mới có thể khuyến khích khách hàng xuất chiết khấu bộ chứng từ tại
NHNo&PTNTVN.
- Về vấn đề ngoại tệ:
Văn bản 901 của Tổng giám đốc NHNo&PTNT quy định về cho vay ưu đãi hàng
xuất khẩu, thu gom hàng ngoại tệ nhưng không quy định rõ thời gian cho vay được
hưởng với lãi suất ưu đãi (0,45%/ tháng) trên số tiền USD mà đơn vị bán lại cho NHNo,,
do đó chưa khuyến khích các đơn vị có điều kiện khai thác ngoại tệ. Đề nghị Tổng giám
đốc NHNo&PTNT quy định thời gian cụ thể được hưởng lãi suất ưu đãi 0,45%/tháng và
quy định khuyến khích lãi suất theo từng mức khác nhau dựa trên số lượng ngoại tệ bán
lại cho Trung tâm hối đoái qua Sở giao dịch theo văn bản 901 đối với các đơn vị thừa
vốn để khuyến khích nguồn ngoại tệ .
Do khách hàng của Sở I có nhu cầu ngoại tệ lớn, chủ yếu là USD nên đề nghị SGD
NHNo&PTNT hỗ trợ nguồn ngoại tệ để Sở I có thể chủ động trong thanh toán.
Việc mua bán ngoại tệ từ các ngân hàng bạn trên cùng địa bàn còn vướng mắc trong
hạch toán do lệnh chuyển tiền từ ngân hàng bạn vào tài khoản của NHNo&PTNTVN tại
Vietcombank hay các ngân hàng nước ngoài còn chậm, việc hoạch toán phải 2-3 ngày
mới có sổ phụ. Việc thanh toán hiện nay thường qua bù trừ tại NHNN thường mất ít nhất
là 2 ngày. Vì vậy, đề nghị Trung tâm hối đoái cho phép Sở I được mở tài khoản ngoại tệ
tại Vietcombank để thuận tiện trong triển khai hoạt động mua bán ngoại tệ và tiết kiệm
thời gian giao dịch .
- Đề nghị Tổng giám đốc chỉ đạo công tác đào tạo quan tâm hơn nữa tới hoạt động
đào tạo nghiệp vụ thanh toán quốc tế và tài trợ xuất nhập khẩu bởi đây là nghiệp vụ đặc
biệt cần thiết cho hoạt động kinh doanh ngân hàng trong điều kiện kinh tế thị trường với
quan hệ đa phương, nhất là khi Hiệp định thương mại Việt - Mỹ có hiệu lực.
- Đề nghị NHNo&PTNT cho phép Sở I thành lập 5 phòng:
. Phòng chăm sóc khách hàng
. Phòng thanh toán quốc tế
. Phòng kế hoạch
. Phòng vi tính
Việc thành lập các phòng trên sẽ tạo điều kiện cho Sở triển khai chuyên môn, nghiệp
vụ tốt hơn. Trong đó, việc thành lập phòng " Chăm sóc khách hàng " sẽ có tác động mạnh
đến tâm lý khách hàng, giúp Sở thu hút thêm nhiều khách hàng mới và tạo điều kiện để
Sở thực hiện tốt hơn chính sách khách hàng và đẩy mạnh hoạt động giao tiếp, khuyếch
trương.
- Làm việc ngoài giờ là thực tế đòi hỏi của công việc, đặc biệt là vào thời điểm cuối
năm hoặc khi ngân hàng muốn thu hút thêm khách hàng. Do vậy, đề nghị
NHNo&PTNTVN có cơ chế tài chính xử lý vấn đề này để tháo gỡ cho Sở I nói riêng và
cho các thành viên của NHNo&PTNTVN nói chung.
3.4.2 Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước.
NHNN cần có thông tư, quyết định hướng dẫn cụ thể hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu
của các NHTM trong những thời kỳ cụ thể hoặc khi có những sự kiện kinh tế lớn diễn ra
trong nước và trên thế giới.
NHNN cần hoàn thiện quy chế cầm cố, thế chấp và đảm bảo tiền vay. Việc quy định
các DNNN không cần đảm bảo tiền vay gây không ít khó khăn cho hoạt động tín dụng
của các ngân hàng.
Thị trường liên ngân hàng là thị trường nhằm giải quyết mối quan hệ trao đổi, cung
cầu vốn giữa các NHTM. Việc thị trường liên ngân hàng phát triển giúp cung cấp nguồn
vốn kịp thời và đầy đủ cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng, giúp cho các ngân hàng
chớp được thời cơ kinh doanh của mình và đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Vì
vậy việc NHNN có biện pháp kích thích sự phát triển của thị trường liên ngân hàng là vô
cùng cần thiết.
3.4.3 Kiến nghị đối với Chính phủ
3.4.3 Hoàn thiện môi trường pháp lý
Hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu nói riêng
chỉ an toàn và hiệu quả khi nó có một môi trường pháp lý ổn định, đồng bộ và nhất quán.
Đó là bởi vì hoạt động ngân hàng có liên quan đến tất cả các ngành, các thành phần kinh
tế nên luật pháp và quy định của các ngành, các thành phần này ảnh hưởng lớn đến hoạt
động ngân hàng. Thêm vào đó, hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tiềm ẩn rất
nhiều rủi ro do hoạt động này chịu rủi ro của cả 2 hoạt động: hoạt động tín dụng và hoạt
động thanh toán quốc tế. Vì vậy, để đảm bảo tính an toàn và hiệu quả cho hoạt động ngân
hàng nói chung và hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu nói riêng, Chính phủ nên
thực hiện các biện pháp sau nhằm hoàn thiện môi trường pháp lý, tạo điều kiện cho sự
phát triển hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng và hoạt động xuất nhập khẩu
của các doanh nghiệp :
Có chủ trương, chính sách, cơ chế quản lý nhằm đảm bảo môi trường pháp lý để các
đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu yên tâm hoạt động và tạo môi trường kinh doanh bình
đẳng cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu mà không phân biệt thành phần
kinh tế.
Sớm ban hành chiến lược xuất khẩu quốc gia, trong đó chiến lược thương mại hướng
về xuất khẩu là căn cứ để các doanh nghiệp và các NHTM có chiến lược kinh doanh của
mình.
Khẩn trương xây dựng Đề án thành lập ngân hàng xuất nhập khẩu. Chính phủ cũng
cần thành lập các trung tâm hỗ trợ xúc tiến thương mại cho doanh nghiệp để cung cấp
cho các doanh nghiệp thông tin về thị trường, về uy tín của các đối tác thương mại, về
pháp luật và thủ tục hành chính của nước bạn hàng...
Xây dựng hệ thống bảo hiểm xuất nhập khẩu và bảo hiểm tín dụng xuất nhập khẩu.
3.4.3 Chính sách hỗ trợ tài chính
Chính phủ nên có chính sách hỗ trợ tài chính như :
Có chính sách tín dụng ưu đãi đối với doanh nghiệp sản xuất mặt hàng mới để phục
vụ xuất khẩu để ngân hàng làm căn cứ xây dựng chính sách tín dụng tài trợ xuất nhập
khẩu của mình.
Giảm thuế xuất khẩu và nhập khẩu nhằm giúp doanh nghiệp nâng cao lợi nhuận để tái
đầu tư phục vụ xuất khẩu.
Hỗ trợ việc hình thành quỹ bảo hiểm tín dụng xuất nhập khẩu.
Xác định những ngành hàng có thế mạnh để hỗ trợ thêm đồng thời chuyển đổi cơ cấu
hàng xuất khẩu theo hướng tăng tỷ trọng sản phẩm hàng hoá đã qua chế biến.
Có chính sách lãi suất hỗ trợ vay vốn ngân hàng hợp lý để vừa điều tiết nền kinh tế,
tạo điều kiện để các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu vừa tạo điều
kiện cho các NHTM xử lý linh hoạt lãi suất để tài trợ xuất nhập khẩu. Thực hiện tốt chính
sách này sẽ tránh tình trạng lãi suất ưu đãi đầu ra nhỏ hơn lãi suất đầu vào của các
NHTM, gây bất lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu và hoạt động ngân hàng.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Trên cơ sở định hướng phát triển hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam và định
hướng hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNTVN, của SGD I trong thời gian tới, trên
cơ sở những kết quả và tồn tại của hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại SGD I -
NHNo&PTNTVN, chương 3 đã đưa ra các giải pháp phù hợp nhằm phát triển hoạt động
tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại SGD I.
Các giải pháp nhằm phát triển hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại SGD I là:
. Giải pháp thu hút nguồn vốn
. Hoàn thiện và đa dạng hoá các hình thức tín dụng tài trợ XNK tại SGD I
. Đa dạng hoá khách hàng và thực hiện chính sách khách hàng phù hợp
. Phòng ngừa rủi ro tín dụng tài trợ XNK
. Tăng cường tiếp cận nguồn thông tin tài trợ ngoại thương
. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng cáo hoạt động tài trợ ngoại thương tại Sở.
. Nâng cao chất lượng cán bộ
Bên cạnh việc đưa ra các giải pháp nhằm phát triển hoạt động tín dụng tài trợ xuất
nhập khẩu tại SGD I, chương 3 còn đưa ra một số kiến nghị đối với NHNo&PTNTVN,
NHNN và Chính phủ.
KẾT LUẬN
Trong những năm qua, ngành Ngân hàng Việt Nam đang từng bước khẳng định vai trò
quan trọng của mình trong chiến lược phát triển kinh tế do Đảng và Nhà nước đề ra.
Cùng với các hoạt động kinh doanh khác, hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của
NHNo&PTNTVN nói chung và của SGD I nói riêng đã đạt được không ít thành tựu. Từ
những bước đầu khó khăn khi mới thực hiện nghiệp vụ tài trợ ngoại thương do thiếu kinh
nghiệm, thiếu vốn, chưa có uy tín..., đến nay sau gần 5 năm hoạt động, hoạt động này tại
SGD I không những phát triển mạnh mà còn và tạo điều kiện cho các hoạt động kinh
doanh khác của Sở cùng phát triển.Tuy hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu tại SGD I đã đạt
được những kết quả đáng khích lệ: doanh số tài trợ ngày càng tăng, tỷ lệ nợ quá hạn
thấp..., hoạt động này tại SGD I cũng gặp phải những khó khăn cần được sự quan tâm
giúp đỡ của NHNo&PTNTVN và NHNN.
Trong thời gian thực tập tại SGDI , được sự giúp đỡ nhiệt tình của ban lãnh đạo cùng
toàn thể các cô chú, các anh chị phòng Kế hoạch và kinh doanh SGD I, với sự cố gắng
của bản thân kết hợp những lý luận đã học với tình hình thực tế của Sở giao dịch I, em đã
mạnh dạn nêu ra một số ý kiến có tính chất tham khảo để SGDI NHNo & PTNTVN
nghiên cứu, xem xét góp phần phát triển hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại Sở.
Cùng với quá trình hoạt động và phát triển của nền kinh tế và của SGD I, nhiều nhu cầu
và khó khăn mới sẽ nảy sinh đòi hỏi những biện pháp giải quyết phù hợp. Hy vọng rằng
trong thời gian tới SGDI NHNo & PTNTVN sẽ không ngừng phát triển nghiệp vụ tài trợ
xuất nhập khẩu, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh tốt và là tiền
đề để hoàn thành chiến lược phát triển kinh tế do Đảng và Nhà nước đề ra.