LUẬN VĂN:

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN

DỤNG TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU

TẠI SỞ GIAO DỊCH I - NGÂN HÀNG

NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN

NÔNG THÔN VIỆT NAM

LỜI NÓI ĐẦU

Sau 15 năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, nước ta

đã đạt được những thành tựu to lớn và toàn diện với mức tăng trưởng kinh tế khá ổn định.

Trong quá trình đổi mới đó, hoạt động ngoại thương có vai trò vô cùng quan trọng đối

với từng thành phần của nền kinh tế. Hoạt động ngoại thương giúp mở rộng thị trường

tiêu thụ hàng hoá, thúc đẩy sản xuất trong nước, tạo nguồn thu ngoại tệ cho Ngân sách

Nhà nước, giúp các doanh nghiệp đổi mới trang thiết bị công nghệ... Chính vì vai trò

quan trọng của hoạt động ngoại thương nên việc thúc đẩy hoạt động này là rất cần thiết.

Và chính sự ra đời của nghiệp vụ tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng là giải

pháp để thúc đẩy sự phát triển hoạt động ngoại thương.

Hoạt động ngoại thương ngày càng phát triển làm cho nhu cầu thanh toán quốc tế,

mua bán ngoại tệ và đặc biệt là nhu cầu tài trợ ngoại thương của các doanh nghiệp kinh

doanh xuất nhập khẩu ngày càng nhiều. Trước sự đòi hỏi đó, ngành ngân hàng phải

nhanh chóng đổi mới, không ngừng hoàn thiện về tổ chức và cơ chế nghiệp vụ kinh

doanh đối ngoại.

Là một đơn vị trực thuộc Trung tâm điều hành NHNo&PTNTVN, được thành lập

theo quyết định số 15/TCCB ngày 25/11/1990 của Tổng giám đốc NHNo&PTNTVN, Sở

giao dịch I - NHNo&PTNTVN bắt đầu đi vào hoạt động từ tháng 4/1991 và tiến hành

hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu từ năm 1998. Tuy còn nhiều khó khăn, bỡ ngỡ trong quá

trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu nhưng đến nay, hoạt động này

tại Sở đã đạt được không ít thành tựu và góp phần không nhỏ vào việc phát triển hoạt

động đối ngoại của NHNo&PTNTVN.

Trong quá trình thực tập và học hỏi tại SGDI-NHNo&PTNTVN, em nhận thấy hoạt

động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại SGD I đang đóng một vai trò quan trọng trong

việc đảm bảo nguồn vốn và cung cấp các dịch vụ cần thiết liên quan trong lĩnh vực xuất

nhập khẩu, đặc biệt là khi các khách hàng của Sở đang thiếu vốn và kinh nghiệm như

hiện nay. Các khách hàng của Sở là những doanh nghiệp đang xuất khẩu sản phẩm mũi

nhọn thuộc các ngành nông, lâm, thuỷ, hải sản và là các doanh nghiệp nhập khẩu máy

móc thiết bị để hiện đại hoá dây chuyền sản xuất và mở rộng quy mô kinh doanh. Nhu

cầu về tài trợ xuất nhập khẩu của những khách hàng trên không ngừng tăng và SGD I

cũng cố gắng để đáp ứng đầy đủ và kịp thời những nhu cầu ấy. Tuy nhiên, để không

ngừng phát triển nghiệp vụ này tại SGDI - NHNo&PTNTVN thì việc đi sâu tìm hiểu và

hệ thống hoá những vấn đề cơ bản về tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, phân tích tình hình

thực hiện hoạt động này tại SGDI, trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp là vấn đề rất hấp

dẫn và cần thiết.

Với suy nghĩ đó, em đã mạnh dạn chọn đề tài:

"Một số giải pháp nhằm phát triển hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại

Sở giao dịch I - Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam".

Mục đích nghiên cứu của đề tài:

Nghiên cứu giải pháp nhằm phát triển hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại

SGD I - NHNo&PTNTVN. Để thực hiện được mục đích này khoá luận đã đi sâu nghiên

cứu tổng luận về tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của NHTM, từ đó soi rọi vào thực tiễn

hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại SGDI - NHNo&PTNTVN. Trên cơ sở những

tồn tại, khoá luận đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển hoạt động tín

dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại SGD I - NHNo&PTNTVN.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

Khoá luận tập trung nghiên cứu, phân tích hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu

tại SGDI - từ năm 1999 tới nay và đề xuất biện pháp mở rộng hoạt động này trong 5 - 10

năm tới.

Phương pháp nghiên cứu:

Trên cơ sở lý luận về tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, khoá luận soi rọi vào thực tiễn

hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại SGDI - NHNo&PTNTVN bằng phương

pháp phân tích, so sánh, tổng hợp.

Ngoài lời mở đầu và kết luận, bản khoá luận được kết cấu thành 3 chương:

CHƯƠNG 1 : LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍN DỤNG TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU

CỦA NHTM

CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TÀI TRỢ XUẤT NHẬP

KHẨU TẠI SỞ GIAO DỊCH I - NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN

NÔNG THÔN VIỆT NAM.

CHƯƠNG 3 : MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG

TÀI TRỢ XNK TẠI SGD I - NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN

NÔNG THÔN VIỆT NAM

CHƯƠNG 1:

LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍN DỤNG TÀI TRỢ

XUẤT NHẬP KHẨU CỦA NHTM

1.1 TÍN DỤNG TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU & VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG

NÀY.

1.1.1 Khái niệm tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu

Ngày nay, với xu hướng toàn cầu hoá, nền kinh tế của từng quốc gia luôn chịu ảnh

hưởng và tác động của nền kinh tế thế giới. Trong bối cảnh đó, một quốc gia không thể

tồn tại độc lập với quốc gia khác về mặt kinh tế, không thể không hội nhập với kinh tế thế

giới nếu quốc gia đó không muốn bị cô lập. Thông qua hoạt động kinh tế quốc tế, tiềm

năng và thế mạnh của nền kinh tế được phát huy đồng thời tận dụng được vốn và công

nghệ tiên tiến của các nước phát triển.

Thị trường thương mại thế giới ngày càng mở rộng dẫn đến nhu cầu xuất nhập khẩu

của các quốc gia cũng tăng lên nhằm khai thác tốt hơn lợi thế so sánh của đất nước mình.

Tuy nhiên, do khả năng tài chính có hạn nên không phải lúc nào các doanh nghiệp xuất

nhập khẩu cũng có đủ vốn để thu mua, chế biến hàng xuất khẩu hay thanh toán tiền hàng

nhập khẩu. Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp dù có đủ khả năng tài chính nhưng vẫn

không thể xuất nhập khẩu hàng hoá do họ còn chưa có danh tiếng và uy tín trên thị

thường quốc tế. Đây chính là nguyên nhân làm nảy sinh quan hệ tín dụng và bảo lãnh của

các ngân hàng thương mại với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. Nhờ các

loại hình tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng mà nhu cầu về tài chính hoặc uy tín của

thương nhân trong giao dịch thương mại quốc tế được đáp ứng, mà những nhu cầu này

chính là một nét đặc trưng của giao dịch quốc tế hiện đại. Vì vậy, có thể nói sự ra đờì của

tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu là một yêu cầu tất yếu khách quan, nó gắn liền với các

quan hệ mua bán ngoại thương giữa các nước với nhau.

Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại các ngân hàng thương mại dựa vào 4 nguyên tắc

cơ bản sau:

1. Việc cho vay phải trên cơ sở thẩm định rõ khách hàng.

Nguyên tắc này là nguyên tắc quan trọng trong công tác tín dụng của ngân hàng. Thực

hiện tốt nguyên tắc này sẽ giúp ngân hàng giảm thiểu những rủi ro có thể gặp phải, nâng

cao hiệu quả kinh doanh, nâng cao uy tín và vị thế của ngân hàng trên thị trường.

2. Tiền vay phải được hoàn trả đúng hạn cả vốn và lãi.

Trong hợp đồng tín dụng, ngân hàng và khách hàng thoả thuận với nhau số tiền vay,

lãi suất cho vay và thời hạn của hợp đồng. Để tạo điều kiện cho khách hàng hoàn trả nợ

đúng hạn, ngân hàng nên định kỳ hạn nợ phù hợp với chu kỳ sản xuất, thời gian giao

hàng, thời gian tiêu thụ hàng hoá...

3. Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích.

Đây là một nguyên tắc quan trọng bởi chỉ khi khách hàng sử dụng vốn vay đúng mục

đích và đúng với phương án sản suất kinh doanh như đã cam kết với ngân hàng thì khoản

tín dụng ngân hàng cấp mới đảm bảo an toàn và hiệu quả. Để làm được điều này, cán bộ

tín dụng của ngân hàng phải thường xuyên kiểm tra giám sát quá trình sử dụng tiền vay.

4. Vốn vay phải có tài sản tương đương làm đảm bảo.

Đây là một nguyên tắc cần thiết bởi tài sản làm đảm bảo sẽ là nguồn thu thứ hai cho

ngân hàng khi khách hàng không thanh toán được nợ vay. Bằng cách phát mãi tài sản

cầm cố, thế chấp, ngân hàng có thể thu hồi một phần vốn cho vay khi khách hàng không

còn khả năng trả nợ ngân hàng.

Cùng với sự phát triển của ngoại thương và của hệ thống ngân hàng, các phương thức

thanh toán quốc tế ngày càng đa dạng đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của các doanh

nghiệp. Nhờ đó, nghiệp vụ tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng cũng phát triển

dưới nhiều hình thức, góp phần phục vụ tích cực và có hiệu quả cho hoạt động xuất nhập

khẩu.

Tóm lại : Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu là một mảng dịch vụ trong hệ thống tất cả

các dịch vụ chuyên biệt của ngân hàng nhằm hỗ trợ các nhà kinh doanh xuất nhập

khẩu trong giao dịch thương mại quốc tế. Mảng dịch vụ này mang nét chung là ngân

hàng cung ứng vốn bằng tiền hoặc bảo lãnh bằng uy tín cho các bên xuất khẩu, nhập

khẩu, giúp họ gia tăng hiệu quả trong kinh doanh và thực hiện thương vụ thành công.

1.1.2 Vai trò của tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu

Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu là một mảng dịch vụ có ý nghĩa cực kỳ quan trọng

không những đối với các doanh nghiệp mà còn đối với cả ngân hàng và đối với nền kinh

tế. Nhờ hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng mà tất cả các bên tham gia vào

thương mại quốc tế đều được hưởng lợi từ chính hoạt động này.

1.1.2.1 Đối với nền kinh tế

Thông qua các hình thức tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của các ngân hàng thương

mại, hoạt động mua bán hàng hoá xuất nhập khẩu theo yêu cầu của thị trường được thực

hiện thường xuyên, liên tục; các sản phẩm trong nước có thể thâm nhập thị trường quốc

tế dễ dàng hơn. Hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu góp phần nâng cao tính năng động của

nền kinh tế và giúp ổn định thị trường.

Bên cạnh đó, hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng còn giúp các doanh

nghiệp nói chung và các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nói riêng tồn tại và đứng vững

trong cơ chế thị trường, mở rộng sản xuất kinh doanh, nâng cao uy tín và danh tiếng trên

thị trường quốc tế. Và chính sự phát triển của các doanh nghiệp là động cơ thúc đẩy nền

kinh tế phát triển. Thông qua tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng mà các doanh

nghiệp có vốn để thay đổi dây chuyền công nghệ, hiện đại hoá máy móc thiết bị nhằm

tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, tạo ra sản phẩm phong phú đa dạng về

mẫu mã chủng loại để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của ngươì dân. Các doanh nghiệp

cũng có thể nhập khẩu các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống sinh hoạt của

nhân dân hoặc các mặt hàng phục vụ sản xuất mà trong nước chưa sản xuất được hay giá

thành còn cao. Vì vậy, sự phát triển của các doanh nghiệp đã mang lại lợi ích cho người

tiêu dùng.

Hoạt động tài trợ tín dụng của ngân hàng còn giúp tạo cho công ăn việc làm cho người

lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp, tạo nguồn thu ngoại tệ cho ngân sách nhà nước, góp

phần phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước, giúp mở rộng mối quan hệ đối

ngoại với các nước trên thế giới.

1.1.2.2 Đối với các ngân hàng thương mại

Tài trợ xuất nhập khẩu đóng vai trò quan trọng đối với các ngân hàng thương mại bởi

vì đây là mảng dịch vụ tạo nguồn thu phí và lãi lớn nhất trong số các dịch vụ kinh doanh

đối ngoại của ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng thương mại ở những nước đang phát

triển như Việt Nam Có nhiều loại lãi suất trong quá trình tài trợ như lãi cho vay thanh

toán, lãi chiết khấu chứng từ, lãi vay bắt buộc (bằng mức lãi quá hạn)...Tiền phí và lãi

ngân hàng thu được cao bởi vì giá trị tài trợ xuất nhập khẩu thường ở mức vừa và lớn.

Thêm vào đó, đây còn là hình thức cho vay mang lại an toàn, đảm bảo sử dụng vốn

đúng mục đích và thời gian thu hồi vốn nhanh. Do gắn liền với thời hạn thực hiện thương

vụ nên kỳ hạn tài trợ thường ngắn (dưới 1 năm), vì vậy nó phù hợp với kỳ hạn huy động

vốn của ngân hàng, giúp ngân hàng tránh các rủi ro về thanh khoản. Thông qua việc cấp

tín dụng xuất nhập khẩu, các ngân hàng có thể kiểm soát các giao dịch của doanh nghiệp,

tránh tình trạng doanh nghiệp được tài trợ vốn sử dụng vốn sai mục đích, giúp cho ngân

hàng tránh rủi do tín dụng.

Lợi ích quan trọng khác mà hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu mang lại cho

ngân hàng là không những giúp thắt chặt mối quan hệ bền vững giữa ngân hàng với các

doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu mà cón giúp mở rộng hoạt động và nâng cao uy

tín của ngân hàng trên thị trường quốc tế.

1.1.2.3 Đối với các doanh nghiệp

Thông qua tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng mà nhu cầu tài chính cho các

thương vụ lớn của các thương nhân được đáp ứng. Trong kinh doanh quốc tế, có những

thương vụ ngoại thương đòi hỏi một nguồn vốn rất lớn để thanh toán tiền hàng mà nguồn

vốn lưu động của doanh nghiệp nhiều khi không đáp ứng kịp thời cho nhu cầu thanh toán

hàng nhập hoặc chuẩn bị hàng xuất. Chính nhờ hoạt động tài trợ của ngân hàng mà doanh

nghiệp có thể thực hiện những hợp đồng lớn này.

Bên cạnh đó, hiệu quả của doanh nghiệp trong quá trình thực hiện hợp đồng tăng lên

nhờ có nghiệp vụ tài trợ ngoại thương. Đối với doanh nghiệp xuất khẩu, vốn tài trợ giúp

doanh nghiệp thu mua hàng đúng thời vụ; gia công chế biến và giao hàng đúng thời điểm.

Đối với doanh nghiệp nhập khẩu, vốn tài trợ của ngân hàng giúp doanh nghiệp mua được

lô hàng lớn, giá cả hạ hơn. Cả hai trường hợp này đều giúp tăng hiệu quả kinh doanh của

doanh nghiệp.

Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiểu

thủ công nghiệp phát triển sản xuất, tăng nhanh sản lượng, đa dạng hoá mặt hàng xuất

khẩu, giúp cho các sản phẩm trong nước có thể thâm nhập thị trường nước ngoài dễ dàng

hơn.

Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng còn giúp doanh nghiệp nâng cao uy tín

trên thị trường quốc tế. Nhờ có bảo lãnh của ngân hàng, các doanh nghiệp có thể thực

hiện các hợp đồng lớn trôi chảy, quan hệ làm ăn với các khách hàng lớn trên thế giới, từ

đó không ngừng nâng cao uy tín doanh nghiệp trên thị trường quốc tế.

1.2 MỘT SỐ HÌNH THỨC TÍN DỤNG TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU

Hoạt động kinh doanh quốc tế ngày càng phát triển và nhu cầu tài trợ của ngân hàng

đối với các hoạt động này ngày càng tăng. Thông thường, nghiệp vụ tín dụng tài trợ xuất

nhập khẩu của ngân hàng thường gắn với nghiệp vụ thanh toán quốc tế.và tạo điều kiện

để nghiệp vụ này phát triển. Trong lĩnh vực tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng, có hai

loại hình tài trợ chủ yếu:

- Tài trợ bằng cách cho vay

- Tài trợ bằng cách bảo lãnh

1.2.1 Tài trợ bằng cách cho vay

1.2.1.1 Tài trợ nhập khẩu

Trong giao dịch kinh doanh, uy tín và khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu là vấn

đề quan trọng nhất. Đó là bởi nhà xuất khẩu thiếu thông tin về tình hình tài chính, năng

lực kinh doanh của bên nhập khẩu; môi trường kinh tế, môi trường pháp lý của nước

nhập khẩu... nên nhà xuất khẩu khó có thể tin tưởng và bán hàng cho bên nhập khẩu, đặc

biệt là bán hàng trả chậm. Vì vậy, nhà nhập khẩu phải tìm giải pháp để nâng cao uy tín và

khả năng thanh toán của mình một cách chắc chắn trước đòi hỏi của nhà xuất khẩu. Dưới

đây là một số hình thức tài trợ nhập khẩu chủ yếu:

1.2.1.1.1 Tài trợ phát hành tín dụng thư

Đối với nhà nhập khẩu, mở L/C được xem là hình thức tài trợ của ngân hàng. Khi

ngân hàng đồng ý mở L/C cho nhà nhập khẩu có nghĩa là ngân hàng cam kết thanh toán

cho người hưởng lợi L/C nếu bộ chứng từ hợp lý. Vì vậy nếu người nhập khẩu không có

khả năng thanh toán hoặc không muốn thanh toán khi đến hạn L/C thì ngân hàng mở L/C

chính là người gánh chịu rủi ro. Do đó, trước khi mở L/C, ngân hàng phải kiểm tra tình

hình tài chính và khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu.

SƠ ĐỒ 1.1 : Quy trình nghiệp vụ tín dụng chứng từ

(6)

(3) Ngân hàng phục vụ nhà xuất khẩu (Advising

Ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu (Issuing Bank)

(6) (4) (8) (9) (2)

(1)

Người xuất khẩu

Người nhập khẩu

(1) Nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu ký hợp đồng.

(2) Nhà nhập khẩu đề nghị ngân hàng phục vụ mình mở thư tín dụng(L/C).

(3) Ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu mở L/C theo yêu cầu của nhà nhập khẩu và

thông báo về việc mở L/C với ngân hàng phục vụ nhà xuất khẩu.

(4) Ngân hàng phục vụ nhà xuất khẩu thông báo toàn bộ L/C đã được xác định tính

chân thực cho nhà xuất khẩu.

(5) Nhà xuất khẩu có được L/C như yêu cầu sẽ tiến hành giao hàng.

(6) Nhà xuất khẩu tập trung chứng từ chuyển cho ngân hàng phục vụ mình và ngân

hàng này có trách nhiệm kiểm tra bộ chứng từ.

(7) Ngân hàng phục vụ nhà xuất khẩu gửi toàn bộ chứng từ kèm theo lệnh đòi tiền

sang ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu

(8) Ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu kiểm tra toàn bộ chứng từ xem có phù hợp

với L/C không. Nếu phù hợp thì sẽ trả tiền cho nhà xuất khẩu thông qua ngân hàng

phục vụ nhà xuất khẩu.

(9) Ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu đòi tiền nhà nhập khẩu.

1.2.1.1.2 Cho vay ký quỹ L/C

Ký quỹ là quy định của ngân hàng phát sinh trong trường hợp khách hàng đề nghị

ngân hàng phát hành L/C, xác nhận L/C hoặc bảo lãnh cho doanh nghiệp vay vốn nước

ngoài. Khách hàng sẽ phải nộp một khoản tiền nhất định vào tài khoản của họ tại ngân

hàng và khoản tiền đó sẽ bị phong toả cho đến khi nghĩa vụ của ngân hàng chấm dứt.

Khoản ký quỹ thường tỷ lệ với giá trị L/C phát hành hoặc giá trị mà khách hàng xin bảo

lãnh. Để đề phòng rủi ro, với những khách hàng thiếu sự tin cậy hoặc với thương vụ tiềm

ẩn rủi ro cao, ngân hàng thường yêu cầu ký quỹ đủ 100% giá trị L/C hoặc 100% giá trị

khách hàng xin bảo lãnh. Trong thực tế, ngân hàng thường phân loại khách hàng của

mình tuỳ theo tình hình tài chính, uy tín, khả năng thanh toán giữa ngân hàng và khách

hàng mà ngân hàng tài trợ sẽ quyết định mức ký quỹ cao hay thấp. Trong một số trường

hợp, ngân hàng có thể cho vay để ký quỹ mở L/C.

Cho vay ký quỹ là một nghiệp vụ cần thiết bởi vì nó vừa giúp giải quyết khó khăn về

vốn lưu động cho khách hàng, tăng tính an toàn, mang lại hiệu quả cho ngân hàng vừa

đảm bảo tuân thủ những quy định pháp lý của ngân hàng về ký quỹ bảo lãnh.

1.2.1.1.3 Tín dụng ứng trước đối với nhà nhập khẩu

Theo phương thức này, khách hàng cần lập phương án sản xuất kinh doanh khả thi cho

lô hàng nhập về, đồng thời khách hàng phải lên kế hoạch tài chính nhằm xác định khả

năng thanh toán khi đến thời điểm thanh toán dự kiến, xác định khoản thiếu hụt cần ngân

hàng tài trợ. Sau khi xem xét kế hoạch và phương án trên, ngân hàng sẽ ra quyết định tài

trợ và mức chấp nhận tài trợ. Tất cả các công đoạn này cần thực hiện trước khi bộ chứng

từ giao hàng của người xuất khẩu về đến ngân hàng đứng ra tài trợ.

Khi hàng hoá và bộ chứng từ đến nơi, nhà nhập khẩu có thể nhận được sự tài trợ từ

ngân hàng thông qua hình thức vay thanh toán tiền hàng. Sau đó, nhà nhập khẩu bán hàng

đi và thanh toán cho ngân hàng.

1.2.1.1.4 Chấp nhận hối phiếu

Chấp nhận hối phiếu là việc nhà nhập khẩu hoặc ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu ký

chấp nhận lên hối phiếu trong thời hạn quy định. Điều này đồng nghĩa với việc nhà nhập

khẩu hoặc ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu cam kết thanh toán khi đến hạn.

Tín dụng chấp nhận hối phiếu là khoản tín dụng mà ngân hàng ký chấp nhận hối phiếu.

Người vay khoản tín dụng này là người nhập khẩu và khoản tín dụng này chỉ là một hình

thức, một sự đảm bảo bởi vì ngân hàng chưa phải cấp vốn thực sự cho nhà nhập khẩu.

Chỉ đến khi đến hạn mà nhà nhập khẩu không thể thanh toán thì ngân hàng là người cho

vay ( người chấp nhận hối phiếu ) sẽ phải đứng ra trả nợ thay. Đối với ngân hàng, kể từ

khi ngân hàng ký chấp nhận hối phiếu cũng chính là thời điểm bắt đầu gánh chịu rủi ro

khi nhà nhập khẩu không có khả năng thanh toán khi hối phiếu đến hạn. Bù lại , ngân

hàng sẽ được nhận một khoản phí chấp nhận, khoản tiền bù đắp chi phí gánh chịu rủi ro.

Khoản phí này thường nhỏ mà rủi ro do nghiệp vụ này mang lại rất lớn nên các ngân

hàng thường ít thực hiện nghiệp vụ này.

Tín dụng chấp nhận hối phiếu này xảy ra trong trường hợp người xuất khẩu không tin

tưởng vào khả năng thanh toán của người nhập khẩu nên nhà xuất khẩu đề nghị nhà nhập

khẩu yêu cầu một ngân hàng đứng ra chấp nhận hối phiếu do người xuất khẩu ký phát.

Nếu ngân hàng không tin tưởng vào nhà nhập khẩu thì ngân hàng có thể đồng ý chấp

nhận hối phiếu nếu nhà nhập khẩu ký quỹ 100% giá trị hối phiếu. Trong trường hợp này

thì ngân hàng là người tài trợ uy tín cho nhà nhập khẩu.

1.2.1.1.5 Tín dụng thuê mua (leasing)

Đây là hình thức cam kết giữa người cho thuê và người đi thuê để thuê một tài sản

nhất định do người thuê chọn lựa, người thuê được quyền sử dụng tài sản này trong

khoảng thời gian nhất định và phải trả tiền dần từng kỳ theo hợp đồng thuê mua. Khi kết

thúc hợp đồng, người mua được quyền chọn mua tài sản cho thuê theo giá cả ấn định.

Người cho thuê là công ty thuê mua của ngân hàng và người đi thuê chính là các

doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu. Hình thức tín dụng này thường là trung dài hạn, nó

tạo điều kiện cho doanh nghiệp đổi mới công nghệ, máy móc, thiết bị mà không phải trả

tiền ngay một lúc.

SƠ ĐỒ 1.2 : Quy trình nghiệp vụ tín dụng thuê mua

(2)

NHÀ XUẤT KHẨU ( NHÀ SẢN XUẤT )

NHÀ NHẬP KHẨU ( NGƯỜI ĐI THUÊ)

(4) (3) (1) (5)

CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH CỦA NGÂN HÀNG

(1) Nhà nhập khẩu ký hợp đồng thuê mua

(2) Nhà nhập khẩu lựa chọn nhà xuất khẩu để mua hàng hoá

(3) Công ty thuê mua của ngân hàng ký hợp đồng mua tài sản với nhà xuất khẩu

(4) Nếu nhà xuất khẩu chấp nhận giá mua và công ty thuê mua đồng ý với các điều

kiện thoả thuận thì nhà xuất khẩu bán 100% giá trị tài sản cho công ty thuê mua

(5) Trong thời gian thuê mua, nhà nhập khẩu (người đi thuê) phải đặt cọc một

khoản tiền và phải trả tiền thuê cho công ty thuê mua.

1.2.1.2 Tài trợ xuất khẩu

1.2.1.2.1 Cho vay thực hiện hàng xuất khẩu theo L/C đã mở

Khi nhận được L/C do ngân hàng mở L/C phát hành theo yêu cầu của nhà nhập khẩu

có nghĩa là nhà xuất khẩu được đảm bảo thanh toán sau khi giao hàng nếu bộ chứng từ

phù hợp với L/C. Nhà xuất khẩu có thể dựa vào đó để yêu cầu ngân hàng phục vụ mình

cấp một khoản tín dụng để thực hiện xuất hàng theo quy định của L/C.

1.2.1.2.2 Tín dụng chiết khấu hoặc tín dụng ứng trước đối với nhà xuất khẩu

Sau khi giao hàng, người xuất khẩu có nhu cầu bù đắp vốn để tiếp tục quá trình sản

xuất kinh doanh trong khoảng thời gian xuất chuyển hàng hoá đến khi nhà nhập khẩu

chấp nhận bộ chứng từ và đồng ý trả tiền. Để bù đắp nhu cầu về vốn này, nhà xuất khẩu

sau khi giao hàng có thể thương lượng với ngân hàng để ngân hàng thực hiện chiết khấu

bộ chứng từ hoặc ứng trước tiền khi bộ chứng từ được thanh toán.

Chiết khấu bộ chứng từ là hình thức ngân hàng tài trợ thông qua việc mua lại hoặc

cho vay trên cơ sở giá trị bộ chứng từ hoàn hảo được xuất trình. Có 2 hình thức chiết

khấu là chiết khấu miễn truy đòi và chiết khấu được phép truy đòi nhưng hình thức chiết

khấu miễn truy đòi ít được sử dụng do nó tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với ngân hàng chiết

khấu. Phạm vi chiết khấu bộ chứng từ thường chỉ được áp dụng trong phương thức thanh

toán quốc tế tín dụng chứng từ bởi phương thức này có sự ràng buộc chặt chẽ trách nhiệm

giao hàng của nhà xuất khẩu và trách nhiệm thanh toán của nhà nhập khẩu thông qua các

ngân hàng phục vụ các bên.

Đối với tín dụng ứng trước, những giấy tờ có giá theo lệnh hoặc những giấy tờ chính

như vận đơn, hoá đơn thương mại, hợp đồng bảo hiểm...đều là vật thế chấp cho ngân

hàng. Do đó tất cả những giấy tờ có giá theo lệnh đều phải có mệnh đề chuyển nhượng

khống hoặc chuyển nhượng cho ngân hàng cấp tín dụng ứng trước. Nếu những giấy tờ có

giá trị trên không cho phép chuyển nhượng thì người vay vốn phải sử dụng hình thức cấp

vốn khác.

Mức độ cấp vốn ứng trước phụ thuộc vào các yếu tố sau:

- Khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu

- Khả năng cạnh tranh của hàng hoá và giá trị hàng hoá dự kiến

- Chính sách kinh tế, chính trị của nước nhập khẩu đối với ngân hàng phục vụ nhà xuất

khẩu

- Những rủi ro về tỷ giá hối đoái

Điểm khác biệt lớn giữa tài trợ chiết khấu và tài trợ ứng trước là ở mức giá trị tài trợ.

Tương ứng với sự khác biệt này, quyền hạn của ngân hàng đối với việc thụ hưởng giá trị

hối phiếu, các quyền hạn khác liên quan tới hối phiếu và quyền hạn trong việc xử lý bộ

chứng từ.

- Trong tài trợ chiết khấu, ngân hàng có toàn quyền ra chỉ thị xử lý và yêu cầu ngân

hàng xuất trình thực hiện

- Trong tài trợ ứng trước, ngân hàng chỉ đơn giản là ngân hàng chuyển giao chỉ thị

của nhà xuất khẩu

Đối với nghiệp vụ chiết khấu bộ chứng từ cũng như tài trợ ứng trước, ngân hàng chỉ

có quyền truy đòi nhà xuất khẩu khi bị bên mua từ chối thanh toán.

1.2.1.2.3 Chiết khấu hối phiếu

Đây là nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn được thực hiện dưới hình thức khách hàng chuyển

quyền sở hữu hối phiếu chưa đáo hạn cho ngân hàng để nhận một số tiền bằng mệnh giá

của hối phiếu trừ đi lãi chiết khấu và hoa hồng phí chiết khấu.

Thông qua hình thức chiết khấu hối phiếu ngân hàng tài trợ một khoản tín dụng cho

nhà xuất khẩu để họ tiếp tục quá trình tái sản xuất. Đặc trưng của nghiệp vụ này là ngân

hàng khấu trừ tiền lãi ngay khi chiết khấu và chỉ chuyển cho người xuất khẩu số tiền còn

lại. Điều này có nghĩa là ngân hàng thu lãi của khoản tín dụng ngay khi cấp tín dụng. Khi

kết thúc thời hạn chiết khấu, ngân hàng sẽ đòi tiền ở người có nhiệm vụ trả tiền hối

phiếu. Ngân hàng sẽ gặp rủi ro khi người có trách nhiệm trả tiền hối phiếu từ chối trả tiền

hối phiếu hoặc không có khả năng trả tiền khi hối phiếu đến hạn hoặc hối phiếu không

hợp lệ. Vì vậy ngân hàng phải thận trọng khi quyết định chiết khấu một hối phiếu.

1.2.1.2.4 Tín dụng bao thanh toán (factoring)

Tín dụng bao thanh toán là hình thức tín dụng tài trợ ngắn hạn của ngân hàng dành cho

các nhà xuất khẩu. Hình thức tài trợ này có nghĩa là nhà xuất khẩu giao hết tất cả các bản

sao hoá đơn bán hàng cho tổ chức tài trợ (ngân hàng) để nhận một mức tài trợ nhất định

và tổ chức tài trợ sẽ đảm nhận toàn bộ quá trình thu tiền và ghi chép, kế toán các khoản

phải thu. Khi thực hiện nghiệp vụ này ngân hàng thu được một khoản phí khá cao.

Tuỳ theo tính chất hoàn hảo của chứng từ, tình hình tài chính và khả năng thanh toán

của người mắc nợ mà ngân hàng quyết định tỷ lệ mua nợ cao hay thấp đối với nhà xuất

khẩu. Có 2 loại tín dụng bao thanh toán là bao thanh toán có truy đòi và bao thanh toán

miễn truy đòi.

- Bao thanh toán có truy đòi là loại bao thanh toán mà ngân hàng sẽ thanh toán tiền

cho nhà xuất khẩu nhưng với thoả thuận là nhà xuất khẩu sẽ phải trả lại ngân hàng số tiền

đó nếu như nhà nhập khẩu không thanh toán cho ngân hàng.

- Bao thanh toán không truy đòi là loại bao thanh toán mà ngân hàng sẽ chịu mọi rủi ro

nếu như người nhập khẩu không trả tiền.

Tín dụng bao thanh toán mang lại nhiều lợi ích cho nhà xuất khẩu bởi vì nhà xuất khẩu

sẽ có vốn để thực hiện hoạt động kinh doanh ngay sau khi vừa bán hàng dù người nhập

khẩu có trả tiền ngay hay mua chịu. Bên cạnh đó, nhà xuất khẩu không phải bận tâm vào

việc quản lý thanh toán phức tạp kéo dài mà giao nó cho ngân hàng, một tổ chức có nhiều

kinh nghiệm trong lĩnh vực này..

1.2.2 Tín dụng bằng cách bảo lãnh

Bảo lãnh ngân hàng là một hình thức ngân hàng tài trợ uy tín cho các doanh nghiệp

xuất nhập khẩu và ngân hàng không phải bỏ ra một đồng vốn nào. trách nhiệm của ngân

hàng khi đứng ra bảo lãnh là đảm bảo thi hành đúng cam kết với nước ngoài trong trường

hợp người xin bảo lãnh không thực hiện đầy đủ một nghiệp vụ nào đó với bên nước

ngoài.

Trong kinh doanh quốc tế hiện nay, nhu cầu về bảo lãnh của ngân hàng ngày một gia

tăng. Nhà xuất khẩu cần có sự bảo lãnh của ngân hàng khi nhà nhập khẩu yêu cầu bởi nhà

nhập khẩu không biết hay không tin tưởng vào khả năng thực hiện hợp đồng của nhà xuất

khẩu. Ngược lại, nhà nhập khẩu cũng cần có sự bảo lãnh của ngân hàng khi nhà xuất

khẩu yêu cầu bởi vì nhà xuất khẩu không nắm chắc khả năng tài chính, khả năng thanh

toán hay mức độ tín nhiệm của nhà nhập khẩu.

Trên thực tế, có rất nhiều loại bảo lãnh ngân hàng tuỳ theo yêu cầu của các bên mua

bán trong quá trình thực hiện hợp đồng. Một số loại bảo lãnh ngân hàng cho người xuất

khẩu là bảo lãnh đấu thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh tiền cọc, bảo lãnh bảo

hành, bảo lãnh bảo lưu... Một số hình thức bảo lãnh ngân hàng dành cho người nhập khẩu

là : tài trợ xác nhận L/C...

Thực chất việc ký xác nhận vào L/C phát hành của ngân hàng ở nước xuất khẩu là

nghiệp vụ bảo lãnh uy tín thanh toán cho ngân hàng phát hành, đây là một dạng tài trợ

liên ngân hàng. Khi thực hiện nghiệp vụ tài trợ này, ngân hàng xác nhận đã đảm nhận

trước nhà xuất khẩu tất cả rủi ro liên quan đến uy tín và khả năng thanh toán của nhà

nhập khẩu, của ngân hàng phát hành L/C và cả của quốc gia nhập khẩu.

Hình thức tín dụng bảo lãnh mang lại nhiều lợi ích cho các bên liên quan:

- Đối với nhà xuất khẩu: nếu nhà nhập khẩu là người được bảo lãnh thì nhà xuất khẩu

hoàn toàn yên tâm là mình sẽ được thanh toán khi đến hạn nếu thực hiện đúng hợp đồng.

Còn nếu nhà xuất khẩu là người được bảo lãnh thì người xuất khẩu có thể ký được hợp

đồng và bán được hàng do ngân hàng đã bảo lãnh thực hiện hợp đồng cho anh ta.

- Đối với nhà nhập khẩu: nếu nhà nhập khẩu là người được bảo lãnh thì nhà nhập khẩu

sẽ được hưởng một khoản vốn của bên xuất khẩu mà không phải trả lãi, chỉ trả một khoản

phí cho người bảo lãnh. Nếu nhà xuất khẩu là người được bảo lãnh thì nhà nhập khẩu yên

tâm là mình sẽ mua được hàng và không bị mất thời cơ trong kinh doanh vì không có

hàng.

- Đối với ngân hàng (người bảo lãnh): thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh nghĩa là ngân

hàng có được uy tín, được sự tín nhiệm của bên xuất khẩu hay nhập khẩu. Bên cạnh đó

ngân hàng còn có thu nhập là khoản phí bảo lãnh.

1.3 NHỮNG RỦI RO TRONG TÍN DỤNG TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU

Trong lĩnh vực kinh doanh, đặc biệt là trong lĩnh vực tài trợ ngoại thương, hoạt động

tín dụng của ngân hàng thường gặp nhiều rủi ro. Đó là bởi hoạt động tài trợ ngoại thương

của ngân hàng có mối liên hệ chặt chẽ với hoạt động kinh doanh quốc tế, mà hoạt động

kinh doanh quốc tế có nhiều rủi ro do nhiều đối tác ở các quốc gia khác nhau cùng tham

gia. Vì vậy, các rủi ro trong tài trợ ngoại thương của ngân hàng cũng bắt nguồn từ rủi ro

mà các công ty xuất nhập khẩu sẽ phải gánh chịu trong quá trình kinh doanh. Những rủi

ro này có thể là do chủ quan hoặc khách quan nhưng đều có tác động không tốt đến hoạt

động của ngân hàng. Chính vì vậy, việc hiểu biết về các loại rủi ro và nguyên nhân phát

sinh chúng là rất cần thiết, nó giúp ngân hàng có biện pháp phòng tránh và giảm thiểu

hậu quả mà rủi ro mang lại.

1.3.1 Rủi ro tín dụng

Đây là loại rủi ro phát sinh khi khách hàng được tài trợ không có khả năng thanh toán

tiền đã vay hoặc thực hiện những nghĩa vụ đã cam kết của mình.

Để khắc phục và chống đỡ rủi ro này, ngân hàng phải thẩm định kỹ khách hàng và sẽ

áp dụng nguyên tắc lãi suất cho vay hoặc mức phí tài trợ tương ứng với mức độ rủi ro của

khách hàng.

1.3.2 Rủi ro lãi suất

Rủi ro về lãi suất phát sinh do những biến động giữa lãi suất phải trả cho nguồn vốn

ngân hàng đi vay và lãi suất thu được từ nguồn vốn ngân hàng tài trợ ngoại thương. Rủi

ro lãi suất còn phát sinh do sự bất tương xứng về ngày tái lập lãi suất giữa các loại nguồn

vốn của ngân hàng và các khoản mục kinh doanh của nó. Rủi ro này làm ảnh hưởng đến

khả năng sinh lợi của ngân hàng .

1.3.3 Rủi ro hối đoái

Rủi ro ngoại hối là những rủi ro bắt nguồn từ sự biến động bất lợi của tỷ giá và của

các quy chế quản lý ngoại hối của nhà nước. Các yếu tố này tác động mạnh tới các tài sản

bằng ngoại tệ và các dịch vụ kinh doanh đối ngoại của ngân hàng.

1.3.4 Rủi ro thanh khoản

Rủi ro này phát sinh từ sự bất tương xứng về kỳ hạn giữa nguồn vốn và việc sử dụng

vốn của ngân hàng, trong đó có các khoản tài trợ ngoại thương, khiến cho ngân hàng

thiếu khả năng thanh khoản để đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng. Rủi ro này

làm ngân hàng mất uy tín và có thể dẫn đến phá sản ngân hàng.

1.3.5 Rủi ro tác nghiệp

Đây là loại rủi ro phát sinh từ các dịch vụ thu phí của ngân hàng , theo đó một sai sót

hay một sự bất cẩn khiến cho ngân hàng phải gánh chịu những tổn thất tài chính to lớn.

Những yếu tố gây rủi ro loại này có thể là sự gian lận của khách hàng, sự vị phạm đạo

đức nghề nghiệp của cán bộ ngân hàng, rủi ro pháp lý, rủi ro môi trường...

1.4 QUY TRÌNH THỰC HIỆN TÍN DỤNG TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU CỦA

CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.4.1 Thủ tục tài trợ

Khi có nhu cầu về tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng, khách hàng đến ngân hàng

xin tài trợ và nộp các hồ sơ liên quan để ngân hàng có căn cứ xét duyệt. Các giấy tờ liên

quan gồm có:

* Hồ sơ pháp lý gồm :

Giấy phép thành lập; giấy phép hành nghề của cơ quan chuyên môn; giấy chứng

nhận đăng ký kinh doanh; giấy phép trú đóng; bảng điều lệ công ty; giấy bổ nhiệm giám

đốc, kế toán trưởng.

Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải có: Giấy phép đầu tư, góp đủ

vốn pháp định.

* Hồ sơ kinh tế gồm :

Bảng báo cáo kết quả kinh doanh, bảng cân đối kế toán, bảng báo cáo lưu chuyển tiền

tệ, bảng báo cáo kiểm toán, bảng thuyết minh.

* Hồ sơ cho vay gồm :

Đơn xin vay hoặc đơn xin bảo lãnh; các hợp đồng thương mại, hợp đồng ngoại

thương; hợp đồng uỷ thác (trong trường hợp doanh nghiệp không có chức năng kinh

doanh xuất nhập khẩu); bảng liệt kê tài sản thế chấp, cầm cố (nếu có) kèm theo giấy

chứng nhận quyền sở hữu; các giấy tờ liên quan khác.

1.4.2 Thẩm định hồ sơ

Thẩm định hồ sơ là việc cán bộ tín dụng thẩm tra lại các thông tin về khách hàng dựa

trên cuộc phỏng vấn tiếp xúc trực tiếp với khách hàng và qua hồ sơ khách hàng cung cấp

- một bước quan trọng trong quá trình tài trợ của ngân hàng. Làm tốt bước này sẽ giúp

ngân hàng hạn chế rủi ro tín dụng và mang lại hiệu quả cho hoạt động kinh doanh của

ngân hàng và doanh nghiệp.

Cán bộ tín dụng phải thực hiện các bước sau trong quá trình thẩm định hồ sơ :

- Kiểm tra tính hợp pháp của hồ sơ pháp lý

- Đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp.

- Đánh giá tính khả thi và hiệu quả của dự án

- Thẩm định tài sản đảm bảo

1.4.3 Lập tờ trình

Sau khi thẩm định hồ sơ khách hàng, cán bộ tín dụng lập tờ trình lên trưởng phòng

tín dụng. Tờ trình này phải nêu rõ tình hình tài chính của doanh nghiệp, nhu cầu vốn, số

tiền xin tài trợ, tính khả thi, hiệu quả của phương án kinh doanh và kiến nghị của cán bộ

tín dụng có nên cho vay hay không.

Trưởng phòng tín dụng căn cứ ý kiến của cán bộ tín dụng đồng thời xem xét lại hồ sơ

và cho ý kiến để trình lên ban giám đốc xét duyệt. Nếu cần thiết có thể đưa ra hội đồng

tín dụng xét duyệt.

Trong trường hợp vốn vay vượt mức phán quyết của chi nhánh thì trình ra hội đồng

tín dụng trung ương để xin ý kiến.

1.4.4 Phát tiền vay

Nếu ngân hàng đồng ý tài trợ vốn thì hai bên ký hợp đồng tín dụng, lập giấy nhận nợ

và phát tiền vay cho khách hàng.

Trường hợp ngân hàng đồng ý bảo lãnh thì ký chấp nhận đơn xin bảo lãnh và chuyển

về phòng ban có liên quan.

1.4.5 Kiểm tra và xử lý nợ vay

Trong quá trình cấp tín dụng, cán bộ tín dụng phải thường xuyên kiểm tra và giám sát

chặt chẽ quá trình vay vốn của khách hàng. Nếu phát hiện việc sử dụng sai mục đích hay

những sai lệch trong quá trình sử dụng vốn thì cán bộ tín dụng có trách nhiệm báo ngay

cho kế toán để ngưng ngay việc phát tiền vay và tiến hành thu nợ trước hạn bằng cách

phong toả vật tư hàng hoá, phát mãi tài sản cầm cố thế chấp...và có thể khởi kiện doanh

nghiệp trước pháp luật.

Cán bộ tín dụng kiểm tra việc sử dụng vốn vay phải xác định được cả hình thái hiện

vật và giá trị thực tế tiền vay của đơn vị về các mặt như : hiệu quả kinh tế, mục đích và

đối tượng sử dụng vốn, khả năng hoàn trả cả gốc lẫn lãi.

Cán bộ tín dụng có thể kiểm tra thông qua 2 loại thông tin chủ yếu sau:

- Thông tin từ khách hàng vay vốn. Thông tin này thu được thông qua kiểm tra các

loại chứng từ gốc như : chứng từ ghi sổ, bản kê chi phí sử dụng tiền vay, các hợp đồng

kinh tế, sổ sách kế toán thống kê, bảng cân đối tài sản, tồn kho thực tế vật tư hàng hoá,

công nợ phải trả...

- Các loại thông tin khác do ngân hàng tự điều tra hoặc xác minh từ nhiều nguồn

khác nhau: từ bạn hàng và khách hàng của người vay, từ cơ quan quản lý kinh tế của Nhà

nước...

1.4.6 Tính lãi - thu lãi - thu nợ - gia hạn

Ngân hàng sẽ tính lãi theo lãi suất hai bên đã thoả thuận tại thời điểm ký kết hợp đồng.

Sắp đến ngày đáo hạn thì ngân hàng phải thông báo cho khách hàng biết để chuẩn bị tiền

trả nợ cho ngân hàng.

Trong trường hợp đến ngày đáo hạn mà khách hàng không trả được nợ thì ngân hàng

buộc phải chuyển nợ quá hạn và khách hàng phải chịu lãi suất phạt do nợ quá hạn. Lãi

suất phạt này thường bằng 150% lãi suất của hợp đồng tín dụng.

Trong trường hợp bất khả kháng nên khách hàng không thể thanh toán tiền vay đúng

hạn thì khách hàng phải xin gia hạn nợ và thời gian gia hạn nợ không được vượt quá thời

gian tài trợ vốn. Trong trường hợp này thì khách hàng không phải trả lãi suất theo lãi suất

nợ quá hạn.

1.4.7 Thanh lý hợp đồng tín dụng

Sau khi khách hàng hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi tiền vay, cán bộ tín dụng đối chiếu

xác nhận với kế toán và đóng hồ sơ tài trợ lại, chuyển vào hồ sơ lưu của khách hàng.

Quy trình thực hiện tài trợ đến đây là kết thúc.

1.5 CÁC HÌNH THỨC TÍN DỤNG TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU TẠI CÁC

NHTM VIỆT NAM HIỆN NAY

Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với các doanh nghiệp

Việt Nam đặc biệt là khi các doanh nghiệp nước ta hiện nay đang thiếu vốn, uy tín lẫn

kinh nghiệm trong hoạt động kinh doanh quốc tế. Nắm bắt được nhu cầu của các doanh

nghiệp, các NHTM Việt Nam đã có một số hình thức tín dụng tài trợ ngoại thương để đáp

ứng nhu cầu về vốn và uy tín cho doanh nghiệp. Các hình thức tài trợ này tuy chưa đa

dạng bằng các hình thức tài trợ của các NHTM ở những nước phát triển nhưng cũng góp

phần không nhỏ vào hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam và của nền kinh

tế.

SƠ ĐỒ 1.3: Các hình thức tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của các NHTM

Việt Nam hiện nay

Hình thức tài trợ XNK của NHTM

Tài trợ xuất khẩu

Tài trợ nhập khẩu

Nghiệp vụ bảo lãnh

Mở L/C thanh toán hàng nhập khẩu

Cho vay thu mua, chế biến hàng xuất theo L/C, theo hợp Cho vay thanh toán bộ chứng từ Chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất

Mở L/C trả chậm Phát hành thư bảo lãnh

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Chương 1 đã đi sâu nghiên cứu lý luận tài trợ xuất nhập khẩu của các NHTM trên

những khía cạnh:

. Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu và vai trò của hoạt động này

. Một số hình thức tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu.

. Những rủi ro trong hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu đối với NHTM

. Quy trình thực hiện tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của NHTM

Qua những nội dung trên, ta hiểu rõ hơn bản chất, quy trình của hoạt động tài trợ xuất

nhập khẩu của ngân hàng và những rủi ro ngân hàng có thể gặp phải khi thực hiện hoạt

động này.

CHƯƠNG 2:

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU TẠI SỞ

GIAO DỊCH I - NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ

PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM.

2.1 QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NGÂN HÀNG NÔNG

NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM & CỦA SỞ GIAO DỊCH I

2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển

nông thôn Việt Nam

Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, gọi tắt là ngân hàng

Nông nghiệp , có tên giao dịch quốc tế là Vietnam Bank for Agriculture and Rural

Development (VBARD), có trụ sở chính đặt tại số 2 Láng Hạ, Ba Đình, Hà Nội.

Tổ chức tiền thân của ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam

(NHNo&PTNTVN) là ngân hàng Phát triển nông nghiệp Việt Nam, được thành lập theo

quyết định số 53/HĐBT ngày 26/3/1988 nhằm đáp ứng nhu cầu cấp bách của nền kinh tế,

góp phần thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng, ổn định tiền tệ với thị trường hoạt động chủ

yếu là khu vực nông thôn, lĩnh vực nông nghiệp và đối tượng là nông dân.

Từ khi thành lập tới nay, ngân hàng đã qua hai lần đổi tên. Lần thứ nhất, theo quyết

định 400/CT ngày 14/11/1990 của Thủ tướng Chính phủ, ngân hàng được đổi tên thành

Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam. Sau đó, nhằm chuyển đổi mô hình hoạt động của các

ngân hàng thương mại theo dạng Tổng công ty, ngày 15/10/1996 theo quyết định số

280/QĐ - NH5 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được Thủ tướng Chính

phủ uỷ quyền ký quyết định thành lập tại văn bản số 3329/ĐMDN ngày 11/7/1996, ngân

hàng Nông nghiệp Việt Nam được đổi tên thành ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển

nông thôn Việt Nam (NHNo &PTNTVN). NHNo&PTNTVN là một trong bốn ngân hàng

thương mại quốc doanh lớn nhất Việt Nam hiện nay được thành lập theo mô hình Tổng

công ty Nhà nước với thời gian hoạt động là 99 năm.

Qua 14 năm hoạt động, NHNo&PTNTVN đang trên đà phát triển ổn định và không

ngừng lớn mạnh. Từ số vốn ban đầu do Nhà nước cấp là 2200 tỷ VND, đến cuối năm

2001, ngân hàng có tổng nguồn vốn đạt 73635 tỷ VND, tăng 33,7% so với năm 2000.

Nguồn vốn hiện có của ngân hàng chủ yếu đầu tư cho các thành phần kinh tế, đến nay đã

giải ngân tới hơn 8 triệu hộ trong đó cho vay hơn 2,6 triệu hộ nghèo và gần 20.000

doanh nghiệp. Tổng dư nợ của ngân hàng đạt 66.230 tỷ VND trong đó dư nợ cho vay hộ

nghèo là 6200 tỷ VND. Ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn thấp : 0,7% (giảm 0,4 % so với

năm 2000). Hiện nay NHNo&PTNTVN có hơn 24000 cán bộ công nhân viên với mạng

lưới rộng khắp gồm gần 1600 chi nhánh trên toàn quốc.

Cùng với việc mở rộng hoạt động kinh doanh đối nội, NHNo&PTNT vẫn tiếp tục

quan hệ quốc tế và kinh doanh đối ngoại. Ngân hàng hiện có quan hệ với 740 tổ chức tài

chính tín dụng, ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam và ở 89 quốc gia trên thế giới. Đến

cuối 2001, đã có 55 chi nhánh NHNo&PTNTVN trực tiếp tham gia thanh toán quốc tế.

Trong năm 2001, doanh số thanh toán quốc tế là 1754 triệu USD, doanh số mua bán

ngoại tệ đạt 4038 triệu USD. Bên cạnh đó, hoạt động đối ngoại và thanh toán biên giới đã

được mở rộng tới nhiều chi nhánh trong toàn hệ thống, góp phần đa dạng hoá sản phẩm

dịch vụ, thu hút thêm nhiều khách hàng và tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chu

trình khép kín từ khâu cho vay để thu mua nguyên liệu, chế biến hàng hoá đến khâu xuất

khẩu. Nghiệp vụ bảo lãnh và mở tín dụng thư trả chậm vẫn tiếp tục phát triển và được

quản lý chặt chẽ, các khoản bảo lãnh đều được thanh toán đầy đủ, đúng hạn.

Chính vì những thành tựu trên mà tạp chí ASIA WEEK, một tạp chí kinh tế lớn nổi

tiếng ở châu Á số 15/09/2000 đã xếp NHNo&PTNTVN đứng thứ 335 trong số 500 ngân

hàng lớn nhất châu Á và đứng thứ 46 trong số 50 ngân hàng lớn nhất Đông Nam Á.

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, NHNo&PTNTVN đang trên đà phát

triển và ngày càng vững mạnh. Trong thời gian tới, NHNo&PTNTVN phấn đấu trở thành

NHTM tiên tiến trong khu vực và có uy tín cao trên trường quốc tế, mở rộng hoạt động

kinh doanh vững chắc an toàn, có quy mô vốn tự có ngang tầm các ngân hàng trong khu

vực để góp phần vào sự phát triển kinh tế của đất nước.

2.1.2 Giới thiệu về SGDI - NHNo&PTNT

Sở giao dịch I là một đơn vị trực thuộc Trung tâm điều hành NHNo&PTNT. Được

thành lập theo quyết định số 15/TCCB ngày 25/11/1990 của Tổng giám đốc

NHNo&PTNT, Sở bắt đầu đi vào hoạt động từ tháng 4/1991 theo luật các tổ chức tín

dụng và theo điều lệ của NHNo&PTNTVN và tiến hành hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu

từ năm 1998.

SGDI có trụ sở đặt tại số 4 Phạm Ngọc Thạch, Đống Đa, Hà Nội.

2.1.2.1 Cơ cấu tổ chức của SGDI

Cán bộ công nhân viên của sở gồm có 82 người trong đó có một giám đốc và ba phó

giám đốc. Giám đốc sở là người trực tiếp điều hành và chịu trách nhiêm trực tiếp trước

Tổng giám đốc NHNo &PTNTVN. Hiện nay Sở gồm có 6 phòng ban:

- Phòng hành chính

- Phòng tổ chức

- Phòng kế hoạch kinh doanh

- Phòng kế toán

- Phòng kiểm tra, kiểm toán nội bộ

- Phòng ngân quỹ.

Ngoài ra, SGDI còn có 2 chi nhánh ở Tây Sơn, Trung Yên và 2 phòng giao dịch.

SƠ ĐỒ 2.1 : Cơ cấu tổ chức của SGDI (trang bên)

2.1.2.2 Hoạt động kinh doanh của SGDI

Nhiệm vụ chính của SGDI là thực hiện các lệnh thanh toán, điều chuyển vốn trong

toàn hệ thống NHNo&PTNTVN và trực tiếp kinh doanh tiền tệ, tín dụng, cung cấp các

dịch vụ ngân hàng trên địa bàn Hà Nội.

Nhằm thực hiện tốt hai nhiệm vụ trên, Sở có các hoạt động kinh doanh cụ thể như sau:

- Hoạt động huy động vốn:

Sở huy động vốn thông qua nhận tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và có kỳ hạn bằng cả

nội tệ và ngoại tệ của các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong và ngoài

nước. Bên cạnh đó Sở còn phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng

và thực hiện các hình thức huy động khác theo quy định của NHNo&PTNT.

Khi cần thiết, SGDI còn có thể vay vốn của các tổ chức tài chính, tín dụng trong

nước theo quy định của NHNo&PTNT

Ngoài ra, Sở còn tiếp nhận các nguồn vốn tài trợ, uỷ thác của Chính phủ và các tổ

chức kinh tế trong và ngoài nước.

- Hoạt động cho vay:

Sở thực hiện cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn bằng nội tệ và ngoại tệ đối với

khách hàng của thành phần kinh tế khác nhau. Sở cho vay hộ gia đình nhằm đáp ứng nhu

cầu vốn cho sản xuất, tiêu dùng... Sở tài trợ vốn cho các doanh nghiệp quốc doanh và

doanh nghiệp tư nhân kinh doanh xuất nhập khẩu ...

Bên cạnh đó, Sở còn thẩm định, tái thẩm định các dự án tín dụng, trực tiếp cho vay các

dự án theo phân cấp uỷ quyền của Tổng giám đốc NHNo&PTNTVN.

- Hoạt động khác

Ngoài 2 hoạt động chính là huy động vốn và cho vay vốn, Sở còn có các hoạt động

khác như :

Kinh doanh ngoại hối: đây là hoạt động mua bán ngoại tệ mà chủ yếu nhằm mục đích

cho vay và phục vụ thanh toán quốc tế, những dịch vụ khác về ngoại hối theo chính sách

quản lý ngoại hối của chính phủ, NHN và NHNo&PTNTVN

Thanh toán quốc tế: đây là dịch vụ mang lại nguồn thu lớn cho Sở, nó góp phần giúp

cho hoạt động tín dụng và hoạt động kinh doanh ngoại hối thêm phần sôi nổi.

Dich vụ khác như dịch vụ thẻ tín dụng, két sắt, dịch vụ chiết khấu các loại giấy tờ có

giá, thẻ thanh toán uỷ thác cho vay người nghèo, uỷ thác cho thuê tài chính...

Đầu mối cân đối điều hoà nguồn vốn kinh doanh nội tệ đối với các chi nhánh trong

hệ thống NHNo&PTNTVN.

Thực hiện các nhiệm vụ khác được Tổng giám đốc NHNo&PTNTVN giao cho.

2.2 TÌNH HÌNH XUẤT NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN

QUA VÀ TRIỂN VỌNG TRONG TƯƠNG LAI

2.2.1 Tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam trong thời gian qua

Từ sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, nền kinh tế nước ta đang từng bước

phát triển và hội nhập cùng nền kinh tế thế giới. Với sự phát triển không ngừng của kinh

tế quốc tê, trong thời gian qua, hoạt động xuất nhập khẩu ở Việt Nam đã góp phần đáng

kể vào công cuộc Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước và góp phần hoàn thành

những nhiệm vụ đề ra trong Kế hoạch 5 năm 1996 - 2000.

Kế hoạch 5 năm 1996 - 2000 cho lĩnh vực xuất nhập khẩu tuy gặp khó khăn trong quá

trình thực hiện do tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính nhưng đã hoàn thành

về cơ bản. Hoạt động xuất nhập khẩu tiếp tục phát triển khá với tổng kim ngạch xuất

khẩu 5 năm từ 1996 - 2000 đạt trên 5,6 tỷ USD, tăng bình quân hàng năm trên 21% và

cao gấp 3 lần tốc độ tăng trưởng kinh tế. Tổng kim ngạch nhập khẩu trong 5 năm khoảng

61 tỷ USD với tốc độ tăng bình quân hàng năm khoảng 13,3%.

Năm 2000, kim ngạch xuất khẩu nước ta đạt trên 180 USD/người/năm tuy còn ở mức

thấp nhưng đã thuộc nhóm các nước có nền ngoại thương phát triển.

BẢNG 2.1 : Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt nam giai đoạn 1996 - 2000

Kim ngạch Tổng kim Kim ngạch Kim ngạch xuất Chỉ

xuất khẩu ( ngạch XNK so xuất khẩu so khẩu XK tiêu

triệu USD) GDP(%) GDP (%) (USD/người/năm)

7 255,9 80,0 31,5 96 1996

9 185,0 80,6 35,6 116 1997

9 360,3 77,7 35,1 116 1998

11 540,0 81,1 40,3 150 1999

14 308,0 95,7 46,4 180 2000

Nguồn: Tổng cục thống kê

BẢNG 2.2 : Cơ cấu hàng xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 1996 - 2000

Chỉ tiêu Năm 1996 Năm 2000

Cơ cấu hàng xuất khẩu 100% 100%

42,3% 30% - Nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản

29% 34,3% - Nhóm hàng công nghiệp nhẹ & tiểu thủ công

28,7% 35,7% nghiệp

- Nhóm hàng công nghiệp nặng - khoáng sản

Cơ cấu hàng nhập khẩu 100% 100%

87% 94,8% - Nhóm hàng tư liệu sản xuất

13% 5,2% - Nhóm hàng tiêu dùng

Nguồn: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX

Cơ cấu xuất nhập khẩu chuyển dịch theo hướng tích cực:

Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản tuy vẫn chiếm vị trí

quan trọng nhưng có xu hướng giảm dần, từ 42,3% năm 1996 xuống còn 30% năm 2000.

Tỷ trọng của nhóm hàng công nghiệp nhẹ, tiểu thủ công nghiệp và thủ công nghiệp tăng

tương ứng từ 29% năm 1996 lên 34,3% năm 2000. Tỷ trọng của nhóm hàng công nghiệp

nặng và khoáng sản tăng từ 28,7% năm 1996 lên 35,7% năm 2000. Tuy nhiên, cơ cấu

hàng xuất khẩu của Việt Nam vẫn còn bất hợp lý. Đó là do ở nước ta, xuất khẩu nguyên

liệu thô vẫn là chủ yếu, chiếm tỷ trọng trên 70% kim ngạch xuất khẩu. Trong khi đó, ở

Trung Quốc xuất khẩu nguyên liệu thô chỉ chiếm 16,3% năm 1994.

Tỷ trọng hàng tiêu dùng trong tổng kim ngạch nhập khẩu giảm đáng kể, từ 13% năm

1996 giảm xuống còn 5,2% năm 2000. Trong khi đó, tỷ trọng nhập khẩu tư liệu sản xuất

tăng từ 87% năm 1996 lên tới 94,8% năm 2000.

Thị trường xuất nhập khẩu của Việt Nam cũng không ngừng được củng cố và mở rộng

thêm. Thị trường châu Á chiếm gần 58% tổng kim ngạch xuất khẩu và trên 80% tổng kim

ngạch nhập khẩu cuả Việt Nam, trong đó riêng các nước ASEAN tương ứng chiếm trên

18% và 29%. Trên một số thị trường khác như EU, Mỹ, Trung Đông, hàng xuất khẩu của

Việt Nam cũng có mặt và kim ngạch xuất khẩu đang tăng dần. Trong thời gian qua, Mỹ

là một thị trường lớn của Việt Nam nhưng do Việt Nam chưa được hưởng Tối huệ quốc

nên thuế đánh vào hàng xuất khẩu cao nên hàng hoá của nước ta rất khó cạnh tranh, Tuy

nhiên kim ngạch xuất khẩu của Việt nam vào thị trường Mỹ cũng vẫn không ngừng tăng

lên.

BẢNG 2.3 : Tổng kim ngạch XNK của Việt Nam sang Mỹ giai đoạn 1995- 2001

Năm Xuất khẩu Nhập khẩu Tổng kim ngạch

Triệu % so với Triệu % so với Triệu % so với

USD USD năm năm USD năm

trước trước trước

130 170 - - 400 - 1995

246 201 20 89,2 450 12,5 1996

46 273 34 69,1 689 51 1997

326 469 71,8 -21,6 795 15,4 1998

335 504 7,5 2,8 839 5,5 1999

352 732 45,2 5,1 1084 48,1 2000

370 1000 36,6 5,1 1370 26,5 2001

Nguồn: Thời báo kinh tế số ra ngày 30/11/2001

Từ bảng trên ta nhận thấy kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt nam với Hoa Kỳ không

ngừng tăng lên trong các năm từ 1995 đến 2001. Năm 1995, tổng kim ngạch xuất nhập

khẩu là 400 triệu USD, sang năm 1996, tổng kim ngạch tăng lên 450 triệu USD, tăng

12,5% so với năm 1995, năm 1997 tăng 51% so với năm 1996, năm 1998 tổng kim ngạch

tăng 15,4% so với năm 1997. Và tổng kim ngạch xuất nhập khẩu sang Mỹ năm 2001 tăng

26,5% so với năm 2000. Tính bình quân trong 7 năm từ 1995 đến 2001, hàng hoá của

Việt Nam xuất vào thị trường Mỹ mỗi năm đạt 480 triệu USD và nhập khẩu từ Mỹ đạt

310 triệu USD. Nếu so sánh với tỷ lệ tăng nhập khẩu của Việt Nam từ Hoa Kỳ thì tốc độ

hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ nhanh hơn.

Những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Mỹ là: cà phê, chè, hạt tiêu,

hải sản, hạt điều, rau quả chế biến...Rau quả chế biến của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ

chủ yếu là dứa hộp : trong năm 1998, xuất khẩu dứa hộp đạt 2 triệu USD, đứng thứ 8

trong số các nước xuất khẩu dứa hộp vào thị trường Mỹ.

Hiện nay, Việt Nam đang đứng thứ 76 về tổng kim ngạch buôn bán với Mỹ và đứng

thứ 71/229 nước xuất khẩu hàng hoá vào thị trường Mỹ. Tuy nhiên, tỷ trọng hàng hoá

Việt Nam xuất sang Hoa Kỳ mới chiếm tỷ trọng khoảng 0,05% tổng giá trị nhập khẩu của

Hoa Kỳ.

Trong thời gian tới khi Hiệp định thương mại Việt Mỹ được thực thi thì Mỹ là một thị

trường tiềm năng của Việt Nam và cơ hội xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp Việt

Nam sang Mỹ tăng đáng kể. Nếu hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ chiếm tỷ

trọng 2% tổng giá trị nhập khẩu của Mỹ thì kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ

đạt gần 1,8 tỷ USD.

2.2.2 Triển vọng xuất nhập khẩu của Việt Nam trong tương lai

Hiệp định thương mại Việt - Mỹ chính thức có hiệu lực ngày 10/12/2001. Việc HĐTM

này được thực thi mang lại cho các doanh nghiệp Việt Nam cơ hội xuất nhập khẩu, nhất

là xuất khẩu. Mỹ là nước có nền kinh tế mạnh nhất thế giới, quan hệ thương mại phát

triển mạnh mẽ. Mỹ còn là thị trường tiêu thụ hàng hoá khổng lồ và tương đối dễ tính,

không quá khắt khe khi thâm nhập như các thị trường Nhật Bản và các nước châu Âu.

Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng năm của Mỹ là 1500 tỷ USD trong đó kim nghạch

nhập khẩu chiếm gần 920 tỷ USD, trong đó có một số mặt hàng mà Việt Nam có thế

mạnh là: dày dép, cao su, đồ gỗ, dệt may, hải sản, rau quả, cà phê. Nếu hàng hoá của Việt

Nam xuất khẩu sang Mỹ chiếm tỷ trọng 2% giá trị nhập khẩu của Mỹ thì kim ngạch xuất

khẩu của Việt Nam sang Mỹ đạt gần 1,8 tỷ USD.

Mức thuế của hàng hoá Việt Nam khi được hưởng Tối huệ quốc sẽ giảm bình quân từ

35%-40% xuống còn trên dưới 5%, trong đó có một số mặt hàng mà mức thuế giảm

mạnh làm tăng lợi thế cạnh tranh của các mặt hàng đó. Những mặt hàng này của Việt

Nam nhờ giảm thuế mà có thể xuất khẩu được:

BẢNG 2. 4 : Mức thuế của hàng Việt Nam khi xuất khẩu vào Mỹ

Mức thuế (%)

TT Loại hàng hoá Không có tối huệ Có tối huệ quốc

quốc

23,6 5,8 1. Gạo đã chế biến

35,4 8,2 2. Hạt có dầu

68,9 3,4 3. Hàng may mặc

33 5,6 4. Sản phẩm da

30,3 4,3 5. Sản phẩm hoá chất,cao

su,nhựa

41,6 4,3 6. Sản phẩm khoáng chất

34 2,8 7. Thiết bị điện tử

55,1 10,3 8. Hàng dệt

Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam số ra ngày 30/11/2001

Khi thâm nhập vào thị trường Mỹ, các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội là thuế suất

thấp và thị trường rộng lớn. Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội thì tiềm ẩn không ít những

thách thức. Vì vậy, để có thể tiếp cận và không ngừng mở rộng thị trường, để có thể xâm

nhập vào thị trường Mỹ hoặc thị trường bất cứ quốc gia nào thì điều cần thiết là Chính

phủ có các giải pháp, định hướng kịp thời, đúng đắn và bản thân các doanh nghiệp kinh

doanh xuất nhập khẩu phải chủ động khai thác thị trường và vận dụng khôn khéo các quy

định ưu đãi cho các nước đang phát triển...

2.3 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TÀI TRỢ XNK TẠI SGDI - NHNo

&PTNTVN

2.3.1 Những thuận lợi và khó khăn trong hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu

tại SGDI

2.3.1.1 Những thuận lợi

NHNo &PTNTVN đã có chương trình hành động trong những năm tới để thực hiện

Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ IX của Ban cán sự Đảng Ngân hàng Nhà nước. Bên

cạnh đó, thống đốc NHNo &PTNTVN cũng đã đề ra giải pháp để thực hiện đúng nội

dung, lộ trình của Đề án cơ cấu lại NHNo&PTNTVN 2001- 2010 đã được Chính phủ phê

duyệt. Thêm vào đó, hệ thống văn bản quy phạm về hoạt động ngân hàng, hoạt động tín

dụng và những văn bản liên quan của NHNo &PTNTVN và của SGDI ngày càng đầy đủ,

chặt chẽ hơn. Đây chính là hành lang pháp lý giúp hạn chế rủi ro trong kinh doanh, tạo

tính chủ động cho Sở thực hiện cho vay khách hàng có tín nhiệm và chưa tín nhiệm và

cũng là định hướng cho hoạt động tín dụng của SGDI.

Hoạt động trên dịa bàn thủ đô Hà Nội, Sở có khả năng lớn về huy động vốn và tiếp

xúc với các doanh nghiệp lớn kinh doanh xuất nhập khẩu. Đó là bởi vì 75% các doanh

nghiệp của Tổng công ty 90, Tổng công ty 91 đóng trụ sở tại Hà Nội, nhiều doanh nghiệp

ở Hà Nội có vị trí đầu mối, chi phối một vùng. Sở còn có thể học hỏi thêm kinh nghiệm

trong hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu từ các ngân hàng thương mại lớn cùng

địa bàn.

Hoạt động trên dịa bàn thủ đô Hà Nội, Sở còn nhận được sự chỉ đạo trực tiếp và có

tính tổng lực từ ngân hàng "mẹ" khi cần thiết.

SGDI còn có đội ngũ cán bộ điều hành và đội ngũ cán bộ chuyên môn có năng lực,

nhiệt tình, tâm huyết và còn trẻ. Đội ngũ cán bộ này thường xuyên được đào tạo và

trưởng thành dần trong kinh doanh sẽ là nền tảng cho sự phát triển hoạt động kinh doanh

của Sở.

Trong năm 2001, Sở tăng thêm nhiều nhân sự cho tổ thanh toán quốc tế và phòng tín

dụng, điều này giúp cho hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu của Sở trong thời gian tới phát

triển mạnh mẽ hơn.

2.3.1.2 Những khó khăn

* Những khó khăn về môi trường pháp lý

Hầu hết các giao dịch thanh toán bằng phương pháp tín dụng chứng từ đều tuân theo

UCP nhưng UCP chỉ là thông lệ quốc tế và nếu UCP trái với luật quốc gia thì phải tuân

theo luật quốc gia. Hiện nay, do chưa có một văn bản pháp lý nào quy định cụ thể các

tranh chấp liên quan đến thanh toán bằng L/C hoặc phương pháp thanh toán khác nên

ngân hàng và các doanh nghiệp sẽ gặp rủi ro khi có tranh chấp xảy ra.

Luật doanh nghiệp ra đời tạo điều kiện cho doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát triển

nhưng về góc độ nào đó thì doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn gặp nhiều khó khăn

trong việc tiếp cận vốn vay ngân hàng. Đó là bởi ngân hàng thường không muốn đầu tư

cho thành phần kinh tế ngoài quốc doanh khi không có tài sản thế chấp.

* Những khó khăn về môi trường kinh doanh

Hà Nội là nơi hội tụ của nhiều tổ chức tín dụng. Hiện nay trên địa bàn Hà Nội có 26

SGD và chi nhánh thành viên của các NHTMQD. Hà Nội còn có mạng lưới của

NHTMCP với 5 SGD & 9 chi nhánh, ngân hàng nước ngoài với 3 chi nhánh & 2 chi

nhánh phụ, ngân hàng liên doanh với SGD & 2 chi nhánh. Trong khi đó, SGDI chỉ mới

tham gia hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu từ năm 1998 nên các cán bộ còn chưa có nhiều

kinh nghiệm. Vì vậy, hoạt động này của Sở gặp nhiều bất lợi so với các ngân hàng

thương mại khác như ngân hàng Ngoại thương, ngân hàng Đầu tư, các chi nhánh ngân

hàng nước ngoài tại Hà Nội... là những ngân hàng chuyên doanh phục vụ xuất nhập khẩu

lâu năm với bề dày kinh nghiệm và họ đã chiếm lĩnh hầu hết khách hàng kinh doanh xuất

nhập khẩu.

Trên địa bàn Hà Nội hiện nay đang diễn ra cuộc cạnh tranh quyết liệt giữa các ngân

hàng trong việc giành giật khách hàng là DNNN thành viên của các Tổng công ty 90,

Tổng công ty 91, các công ty cổ phần, các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và những

khách hàng có nguồn USD. Trong cuộc cạnh tranh này, lợi thế thuộc về ngân hàng nước

ngoài, chi nhánh liên doanh và các NHTM trong nước có năng lực tài chính cao, bình

quân lãi suất đầu vào thấp, có công nghệ thanh toán hiện đại.Thêm vào đó, trong lĩnh vực

huy động tiền gửi và cho vay hiện nay đã có sự cạnh tranh ngày càng gay gắt bằng công

cụ lãi suất giữa các ngân hàng, thậm chí giữa các chi nhánh theo xu hướng hạ thấp lãi

suất, giải quyết nhanh gọn nhu cầu của khách hàng lớn.

* Những khó khăn từ phía các doanh nghiệp xuất nhập khẩu

Do thời gian mở cửa hội nhập chưa lâu nên các doanh nghiệp Việt Nam chưa có nhiều

kiến thức và kinh nghiệm trong làm ăn, kinh doanh với nước ngoài. Trong khi đó, các

đối tác nước ngoài lại là các chuyên gia có kinh nghiệm, đã kinh doanh lâu trên thương

trường quốc tế làm cho các doanh nghiệm Việt Nam không tránh khỏi thiệt thòi khi làm

ăn với họ. Thêm vào đó, sự hiểu biết về thông lệ, luật pháp quốc tế, luật pháp của nước

đối tác của các doanh nghiệp Việt Nam rất hạn chế nên khi xảy ra rủi ro, tranh chấp thì

doanh nghiệp Việt Nam thường là người chịu thiệt mà ngân hàng là người hỗ trợ vốn cho

các doanh nghiệp nên ngân hàng cũng bị ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh.

Ngân hàng là người tư vấn cho các doanh nghiệp nhưng nhiều khi do trình độ có hạn

nên các doanh nghiệp không thực hiện theo lời tư vấn của ngân hàng dẫn đến việc doanh

nghiệp bị lừa hoặc chịu thiệt trong kinh doanh. Doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả

cũng làm ảnh hưởng đến lợi nhuận và hoạt động của ngân hàng.

Bên cạnh những bất lợi do trình độ và kinh nghiệm có hạn của doanh nghiệp mang lại,

doanh nghiệp và ngân hàng còn gặp khó khăn do thực lực tài chính của các doanh nghiệp

kinh doanh xuất nhập khẩu Việt Nam còn quá yếu. Có rất nhiều doanh nghiệp kinh doanh

chủ yếu bằng vốn vay ngân hàng nên nếu buôn bán với nước ngoài bị thua lỗ thì sẽ ảnh

hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh và hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.

* Những khó khăn từ phía SGDI

Như đã phân tích ở trên, hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của Sở chỉ mới bắt

đầu từ năm 1998 nên các cán bộ làm công tác này còn chưa có nhiều kinh nghiệm, phải

vừa làm vừa học hỏi. Năng lực cán bộ tín dụng không đồng đều. Cán bộ làm nghiệp vụ

này phần lớn là mới, chưa qua lớp tập huấn chính thức nhưng do số lượng công việc ngày

một nhiều nên phải bắt tay ngay vào công việc. Mặt khác, thời gian để truyền đạt kinh

nghiệm và kiến thức của những cán bộ đi trước cho những cán bộ mới là ít nên đôi khi

còn sai sót trong nghiệp vụ.

Sở giao dịch I chưa tự cân đối được nguồn ngoại tệ giữa xuất và nhập. Thêm vào đó,

nguồn ngoại tệ Sở huy động được chủ yếu gửi Sở đầu mối để hưởng phí nên Sở phải phụ

thuộc vào cơ chế và phí điều hoà làm cho sự chủ động trong sử dụng vốn chưa cao.

Khi thực hiện mở L/C nhập khẩu, việc quyết định mức ký quỹ là rất quan trọng nhưng

hiện nay, theo quyết định 447/NHNo ngày 7/6/2001 quy định về quy trình và kỹ thuật

nghiệp vụ thanh toán quốc tế trong hệ thống NHNo chưa quy định cụ thể mức ký quỹ tối

đa và mức ký quỹ tối thiểu trong từng thời kỳ. Vì vậy, chưa có mức ký quỹ thống nhất

cho từng đối tượng khách hàng. Khi mức ký quỹ không được đảm bảo chắc chắn thì nếu

có rủi ro tỷ giá xảy ra, ngân hàng mở L/C (Sở I) sẽ chịu thiệt thòi. Nếu Sở đã thanh toán

tiền hàng cho nhà xuất khẩu (vì L/C phù hợp bộ chứng từ) mà người nhập khẩu không

thanh toán cho ngân hàng vì tỷ lệ ký quỹ nhỏ hơn tỷ lệ trượt giá của nội tệ thì Sở I là

người chịu rủi ro.

Bên cạnh đó, trang thiết bị của SGDI còn chưa hiện đại bằng một số ngân hàng

thương mại khác nên cũng làm giảm phần hấp dẫn khách hàng, đặc biệt là khách hàng

nước ngoài.

2.3.2 Nguồn vốn huy động tại SGDI

Nguồn vốn luôn đóng vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của một ngân

hàng. Để có nguồn vốn phục vụ tín dụng xuất nhập khẩu mà đặc biệt là nguồn ngoại tệ,

SGDI phải huy động vốn từ nhiều nguồn.

Tình hình huy động vốn của SGDI từ năm 1999 đến năm 2001 được thể hiện qua bảng

sau:

BẢNG 2.5 : Tình hình huy động vốn của Sở giao dịch I năm 1999- 2001

Đơn vị: Triệu đồng, USD

Chỉ tiêu 1999 2000 2001

Doanh số Doanh số % so Doanh số % so

với với

năm năm

trước trước

+ 55,0 1. Nguồn nội tệ 2 337 900 1 822 000 - 22,0 2 824 000

1 477 997 200 - 32,5 997 000 - 0,2 - Không kỳ hạn

+ 700 224 800 - 37,6 527 000 - Có kỳ hạn

360 200 600 000 + 20,0 1 300 000 134,4 - Tiền vay các TCTD,

+ 500 000 TCKT

116,7

+ 2. Nguồn ngoại tệ 15 321 30 233 000 + 97,3 36 700 000

2 866 000 + 5,7 2 400 000 111,0 - Không kỳ hạn 574

2 712 112 27 367 000 + 34 300 000 - 16,3 - Có kỳ hạn

12 609 117,4 + 25,3

462

Tổng nguồn vốn 2 553 672 2 260 000 - 3 379 000 + 49,0

11,5

Nguồn: Báo cáo tổng kết kinh doanh 1999-2001

Qua bảng trên ta thấy, tổng nguồn vốn huy động của SGDI năm 2000 là 2.260 tỷ đồng

( bao gồm cả USD quy đổi ), giảm 11,5% so với năm 1999. Trong đó, nguồn vốn huy

động nội tệ năm 2000 là 1.822 tỷ đồng, giảm 22% so với năm 1999; nguồn vốn huy động

ngoại tệ năm 2000 là 30.233 ngàn USD, tăng 97,3% so với năm 1999. Sở dĩ tổng nguồn

vốn huy động của Sở giảm, trong đó nguồn nội tệ giảm còn nguồn ngoại tệ tăng mạnh là

do trong năm 2000, tỷ giá USD không ngừng tăng làm cho người dân có xu hướng rút

VND để mua USD gửi vào ngân hàng vì lo sợ việc đồng Việt Nam mất giá. Bên cạnh đó,

dù cho lãi suất VND tăng cao hơn USD nhưng vẫn không đủ bù đắp mức độ trượt giá của

VND so với USD nên người ta cảm thấy an tâm hơn khi nắm giữ USD.

Trong năm 2001, tổng nguồn vốn huy động của Sở tăng mạnh cả về nguồn nội tệ lẫn

ngoại tệ. Tính đến 31/2/2001, tổng nguồn vốn huy động tại Sở là 3379 tỷ đồng (bao gồm

cả USD quy đổi), tăng 49% so với năm 2000. Trong đó, nguồn vốn nội tệ là 2.824 tỷ

đồng, tăng 55% so với năm 2000; nguồn vốn ngoại tệ là 36,7 triệu USD, tăng 111% so

với năm 2000.

Việc tăng trưởng mạnh nguồn vốn tại Sở năm 2001 là do Sở đã áp dụng hình thức huy

động đa dạng (tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu...), thực hiện trả lãi huy động linh hoạt hơn và

Sở cũng thực hiện phân loại khách hàng để giảm phí thanh toán cho khách hàng. Bên

cạnh đó, trong năm 2000 và 2001, tỷ giá ngoại tệ luôn biến động theo xu hướng tăng nên

khách hàng chủ yếu gửi tiền vào ngân hàng để lấy lãi và chờ giá ngoại tệ tăng. Đây cũng

là một lý do dẫn đến nguồn vốn ngoại tệ tại Sở tăng nhanh.

Trong năm 2001, nguồn vốn huy động ngoại tệ là 36,7 triệu USD, đạt 111% so với

năm 2000. Trong đó tiền gửi không kỳ hạn là 2,4 triệu USD (chiếm tỷ trọng 6,5%), giảm

16,3% so với năm 2000; tiền gửi có kỳ hạn là 34,3 triệu USD (chiếm tỷ trọng 93,5%),

tăng 25,3% so với năm 2000. Nguồn ngoại tệ không kỳ hạn giảm và nguồn ngoại tệ có kỳ

hạn tăng chứng tỏ nguồn vốn của Sở ổn định hơn, đây là một thuận lợi cho hoạt động tín

dụng của Sở.

Nguồn vốn nội tệ và nhất là nguồn ngoại tệ huy động tăng nhanh trong thời gian qua

sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Sở trong công tác tài trợ xuất nhập khẩu trong tương lai.

2.3.3 Quy chế hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại SGDI

Hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại SGDI hiện nay đang được thực hiện

theo Quyết định số 284/2000/NHNN1 ngày 25/08/2000 của thống đốc NHNN về viêc

ban hành Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng và hướng dẫn cụ thể

theo quyết định số 06/QĐ - HĐQT ngày 18/01/2001 của Chủ tịch Hội đồng quản trị

NHNo&PTNTVN.

* Mục đích cho vay

SGDI tài trợ vốn cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu đặc biệt là các

doanh nghiệp nhập khẩu đủ khả năng tài chính để thực hiện hợp đồng nhập hàng và thanh

toán tiền hàng cho nhà xuất khẩu. Sở cũng cho các doanh nghiệp xuất khẩu vay để bổ

sung nhu cầu vốn tạm thời trong quá trình thu mua, chế biến hàng xuất khẩu và đối với

những doanh nghiệp xuất khẩu lớn, có uy tín, Sở cho vay để đáp ứng nhu cầu tiếp tục sản

xuất sau khi xuất khẩu mà chưa nhận được tiền hàng.

* Đối tượng cho vay

SGDI tài trợ cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu để thực hiện một trong

các hoạt động sau:

- Nhập khẩu vật tư hàng hoá, nguyên vật liệu sản xuất kinh doanh, máy móc thiết bị,

phụ tùng thay thế nhằm mở rộng sản xuất, cải tiến kỹ thuật.

- Thực hiện các dự án sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu có thị trường xuất khẩu.

- Thực hiện thanh toán số tiền thuế xuất khẩu, nhập khẩu phải nộp để làm thủ tục xuất

nhập khẩu mà giá trị lô hàng đó NHNo cho vay.

- Cho vay thanh toán các chi phí liên quan đến vận tải, bảo hiểm nước ngoài.

* Nguyên tắc cho vay

Khách hàng vay vốn của Sở phải đảm bảo 3 nguyên tắc sau:

1. Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng

Trong quá trình cho vay, Sở sẽ kiểm tra việc sử dụng vốn vay của khách hàng. Khách

hàng vay vốn phải sử dụng vốn đúng mục đích thoả thuận trong hợp đồng tín dụng, nếu

không Sở sẽ thu hồi vốn trước hạn.

2. Hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín

dụng.

Khách hàng và SGDI sẽ thoả thuận số tiền vay, lãi suất vay, thời hạn vay vốn. Khi đến

hạn, khách hàng có nghĩa vụ thanh toán đầy đủ cả gốc và lãi cho Sở. Nếu không, Sở sẽ tự

động trích tài khoản của khách hàng để thu nợ và nếu tài khoản của khách hàng không đủ

số dư thì Sở sẽ chuyển sang nợ quá hạn và khách hàng phải chịu lãi suất phạt. Nếu như

khách hàng không còn khả năng trả nợ thì Sở sẽ phát mại tài sản cầm cố, thế chấp của

khách hàng.

3. Việc đảm bảo tiền vay phải được thực hiện theo quy định của Chính phủ, Thống

đốc NHNN và hướng dẫn về bảo đảm tiền vay của NHN0 đối với khách hàng.

* Điều kiện cho vay

SGDI xem xét và quyết định cho vay khi khách hàng có đủ các điều kiện sau:

- Phải có tư cách pháp nhân và có thời gian hoạt động còn lại phù hợp với thời gian

vay vốn.

- Phải có vốn tự có tối thiểu bằng giá trị thực có của vốn điều lệ. Những tài sản hình

thành bằng vốn vay phải mua bảo hiểm tại 1 công ty bảo hiểm được phép hoạt động hợp

pháp tại Việt Nam và khách hàng cam kết sử dụng số tiền được bồi thường khi gặp rủi ro

để trả nợ cho Sở.

- Có dự án khả thi

- Kinh doanh có lãi, không có nợ quá hạn trên 1 năm

- Được phép kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp

- Có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc được bảo lãnh

Ngoài ra, Sở còn có thêm điều kiện cụ thể với từng đối tượng như sau:

* Cho vay các dự án sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu có thị trường xuất khẩu:

+ Khách hàng sản xuất, chế biến, kinh doanh hàng xuất khẩu phải có thị trường tiêu thụ.

* Cho vay dưới hình thức chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất

+ Ngân hàng mở L/C là ngân hàng có uy tín.

+ Khách hàng mở tài khoản và có quan hệ thường xuyên với NHNo.

+ Chứng từ hoàn toàn phù hợp các điều khoản và điều kiện của L/C.

+ Thị trường truyền thống được phép xuất khẩu tại Việt Nam

+ Số tiền chiết khấu tối đa là 95% giá trị L/C.

+ Thư yêu cầu thanh toán và đơn xin chiết khấu phải có chữ ký của chủ tài

khoản và kế toán trưởng.

* Cho vay thanh toán tiền nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ phục vụ cho hoạt động sản

xuất kinh doanh.

+ Khách hàng được phép kinh doanh nhập khẩu

+ Được cấp giấy phép hoặc hạn ngạch nhập khẩu đối với mặt hàng nhập khẩu

xin vay.

* Giới hạn cho vay

Theo quyết định số 11/QĐ - HĐQT về việc ban hành quy định phân cấp phán quyết

cho vay tối đa đối với một khách hàng thì SGD I được phán quyết cho vay tối đa như sau:

- Đối với khách hàng là doanh nghiệp nhà nước: 100 tỷ VND

- Đối với khách hàng là doanh nghiệp ngoài quốc doanh: 20 tỷ VND

Đối với trường hợp khách hàng có nhu cầu vay vốn vượt quyền phán quyết theo phân

cấp của SGD I, giám đốc Sở phải thông qua ý kiến của Hội đồng tín dụng cùng cấp để

trình lên ngân hàng cấp trên quyết định.

Mức cho vay đối với tài sản thế chấp là 70% giá trị tài sản, đối với tài sản cầm cố do

khách hàng giữ là 50% giá trị tài sản. Mức cho vay tối đa đối với bộ chứng từ hàng xuất

là 95% giá trị thanh toán mà khách hàng được thụ hưởng của bộ chứng từ hoàn hảo.

* Thời hạn cho vay

Có 3 loại thời hạn cho vay tại SGD I:

- Ngắn hạn: dưới 12 tháng

- Trung hạn: từ 12 tháng đến 60 tháng

- Dài hạn: trên 60 tháng

Hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu tại Sở hiện nay chủ yếu là ngắn hạn.

* Đồng tiền cho vay và trả nợ

Sở cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu vay bằng VND và các loại ngoại tệ trong đó

USD là ngoại tệ cho vay chủ yếu. Sở cũng cho vay một số loại ngoại tệ khác như: DEM,

EURO, JPY... theo yêu cầu của khách hàng.

Quyết định số 06/QĐ- HĐQT ngày 18/ 01/ 2000 của Chủ tịch hội đồng quản trị

NHNo&PTNTVN quy định: ngoại tệ cho vay được sử dụng để chuyển trả nước ngoài

theo các phương thức thanh toán quốc tế thực hiện trong hệ thống NHNo&PTNT; trường

hợp chuyển cho NHTM khác thực hiện thanh toán quốc tế phải được sự chấp thuận bằng

văn bản của Tổng giám đốc NHNo&PTNTVN.

Khách hàng vay bằng ngoại tệ nào thì phải trả bằng ngoại tệ đó. Trong trường hợp

khách hàng đề nghị trả nợ bằng ngoại tệ khác với ngoại tệ đã vay hoặc đề nghị trả nợ

bằng VND thì phải được giám đốc Sở đồng ý và thoả thuận tỷ giá quy đổi với khách

hàng.

* Lãi suất cho vay

- Cho vay bằng VND

Đối với các doanh nghiệp kinh doanh hàng xuất khẩu thu ngoại tệ về Sở thì lãi suất ưu

đãi hơn: 0,6%/ tháng.

Đối với công ty xuất nhập khẩu Lào - Việt, công ty giống rau quả, công ty vật tư nông

sản, công ty kim khí Hà Nội, công ty vật tư bảo vệ thực vật I, lãi suất là 0,65%/ tháng.

Đối với công ty cổ phần thức ăn chăn nuôi Pháp - Việt, công ty xuất nhập khẩu đầu tư

xây dựng Hà Nội, công ty giống cây trồng trung ương I, lãi suất là 0,7%/ tháng.

- Cho vay bằng ngoại tệ: được thực hiện theo quy định 241/2000/NHNN1 về lãi suất

cho vay ngoại tệ của NHNN và quy định của Tổng giám đốc NHNo&PTNTVN.

Lãi suất cho vay = lãi suất SIBOR + biên độ giao động nhất định

Lãi suất cho vay ngắn hạn = lãi suất SIBOR kỳ hạn 3 tháng + 1%

* Quy trình cho vay

Tại SGD I, quy trình tài trợ tín dụng xuất nhập khẩu cũng giống như quy trình tín dụng

nói chung.

* Thủ tục tài trợ

Khi có nhu cầu về tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng, khách hàng đến ngân hàng

xin tài trợ và nộp các hồ sơ liên quan để ngân hàng có căn cứ xét duyệt. Các giấy tờ liên

quan gồm có: hồ sơ pháp lý, hồ sơ kinh tế, hồ sơ vay vốn và các giấy tờ liên quan khác

tuỳ theo từng đối tượng vay vốn.

- Đối với khách hàng vay để sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu có thị trường xuất

khẩu thì phải gửi thêm hợp đồng xuất khẩu hoặc hợp đồng sản xuất, chế biến xuất khẩu.

- Đối với khách hàng xin chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất thì phải có cam kết của

khách hàng đồng ý cho SGD I được quyền tự động trích tài khoản của khách hàng để thu

nợ khi tiền hàng xuất khẩu về ngân hàng.

- Đối với khách hàng vay thanh toán cho nước ngoài tiền nhập khẩu hàng hoá thì phải

gửi thêm : giấy phép kinh doanh nhập khẩu, giấy phép hoặc hạn ngạch nhập khẩu.

* Thẩm định hồ sơ

Cán bộ tín dụng thẩm tra lại các thông tin về khách hàng dựa trên cuộc phỏng vấn

tiếp xúc trực tiếp với khách hàng và qua hồ sơ khách hàng cung cấp.

Cán bộ tín dụng phải thẩm định các nội dung sau theo quy định của

NHNo&PTNTVN:

- Thẩm định tính hợp pháp của hồ sơ pháp lý

- Thẩm định tình hình tài chính của khách hàng.

- Thẩm định phương án, dự án của khách hàng. Ngân hàng phải xem xét tính hợp pháp

về mục đích sử dụng vốn vay, tính hợp pháp hợp lệ của kế hoạch sản xuất kinh doanh của

khách hàng, tính khả thi và hiệu quả của dự án, nhu cầu vay vốn của khách hàng và khả

năng trả nợ của khách hàng, thị trường tiêu thụ sản phẩm, khả năng cho vay của ngân

hàng.

- Thẩm định tài sản đảm bảo

* Lập tờ trình

Trong vòng 10 ngày kể từ khi nhận được hồ sơ khách hàng, cán bộ tín dụng lập báo

cáo thẩm định trình lên trưởng phòng tín dụng. Báo cáo này phải nêu rõ tình hình tài

chính của doanh nghiệp, nhu cầu vốn, số tiền xin tài trợ, tính khả thi , hiệu quả của

phương án kinh doanh và kiến nghị của cán bộ tín dụng có nên cho vay hay không.

Trưởng phòng tín dụng căn cứ ý kiến của cán bộ tín dụng đồng thời xem xét lại hồ sơ

và cho ý kiến để trình lên ban giám đốc Sở xét duyệt. Nếu món vay thuộc quyền phán

quyết của giám đốc Sở và đủ điều kiện để cho vay, cán bộ tín dụng sẽ hướng dẫn khách

hàng lập hợp đồng tín dụng theo mẫu 16/TD, lập giấy nhận nợ, hợp đồng bảo đảm tiền

vay. Nếu không đủ điều kiện cho vay, cán bộ tín dụng phải ghi rõ lý do để giải thích cho

khách hàng và trả lại hồ sơ xin vay.

Trong trường hợp vốn vay vượt mức phán quyết của Sở thì trình ra hội đồng tín dụng

Sở giao dịch đầu mối để xin ý kiến.

* Phát tiền vay

Sau khi khách hàng có đủ 30% vốn tự có để tham gia vào dự án xin vay, Sở sẽ tiến

hành giải ngân theo từng bước như đã cam kết trong hợp đồng.

* Kiểm tra và xử lý nợ vay

Trong quá trình cấp tín dụng, cán bộ tín dụng phải thường xuyên kiểm tra và giám sát

chặt chẽ quá trình vay vốn của khách hàng. Nếu phát hiện việc sử dụng sai mục đích hay

những sai lệch trong quá trình sử dụng vốn thì cán bộ tín dụng có trách nhiệm báo ngay

cho kế toán để ngưng ngay việc phát tiền vay và tiến hành thu nợ trước hạn hoặc chuyển

nợ quá hạn.

* Tính lãi, thu lãi, thu nợ, gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ, chuyển nợ quá hạn.

Ngân hàng sẽ tính lãi theo lãi suất hai bên đã thoả thuận tại thời điểm ký kết hợp

đồng. Sắp đến ngày đáo hạn thì ngân hàng phải thông báo cho khách hàng biết để chuẩn

bị tiền trả nợ cho ngân hàng.

- Gia hạn nợ

Khi nợ đến hạn nhưng khách hàng chưa trả được nợ do những nguyên nhân khách

quan như giá cả biến động theo chiều hướng không có lợi và các nguyên nhân bất khả

kháng thì khách hàng phải có giấy đề nghị gia hạn nợ gửi SGD I trước ngày đến hạn nợ

để Sở có thể xem xét, quyết định.

Thời gian gia hạn nợ đối với nợ ngắn hạn tối đa bằng một chu kỳ sản xuất kinh doanh

của đối tượng vay nhưng không quá 12 tháng.

- Điều chỉnh kỳ hạn trả nợ

Trong một số trường hợp , Sở và khách hàng sẽ thoả thuận để điều chỉnh kỳ hạn trả

nợ. Đó là các trường hợp sau:

. Khách hàng có khả năng tài chính để trả nợ lớn hơn hoặc nhỏ hơn mức thoả thuận.

. Nhà nước thay đổi chính sách làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh

xuất nhập khẩu của khách hàng.

. Chu kỳ sản suất, kinh doanh của khách hàng thay đổi

. Thị trường trong nước và nước ngoài có biến động

- Chuyển nợ quá hạn

Đối với nợ đến kỳ hạn cuối cùng (tính cả thời gian cho gia hạn nợ) và các phân kỳ nợ

đã thoả thuận cụ thể trong hợp đồng tín dụng, nếu không được Sở gia hạn thêm hoặc điều

chỉnh kỳ hạn nợ mà khách hàng không trả được nợ thì Sở sẽ chuyển sang nợ quá hạn và

báo cho khách hàng biết. Khách hàng sẽ phải chịu lãi suất phạt bằng 150% lãi suất ghi

trong khế ước.

Nếu khách hàng sử dụng vốn sai mục đích thoả thuận trong hợp đồng, Sở sẽ chấm dứt

cho vay, thực hiện thu hồi nợ vay hoặc chuyển sang nợ quá hạn.

* Thanh lý hợp đồng tín dụng

Sau khi khách hàng hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi tiền vay, cán bộ tín dụng đối chiếu

xác nhận với kế toán và đóng hồ sơ tài trợ lại, chuyển vào hồ sơ lưu của khách hàng.

Quy trình thực hiện tài trợ đến đây là kết thúc.

2.3.4 Các hình thức tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại SGDI

Các hình thức tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại SGDI được thực hiện theo Quyết

định số 447/NHNo- HĐQT ngày 7/6/2001 của Tổng giám đốc NHNo&PTNTVN về việc

việc ban hành Quy định về Quy trình và kỹ thuật nghiệp vụ thanh toán quốc tế trong hệ

thống NHNo. Hiện nay, Sở đang thực hiện các hình thức tài trợ là: mở L/C, cho vay thanh

toán L/C, cho vay ký quỹ sửa đổi tăng giá L/C, cho vay thu mua hàng xuất khẩu. Các

hình thức này tuy chưa đa dạng, phong phú nhưng cũng góp phần đáng kể vào việc phát

triển hoạt động thanh toán quốc tế và hoạt động tín dụng của Sở.

2.3.4.1 Tài trợ xuất khẩu

* Cho vay thu mua hàng xuất khẩu

Sau khi nhận được L/C do ngân hàng mở L/C phát hành theo yêu cầu của nhà nhập

khẩu, nhà xuất khẩu có thể dựa vào đó để yêu cầu SGD I cấp một khoản tín dụng để thực

hiện xuất hàng theo quy định của L/C. Sở giao dịch sẽ xem xét các điều kiện cho vay để

quyết định cho vay hay không. Sở cho vay thu mua hàng xuất khẩu bằng nội tệ.

2.3.4.2 Tài trợ nhập khẩu

Mở L/C, cho vay ký quỹ sửa đổi tăng giá trị L/C, cho vay thanh toán L/C là hình

thức tài trợ nhập khẩu của Sở.

* Mở L/C

Khi khách hàng yêu cầu mở L/C, khách hàng phải gửi Sở bộ hồ sơ gồm :

+ Thư yêu cầu mở L/C

+ Hợp đồng nhập khẩu

+ Văn bản cho phép nhập khẩu của Bộ thương mại hoặc cơ quan quản lý chuyên ngành.

+ Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và giấy chứng nhận đăng ký mã số xuất nhập

khẩu.

Cán bộ ngân hàng sẽ xem xét, xác định mức ký quỹ trong vòng 8 giờ làm việc và

khách hàng phải chuyển đủ số tiền ký quỹ vào tài khoản ký quỹ trước khi ngân hàng mở

L/C. Sở không cho khách hàng vay để chuyển vào tài khoản ký quỹ.

* Cho vay ký quỹ sửa đổi tăng giá trị L/C

NHNo không cho khách hàng mở L/C vay để chuyển vào tài khoản ký quỹ. Ngân

hàng chỉ cho vay ký quỹ L/C khi có sửa đổi tăng giá trị L/C và khách hàng đề nghị thanh

toán bằng vốn vay của Sở. Lúc này, phòng tín dụng sẽ xét cho vay khoản vốn bổ sung

tương ứng.Nếu Sở cho vay thì sẽ hạch toán nội bảng số tiền ký quỹ bổ sung và hạch toán

ngoại bảng số tiền tăng giá trị L/C.

* Cho vay thanh toán L/C

Sau khi khách hàng nộp hồ sơ xin vay để thanh toán L/C hoặc xin vay chuyển tiền,

Sở tiến hành phân loại khách hàng, thẩm định hồ sơ như quy trình nêu trên.

Nếu đồng ý cho vay, Sở sẽ ký hợp đồng tín dụng ngoại tệ với khách hàng. Hợp đồng

tín dụng ngoại tệ là cơ sở pháp lý ràng buộc giữa khách hàng và ngân hàng, quy định rõ

quyền và nghĩa vụ của mỗi bên. Trách nhiệm của Sở là sắp xếp vốn để người vay lập thủ

tục thanh toán cho phía nước ngoài. Trách nhiệm của người vay là ký quỹ đầy đủ, chịu

chi phí ( chi phí mở L/C, chi phí chuyển tiền...), thanh toán gốc và lãi vốn vay đầy đủ và

đúng hạn...

Người vay mà cụ thể ở đây là người nhập khẩu phải có số vốn tự có đảm bảo giá trị

hàng hoá cần thanh toán. Sau khi ký hợp đồng tín dụng với ngân hàng, người vay phải

tiến hành ký quỹ một số tiền tỷ lệ với tổng vốn vay. Số tiền ký quỹ này là một phần vốn

tự có của người vay được xác định đối với từng khách hàng cụ thể dựa trên uy tín khách

hàng, mặt hàng nhập khẩu và mức ký quỹ cạnh tranh với các ngân hàng thương mại khác

trên cùng địa bàn. Mức ký quỹ này cũng trong khoảng mức ký quỹ tối thiểu và tối đa do

Tổng giám đốc NHNo&PTNTVN quy định trong từng thời kỳ.

2.3.5 Thực trạng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại SGDI

2.3.5.1 Doanh số cho vay

Doanh số cho vay là một chỉ tiêu quan trọng phản ánh mặt lượng của hoạt động tín

dụng tài trợ xuất nhập khẩu. Trong thời gian qua, doanh số cho vay trong hoạt động tài

trợ xuất nhập khẩu của SGDI như sau:

BẢNG 2.6 : Doanh số cho vay xuất nhập khẩu giai đoạn 1999 - 2001

Chỉ tiêu Đơn vị 1999 2000 2001

Số tiền % Số tiền % Số tiền %

Triệu Doanh số cho vay XNK 265.910 10 563.145 661.123 10 10

- Doanh số cho vay nội tệ đồng 264.428 466.825 604.426 0 0 0

- Doanh số cho vay ngoại Triệu 105.854 6.642.705 3.779.805 99, 82, 91,

tệ đồng 4 4 9

USD 0,6 8,6 17,

1

Triệu Doanh số cho vay của 662.800 1.302.400 1.316.093

đồng SGDI

Doanh số cho

40,12% 43,24% 50,23% % vay XNK

Tỷ trọng -------------------

-----------

Doanh số cho

vay của Sở

Nguồn: Báo cáo tổng kết kinh doanh 1999-2001

Từ năm 1998, Sở mới bắt đầu hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu nên ít khách hàng biết

hoạt động này. Sang năm 2000 và 2001, Sở chủ động tìm kiếm khách hàng và việc mở

rộng dịch vụ thanh toán quốc tế tạo cơ sở cho mở rộng tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu.

Để mở rộng thị phần và đa dạng các hình thức đầu tư, trong năm 2001, Sở đã tiếp cận các

công ty của Tổng công ty 90 - 91 như: Dầu khí, Bưu điện, Dệt may, Công nghiệp tàu

thuỷ.. để thẩm định và cho vay vốn. Sở cũng tiến hành phân tích thực trạng tín dụng năm

2000, phân loại nợ, phân loại khách hàng để có chính sách ưu đãi, mở rộng đầu tư... Sở

đã có thêm nhiều khách hàng mới có nhu cầu vốn lớn để thu mua chế biến hàng xuất

khẩu và nhập khẩu nguyên vật liệu như tổng công ty kim khí Hà Nội, tổng công ty xuất

nhập khẩu thuỷ sản Hà Nội...

Do vậy mà doanh số cho vay xuất nhập khẩu của Sở không ngừng tăng.

Doanh số tài trợ xuất nhập khẩu của Sở năm 1999 là 265.910 triệu đồng, chiếm tỷ

trọng 40,12% doanh số cho vay của Sở.

Doanh số cho vay tài trợ xuất nhập khẩu năm 2000 là 563.145 triệu đồng, chiếm tỷ

trọng 43,24% doanh số cho vay của Sở.

Doanh số cho vay tài trợ xuất nhập khẩu năm 2001 là 661.123 triệu đồng, chiếm tỷ

trọng 50,23% doanh số cho vay tại Sở.

* Doanh số cho vay nội tệ:

Đối với hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu, nhu cầu của khách hàng chủ yếu vay bằng

nội tệ nên cho số cho vay bằng nội tệ chiếm tỷ trọng lớn trong doanh số cho vay xuất

nhập khẩu tại Sở.

Năm 2000, doanh số cho vay nội tệ của Sở là 466.825 triệu VND, chiếm tỷ trọng

82,9% trong doanh số cho vay xuất nhập khẩu.

Năm 2000, doanh số cho vay nội tệ của Sở là 604.426 triệu VND, chiếm tỷ trọng

91,4% trong doanh số cho vay xuất nhập khẩu.

Sở dĩ nhu cầu vay nội tệ nhằm phục vụ hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu tại Sở tăng là

do trong năm 2001, giá USD tăng mạnh, tình trạng khan hiếm USD kéo dài gần như suốt

năm khiến cho khách hàng không dám vay ngoại tệ do sợ tỷ giá tăng làm cho phương án

kinh doanh rơi vào thua lỗ. Do vậy, khách hàng chuyển sang vay bằng nội tệ .

* Doanh số cho vay ngoại tệ

Bên cạnh việc Sở tài trợ xuất nhập khẩu bằng nội tệ, Sở cũng tài trợ bằng ngoại tệ, chủ

yếu là USD nhưng nhu cầu vay bằng ngoại tệ không nhiều do vay bằng ngoại tệ không có

lợi so với vay bằng nội tệ. Tuy nhiên, để tìm đầu ra cho nguồn vốn huy động ngoại tệ, Sở

đã rất cố gắng trong việc thuyết phục khách hàng xuất nhập khẩu vay vốn bằng ngoại tệ

để trả nợ phục vụ cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Cụ thể trong năm 2000,

các khách hàng lớn của Sở như Seaprodex Hà Nội, công ty kim khí Hà Nội, công ty xuất

nhập khẩu Lào - Việt đã vay trên 6,6 triệu USD.

BẢNG 2.7 : Doanh số cho vay tài trợ xuất nhập khẩu bằng ngoại tệ

Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001

USD USD USD % so với năm

2000

- 43 Doanh số cho vay 105.854 6.642.705 3.779.805

ngoại tệ

105 854 5 734 537 2 882 073 - 50 Doanh số thu nợ

0 836 168 1 733 900 + 107 Dư nợ ngoại tệ còn

0 0 0 0 Nợ quá hạn

Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh đối ngoại 1999-2001

Trong năm 2001, nhu cầu vay tín dụng bằng ngoại tệ của khách hàng giảm đi rõ rệt thể

hiện ở doanh số cho vay:

Năm 2000, doanh số cho vay ngoại tệ tài trợ xuất nhập khẩu là 6.642.705 USD

Năm 2000, doanh số cho vay ngoại tệ tài trợ xuất nhập khẩu là 3.779.805 USD, giảm

43% so với năm 2000

Doanh số cho vay bằng ngoại tệ năm 2001 giảm nhiều tuy lãi suất thực tính thấp hơn

lãi suất cho vay bằng VND. Nguyên nhân là do khách hàng vay vốn chủ yếu của Sở là

các đơn vị xuất nhập khẩu không có nguồn USD trả nợ trong khi tốc độ tăng tỷ giá cao

nên tâm lý khách hàng nhập khẩu muốn vay VND để giảm lỗ. Mặt khác, việc thanh toán

thường tập trung vào những thời điểm nhạy cảm nên giá USD cao, không đảm bảo

phương án kinh doanh có lãi đề ra. Thêm vào đó, NHNN chỉ ưu tiên bán ngoại tệ cho

nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu như xăng, dầu... Để có nguồn ngoại tệ giữ khách hàng,

Sở đã tranh thủ NHNN, NHNo&PTNTVN, tranh thủ các ngân hàng bạn và tranh thủ sự

cộng tác, thông cảm của khách hàng. Những nỗ lực của cán bộ phòng kế hoạch và kinh

doanh SGD I đã giúp cho SGD I tuy giảm doanh số cho vay ngoại tệ nhưng tổng doanh

số tài trợ xuất nhập khẩu vẫn không ngừng tăng.

Thời hạn tài trợ xuất nhập khẩu tại Sở chủ yếu là ngắn hạn do nhu cầu vay vốn của

khách hàng là ngắn hạn. Doanh số cho vay xuất nhập khẩu trung dài hạn chiếm tỷ trọng

nhỏ, không đáng kể. Khách hàng được Sở tài trợ xuất nhập khẩu chủ yếu là các doanh

nghiệp Nhà nước và Sở tài trợ nhập khẩu là chính.

* Tỷ trọng các hình thức tài trợ xuất nhập khẩu

- Mở L/C:

Đối với nhà nhập khẩu thì mở L/C cũng được coi là một hình thức tài trợ của ngân

hàng. Số món mở L/C nhập khẩu tại Sở I ngày càng tăng tăng, thể hiện:

Năm 1999, số món mở L/C nhập khẩu là 130 món, trị giá 26 triệu USD

Năm 2000, số món mở L/C nhập khẩu là 153 món, trị giá 48,9 triệu USD tăng 88% so

với năm 1999.

Năm 2001, số món mở L/C nhập khẩu là 165 món, trị giá 52,7 triệu USD tăng 7,8% so

với năm 2000.

Tuy nhiên, tốc độ tăng về số món L/C và trị giá L/C được mở năm 2001 nhỏ hơn so

với năm 2000. Đó là do doanh số nhập khẩu của khách hàng lớn của Sở là Seaprodex Hà

Nội, công ty TNHH Hồng Thuý giảm. Đây là nguyên nhân làm cho trị giá thanh toán của

L/C nhập khẩu tăng không nhiều trong năm 2001.

BẢNG 2.8: Tỷ trọng các hình thức tài trợ XNK trong doanh số cho vay XNK giai

đoạn 1999- 2001

Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001

Tài trợ xuất khẩu 4,5% 4,7% 7,1%

- Cho vay thu mua hàng xuất khẩu 4,5% 4,7% 7,1%

Tài trợ nhập khẩu

95,5% 95,3% 92,9%

- Cho vay thanh toán L/C 90,1% 88,8% 86,6%

- Cho vay ký quỹ sửa đổi tăng giá trị L/C 5,4% 6,5% 6,3%

Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh đối ngoại 1999-2001

Bảng trên cho ta thấy hoạt động tài trợ xuất khẩu tại Sở có xu hướng ngày càng tăng.

Năm 1999, doanh số tài trợ xuất khẩu chiếm 4,5% trong doanh số tài trợ xuất nhập

khẩu.

Năm 2000, doanh số tài trợ xuất khẩu chiếm 4,7% trong doanh số tài trợ xuất nhập

khẩu.

Năm 1999, doanh số tài trợ xuất khẩu chiếm 7,1% trong doanh số tài trợ xuất nhập

khẩu.

Tuy nhiên so với hoạt động tài trợ nhập khẩu thì hoạt động tài trợ xuất khẩu còn quá

nhỏ bé, chiếm chưa đến 10% doanh số tài trợ xuất nhập khẩu. Nguyên nhân là do hoạt

động tài trợ xuất nhập khẩu của Sở còn mới nên số lượng khách hàng chưa nhiều. Thêm

vào đó, do những vướng mắc về cơ chế chính sách nên việc cho vay thu mua hàng xuất

khẩu tại Sở bị hạn chế, các khách hàng có nhu cầu không tìm đến Sở, bên cạnh đó còn có

những khách hàng bỏ Sở ra đi. Ví dụ như trong năm 1999, theo kế hoạch là Sở đầu tư cho

công ty lương thực miền Bắc từ 7-8 triệu USD tương đương với khoảng 100 tỷ VND. Sở

đã trình lên Trung tâm hối đoái NHNo&PTNTVN, trình lên NHNN xin được tài trợ xuất

khẩu gạo nhưng không được chấp thuận. Vì vậy, Tổng công ty lương thực miền Bắc đã

vay các NHTM cổ phần trên địa bàn Hà Nội làm Sở mất đi cơ hội cho vay và mất một

nguồn ngoại tệ lớn thu được từ xuất khẩu gạo.

2.3.5.2 Tình hình thu nợ, dư nợ, nợ quá hạn trong cho vay xuất nhập khẩu

Với bất kỳ hoạt động tín dụng trên lĩnh vực nào thì chất lượng hoạt động tín dụng cần

phải được quan tâm trước hết. Hoạt động tín dụng chỉ thực sự mang lại hiệu quả cho ngân

hàng khi nó sử dụng tối đa nguồn vốn huy động và nguồn vốn cho vay được thu hồi lại

đầy đủ cả gốc lẫn lãi đúng hạn. Chất lượng hoạt động tín dụng của Sở thể hiện ở công tác

thu nợ và tình hình dư nợ, nợ quá hạn.

BẢNG 2.9 : Tình hình thu nợ, dư nợ & nợ quá hạn trong cho vay XNK

Đơn vị: Triệu đồng

Chỉ tiêu 1999 2000 2001

339..215 444.545 496.705 Thu nợ cho vay XNK

51.767 169.827 241.918 Tổng dư nợ cho vay XNK

443 21.651 22.098 Nợ quá hạn cho vay XNK

Nợ quá hạn cho vay XNK

0,85% 12,7% 8,89% ........................................... (

%)

Tổng dư nợ cho vay XNK

Nguồn: Báo cáo tổng kết kinh doanh 1999-2001

Bảng trên cho thấy các khoản tài trợ xuất nhập khẩu tại Sở có khả năng thu nợ cao.

Doanh số thu nợ cho vay xuất nhập khẩu của Sở không ngừng tăng lên tỷ lệ thuận với

doanh số cho vay của Sở. Năm 2000 có doanh số thu nợ cho vay xuất nhập khẩu là

444.545 triệu đồng, năm 2001 doanh số thu nợ cho vay xuất nhập khẩu là 496 705 triệu

đồng tăng 11,73% so với năm 2000.

Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ tại Sở tuy có chiều hướng giảm nhưng vẫn còn khá

cao. Năm 1999 là năm có tỷ lệ nợ quá hạn thấp 0,85%.

Trong năm 2000, nợ quá hạn của Sở là 21.651 triệu đồng. Năm 2000 là năm có tỷ lệ

nợ quá hạn cao nhất (12,7%). Tỷ lệ nợ quá hạn cao như vậy một phần là do có công ty

làm ăn không hiệu quả nên Sở chưa thu được nợ, một phần là do món thanh toán L/C 071

hiện đang khởi kiện chưa có kết quả. Nếu như không có khoản ghi nợ bắt buộc 20.329 tỷ

đồng của do món thanh toán L/C 071 thì tỷ lệ nợ quá hạn chỉ là 0,78%.

Trong năm 2001, nợ quá hạn của Sở là 21.198 triệu đồng, tỷ lệ nợ quá hạn giảm xuống

còn 8,76%. Tỷ lệ nợ quá hạn này tuy còn cao nhưng nếu không có khoản ghi nợ bắt buộc

20.329 tỷ đồng của món thanh toán L/C 071 thì tỷ lệ nợ quá hạn chỉ là 0,73%. Điều này

chứng tỏ chất lượng hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu tại Sở năm 2001 đã tăng lên.

Việc tỷ lệ nợ quá hạn của Sở giảm từ 12,7% năm 2000 xuống còn 8,89% năm 2001 là

nhờ biện pháp xử lý nợ quá hạn đúng đắn và nhờ nỗ lực của cán bộ tín dụng của Sở. Sở

đã phân công cán bộ cho vay trực tiếp bám sát các đơn vị có nợ quá hạn để đôn đốc thu

nợ và có biện pháp xử lý theo chế tài tín dụng. Bên cạnh đó, Sở còn thành lập các nhóm

để thực hiện thu hồi nợ quá hạn, theo dõi và đôn đốc thu nợ đến hạn.

Trong thời gian tới, khi công tác thẩm định của cán bộ tín dụng được nâng cao, các

biện pháp xử lý nợ quá hạn được áp dụng mạnh mẽ hơn nữa thì chắc chắn hoạt động tài

trợ xuất nhập khẩu tại Sở sẽ còn phát triển mạnh và có chất lượng cao hơn.

2.3.6 Những mặt được và chưa được trong hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập

khẩu tại SGDI

2.3.6.1 Những kết quả đạt được

Sở đã chủ động tìm kiếm khách hàng và tạo điều kiện thuận lợi cho tổ thanh toán quốc

tế mở rộng dịch vụ thanh toán quốc tế để tạo cơ sở cho mở rộng tín dụng tài trợ xuất nhập

khẩu. Để mở rộng thị phần và đa dạng các hình thức đầu tư, trong năm 2001, Sở đã tiếp

cận các công ty của Tổng công ty 90 - 91 để thẩm định và cho vay vốn.

Sở cũng tiến hành phân tích thực trạng tín dụng năm 2000, phân loại nợ, phân loại

khách hàng để có chính sách ưu đãi, mở rộng đầu tư... Sở đã có thêm nhiều khách hàng

mới có nhu cầu vốn lớn để thu mua chế biến hàng xuất khẩu và nhập khẩu nguyên vật

liệu.

Sở đã áp dụng hình thức huy động đa dạng (tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu...), thực hiện

trả lãi huy động linh hoạt nên nguồn vốn huy động tại Sở năm 2001 tăng mạnh. Việc

nguồn vốn huy động dồi dào sẽ tạo điều kiện để Sở thực hiện cho vay xuất nhập khẩu.

Sở tích cực xử lý nợ quá bằng cách phân công cán bộ cho vay trực tiếp bám sát các

đơn vị có nợ quá hạn để đôn đốc thu nợ và có biện pháp xử lý theo chế tài tín dụng. Bên

cạnh đó, Sở còn thành lập các nhóm để thực hiện thu hồi nợ quá hạn, theo dõi và đôn đốc

thu nợ đến hạn. Chính vì vậy mà trong năm 2001, tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ của Sở

giảm xuống.

2.3.6.2 Những mặt chưa được

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu

của Sở còn một số hạn chế nhất định làm ảnh hưởng phần nào đến sự phát triển hoạt

động tài trợ tại Sở trong thời gian qua. Những mặt chưa được trong hoạt động tín dụng tài

trợ XNK tại Sở thể hiện:

NHNo đã có hướng dẫn thực hiện nghiệp vụ chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất nhưng

triển khai còn chưa sâu rộng, chưa có chiến lược cụ thể. Nguyên nhân một phần là do Sở

chưa chủ động trong cân đối ngoại tệ và nguyên nhân khách quan là do sự biến động tỷ

giá ngoại tệ trong thời gian qua làm cho ngân hàng e ngại khi thực hiện nghiệp vụ này.

Hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu tại Sở khối lượng còn thấp và hình thức chưa phong

phú. Doanh số cho vay xuất nhập khẩu trung, dài hạn chiếm tỷ trọng nhỏ, không đáng kể.

Hoạt động tài trợ xuất khẩu của Sở I chưa nhiều nên khối lượng thanh toán hàng xuất qua

Sở còn thấp. Tại Sở hiện nay chủ yếu là tài trợ nhập khẩu.

Khách hàng được Sở tài trợ xuất nhập khẩu chưa đa dạng, chủ yếu là các doanh nghiệp

Nhà nước nên Sở dễ bị sức ép từ phía khách hàng về lãi suất, phí thanh toán. Mặt khác,

việc tập trung dư nợ vào một số ít khách hàng sẽ không có lợi cho phòng ngừa rủi ro tín

dụng.

Hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu ở Sở còn chưa có chiến lược cụ thể. Việc

khai thác nguồn ngoại tệ phục vụ cho tín dụng và thanh toán còn hạn chế. Sở cũng chưa

có bộ phận riêng làm nghiệp vụ tài trợ xuất nhập khẩu mà nghiệp vụ còn lẫn vào bộ phận

thanh toán và tín dụng nói chung. Điều này sẽ làm cho sở gặp khó khăn trong việc phát

triển hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu.

Công tác tiếp thị đã được Sở quan tâm nhưng kết quả chưa cao vì việc thực hiện

marketing chưa đều khắp cơ sở.

Trên đây là một số hạn chế trong hoạt động tài trợ tín dụng xuất nhập khẩu tại SGDI.

Trong thời gian tới, khi được sự hỗ trợ của NHNo&PTNTVN, của NHNN và Chính phủ

thì hoạt động này tại Sở chắc chắn sẽ phát triển hơn nhiều.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Trên cơ sở lý luận tài trợ xuất nhập khẩu của các NHTM trong chương 1, chương 2 đã

đi sâu phân tích thực trạng hoạt động tín dụng của SGD I - NHNo&PTNTVN qua các

khía cạnh:

. Quá trình hình thành và phát triển của NHNo&PTNTVN và của SGD I

. Tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam trong thời gian qua và trong tương lai

. Thực trạng hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu của SGD I - NHNo&PTNTVN

Bằng phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu của

SGD I - NHNo&PTNTVN đã được nghiên cứu, phân tích trên cơ sở số liệu về nguồn vốn

huy động, doanh số cho vay, tình hình thu nợ và dư nợ, quy trình hoạt động, các hình

thức tài trợ. Từ đó, ta thấy được những kết quả và tồn tại của hoạt động này tại SGD I.

CHƯƠNG 3:

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG

TÀI TRỢ XNK TẠI SGD I - NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

3.1 ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU CỦA VIỆT

NAM TRONG THỜI GIAN TỚI

Đường lối kinh tế của Đảng ta là: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng

nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát

triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng

xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và

chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững.

Xuất phát từ đường lối kinh tế của Đảng, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm

2001-2010 khẳng định định hướng phát triển hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam :

" Nhà nước có chính sách khuyến khích mạnh mẽ các thành phần kinh tế tham gia

sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ. Nâng cao năng lực cạnh

tranh, phát triển mạnh những sản phẩm hàng hoá và dịch vụ có khả năng cạnh tranh

trên thị trường quốc tế; giảm mạnh xuất khẩu sản phẩm thô và sơ chế, tăng nhanh tỷ

trọng sản phẩm chế biến và tỷ lệ nội địa hoá cho sản phẩm; nâng dần tỷ trọng sản

phẩm có hàm lượng trí tuệ, hàm lượng công nghệ cao.

Xây dựng các quỹ hỗ trợ xuất khẩu, nhất là đối với hàng nông sản. Khuyến khích

sử dụng hàng hoá, thiết bị sản xuất trong nước.. Tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu,

tiến tới cân bằng xuất nhập. Thực hiện chính sách bảo hộ có lựa chọn, có thời hạn đối

với các sản phẩm sản xuất trong nước. Phát triển du lịch quốc tế, xuất khẩu lao động

và các dịch vụ thu ngoại tệ khác.

Chủ động và tích cực thâm nhập thị trường quốc tế, chú trọng thị trường các trung

tâm kinh tế thế giới, duy trì và mở rộng thị phần trên các thị trường quen thuộc, tranh

thủ mọi cơ hội mở thị trường mới. Đẩy mạnh hoạt động tiếp thị, xúa tiến thương mại,

thông tin thị trường bằng nhiều phương tiện và tổ chức thích hợp. Khuyến khích các

tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia hoạt động môi giới, khai thác thị

trường quốc tế".

Chiến lược cũng đưa ra định hướng cụ thể cho hoạt động xuất khẩu của từng ngành:

Đối với ngành nông nghiệp : " Đến năm 2010, kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thuỷ

sản đạt 9 - 10 tỷ USD, trong đó thuỷ sản chiếm khoảng 3,5 tỷ USD".

Đối với ngành công nghiệp :" Đến năm 2010, giá trị xuất khẩu công nghiệp chiếm 70-

75% tổng kim ngạch xuất khẩu. Tỷ lệ nội địa hoá trong sản xuất xe cơ giới, máy và

thiết bị đạt 60- 70%; công nghiệp điện tử thông tin trở thành ngành mũi nhọn; chế

biến hầu hết nông sản xuất khẩu; công nghiệp hàng tiêu dùng đáp ứng nhu cầu trong

nước và tăng nhanh xuất khẩu".

Đối với các ngành dịch vụ: " Phát triển mạnh thương mại, nâng cao năng lực và chất

lượng hoạt động để mở rộng thị trường trong nước và hội nhập quốc tế có hiệu quả.

Phát triển thương mại điện tử. Nhà nước, các hiệp hội, các doanh nghiệp phối hợp tìm

kiếm, mở rộng thị trường cho sản phẩm Việt Nam".

Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005 là bước quan trọng trong việc

thực hiện chiến lược 10 năm 2001- 2010. Hoàn thành kế hoạch này sẽ góp phần thực hiện

tốt Chiến lược 10 năm đã đề ra. Kế hoach này đã đưa ra định hướng phát triển kinh tế đối

ngoại mà đặc biêt là hoạt động xuất nhập khẩu như sau:

" Tăng nhanh tổng kim ngạch xuất khẩu, bảo đảm nhập khẩu những vật tư, thiết bị

chủ yếu, có tác động tích cực đến sản xuất kinh doanh. tạo thị trường ổn định cho một

số mặt hàng nông sản thực phẩm và hàng công nghiệp có khả năng cạnh tranh; tìm

kiếm thị trường cho mặt hàng xuất khẩu mới. Nâng cao chất lượng các mặt hàng xuất

khẩu, tăng thêm thị phần ở các thị trường truyền thống, tiếp cận và mở mạnh các thị

trường mới.

Tiếp tục đầu tư, nâng cao chất lượng để tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu các mặt

hàng chủ lực như dầu thô, gạo, cà phê, cao su, hàng thuỷ sản, dệt may, da giầy, hàng

thủ công mỹ nghệ, hàng điện tử và linh kiện điện tử, phần mềm máy tính...Đẩy mạnh

xuất khẩu lao động".

Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005 cũng đưa ra những chỉ tiêu

định hướng cần thực hiện sau:

BẢNG 3.1 : Kế hoạch tăng kim ngạch xuất nhập khẩu giai đoạn 2001- 2005

Chỉ tiêu Tỷ trọng Tốc độ tăng

bình quân

hàng năm

Hàng xuất khẩu 100% 16%

30% 16,2% - Nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản

43% 22% - Nhóm hàng công nghiệp nhẹ & tiểu thủ công

27% 6,2% nghiệp

- Nhóm hàng công nghiệp nặng - khoáng sản

Hàng nhập khẩu 100% 100%

32,6% 17,2% - Nhóm hàng máy móc, thiết bị và phụ tùng

63,5% 13,9% - Nhóm hàng nguyên nhiên vật liệu

3,9% 0% - Nhóm hàng tiêu dùng

Nguồn: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX

Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001- 2010 và kế hoạch phát triển kinh

tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005 là những căn cứ quan trọng để NHNo&PTNTVN nói chung

và SGDI nói riêng định hướng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng

mình.

3.2 ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NHNO&PTNT VÀ SGD I

TRONG THỜI GIAN TỚI

3.2.1 Định hướng chiến lược 2001- 2010 của NHNo &PTNTVN

Trên cơ sở những thành tựu đã đạt được qua hơn 10 năm đổi mới và nhất là những bài

học kinh nghiệm rút ra từ những tồn tại yếu kém, NHNo &PTNTVN đã tập trung xây

dựng Đề án cơ cấu lại giai đoạn 2001- 2010. Đề án này đã được Thủ tướng Chính phủ

phê duyệt tại Quyết định số 161/2001/QĐ-TTg ngày 23/10/2001.

Mục tiêu tổng quát của Đề án là:

Trong vòng 10 năm tới, xây dựng NHNo&PTNTVN tiếp tục là NHTM hàng đầu ở

Việt Nam, trở thành NHTM tiên tiến trong khu vực và có uy tín cao trên trường quốc tế;

mở rộng hoạt động kinh doanh vững chắc an toàn, có quy mô vốn tự có ngang tầm các

ngân hàng trong khu vực, áp dụng công nghệ ngân hàng hiện đại, cung cấp các dịch vụ

tiện lợi, duy trì và nâng cao khả năng sinh lời, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực.

Trên cơ sở Đề án này và những định hướng của Chính phủ và Nhà nước, NHNo

&PTNTVN đưa ra định hướng chiến lược 2001- 2010 của mình.

* Định hướng chiến lược 2001- 2010 của NHNo &PTNTVN là:

NHNo &PTNTVN phải tập trung sức triển khai tốt chương trình hành động

thực hiện Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ IX của Ban cán sự Đảng Ngân hàng Nhà

nước, đặc biệt phải thực hiện đúng nội dung, lộ trình của Đề án cơ cấu lại

NHNo&PTNTVN 2001- 2010 đã được Chính phủ phê duyệt; tiếp tục duy trì tốc độ

tăng trưởng cao nguồn vốn và sử dụng vốn, đảm bảo an toàn vốn và khả năng sinh

lời nhằm tăng năng lực cạnh tranh; đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu sản xuất,

sắp xếp đổi mới doanh nghiệp, mở rộng nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng,

thích ứng nhanh chóng với môi trường kinh doanh mới; tiếp tục đổi mới công nghệ

và đào tạo nguồn nhân lực phù hợp với tiến trình hiện đại hoá hệ thống ngân hàng

và theo kịp tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế trong tương lai gần.

* Định hướng phát triển hoạt động đối ngoại của NHNo &PTNTVN là:

Tổ chức thực hiện tốt các dự án hiện có, tập trung khai thác, tiếp nhận nhiều dự án,

bao gồm cả uỷ thác, dịch vụ, nâng cao năng lực, tài trợ kỹ thuật.

Mở rộng hoạt động kinh doanh ngoại hối, thanh toán quốc tế tại các địa bàn có môi

trường hoạt động. nâng cao chất lượng nghiệp vụ, thu hút khách hàng, đưa doanh số

thanh toán năm 2005 lên gấp đôi hiện nay. Chuẩn bị các điều kiện để đến năm 2005 tham

gia mua bán ngoại tệ tại thị trường thế giới.

Mở rộng hoạt động quan hệ quốc tế, đóng vai trò tích cực trong các tổ chức quốc tế

và khu vực.

Cụ thể là NHNo&PTNTVN phấn đấu đến cuối năm 2010 đạt những chỉ tiêu sau:

Vốn tự có đạt 16.000 tỷ VND tương đương 1 tỷ USD

Tổng nguồn vốn đạt 250.000 tỷ VND tương đương 15 tỷ USD

Tổng dư nợ đạt 176.000 tỷ VND tương đương 12 tỷ USD

Trước mắt trong năm 2002 NHNo&PTNTVN phấn đấu hoàn thành một số chỉ tiêu

cơ bản sau:

So với năm 2001, phấn đấu đưa tổng nguồn vốn tăng từ 22% đến 25%, tổng dư nợ

tăng từ 20% đến 22%, tỷ lệ cho vay trung dài hạn không quá 45% tổng dư nợ, nợ quá hạn

dưới 3% tổng dư nợ hữu hiệu. Đảm bảo lợi nhuận tăng từ 3% đến 5%, hoàn thành các

nghĩa vụ đối với Ngân sách nhà nước theo quy định, trích lập các quỹ đáp ứng đủ chi phí,

bao gồm cả trích lập các quỹ dự phòng rủi ro, phấn đấu đạt mức tiền lương trên nền

lương cơ bản.

* Định hướng tiến hành của NHNo&PTNT:

- Thực hiện đúng nội dung, lộ trình của Đề án cơ cấu lại NHNo&PTNTVN 2001- 2010

đã được Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 161/2001/QĐ-TTg ngày 23/10/2001.

- Xây dựng, ban hành quy định quy trình nghiệp vụ chặt chẽ, cụ thể, rõ ràng.

- Tạo bước chuyển về chất trong quản trị điều hành theo đúng pháp luật, điều lệ, quy

chế, đúng chức năng nhiệm vụ, thẩm quyền; phân công rõ người rõ việc, rõ trách nhiệm

và có cơ chế phân cấp, uỷ quyền hợp lý để chủ động trong quản lý, điều hành hoạt động

kinh doanh toàn hệ thống.

- Tổ chức đào tạo, tập huấn thường xuyên quy chế, quy định của NHNN, quy trình

nghiệp vụ của NHNo; nâng cao trình độ kỹ thuật nghiệp vụ, tay nghề cho CBCNV; đẩy

nhanh ứng dụng công nghệ tin học trong các nghiệp vụ ngân hàng.

- Đa dạng hoá đối tượng đầu tư, chú trọng cho vay hộ sản xuất, hộ trang trại, doanh

nghiệp vừa và nhỏ, Tổng công ty 90, Tổng công ty 91. Mở rộng tín dụng theo hướng đáp

ứng có hiệu quả các chương trình dự án chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng khai thác

tối đa tiềm năng về con người, tài nguyên, nâng cao tỷ trọng xuất khẩu hàng hoá nông

sản, góp phần vào tiến trình CNH- HĐH nông thôn.

- Tăng cường công tác giám sát, kiểm tra, kiểm toán nội bộ; thực hiện dân chủ, thực

hiện tiết kiệm; chống lãng phí, tham nhũng, tiêu cực.

- Đẩy mạnh hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, trong đó chú trọng ưu tiên cho hoạt

động đối ngoại, tạo cơ sở vật chất thực hiện tốt hoạt động này.

3.2.2 Định hướng kinh doanh của SGDI trong năm 2002

Trong năm 2002, mục tiêu định hướng hoạt động của SGDI là đạt được những chỉ

tiêu sau :

- Huy động vốn: 3000 tỷ VND

- Tổng dư nợ ( cả ngoại tệ quy VND ): 1000 tỷ VND

- Tỷ lệ nợ quá hạn: dưới 3 %

- Tỷ lệ cho vay trung dài hạn: 30%

- Tỷ lệ cho vay doanh nghiệp: 80%

- Phấn đấu đến cuối 2002 Sở có 20 chi nhánh, phòng giao dịch và quỹ tiết kiệm

3.3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI SGDI - NHNO&PTNTVN NHẰM PHÁT

TRIỂN HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU

Sau một thời gian thực tập tại SGDI - NHNo&PTNTVN, em xin đề xuất một số giải

pháp nhằm phát triển hơn nữa hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại Sở giao dịch I

như sau:

3.3.1 Giải pháp thu hút nguồn vốn

Nguồn vốn luôn đóng một vai trò quan trọng đối với hoạt động của SGD I, nó là cơ sở

để phát triển hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng.

Trong thời gian qua, nguồn vốn huy động tại Sở không ngừng tăng cả về số lượng lẫn

chất lượng. Tuy nhiên, do giá USD không ngừng tăng trong suốt năm 2001 và những

tháng đầu 2002 làm cho nhu cầu vay VND tăng mà Sở khó có thể đáp ứng. Thêm vào đó,

đang có sự cạnh tranh gay gắt về nguồn vốn huy động ở các ngân hàng trên địa bàn Hà

Nội làm cho các ngân hàng không ngừng tăng lãi suất huy động của mình để thu hút

khách hàng. Để có thể cạnh tranh được với các ngân hàng khác thì Sở không chỉ tăng lãi

suất huy động mà còn phải không ngừng đa dạng hoá các hình thức huy động vốn bằng

cách xử lý linh hoạt lãi suất, thời hạn gửi, miễn phí dịch vụ, cung cấp thông tin, tư vấn

khách hàng và nhiều dịch vụ chăm sóc khách hàng khác.

3.3.1.1 Đa dạng hoá hình thức huy động vốn

Sở phải nhanh chóng đa dạng các dịch vụ huy động nguồn vốn như : tiền gửi thanh

toán, kỳ phiếu, huy động bằng nhiều loại ngoại tệ khác ngoài USD, huy động tiết kiệm

bằng vàng, đến tận nhà khách hàng hoặc cơ quan khách hàng thu tiền để phục vụ những

khách hàng không có nhiều thì giờ để đến ngân hàng gửi tiền., có dịch vụ huy động tiết

kiệm ngoài giờ với lãi suất thấp hơn hoặc có một khoản phí nhỏ...

Thêm vào đó, Sở cũng đa dạng hoá các hình thức trả lãi : trả lãi trước, trả lãi sau, trả

lãi bậc thang...

Sở cũng cần cung cấp thêm các dịch vụ bổ trợ để tăng thêm giá trị sản phẩm như :

triển khai trương trình cung cấp thông tin về theo yêu cầu của khách hàng về số dư tiền

gửi, tiền vay, hoạt động tài khoản của khách hàng, lãi suất, tình hình tỷ giá, giá cả trong

ngoài nước...

Thực hiện đa dạng hoá các hình thức huy động vốn và cung cấp thêm các dịch vụ bổ

trợ sẽ giúp Sở có thêm nhiều nguồn vốn nội tệ và ngoại tệ phục vụ cho hoạt động tín

dụng tài trợ xuất nhập khẩu.

3.3.1.2 Biện pháp thu hút nguồn ngoại tệ

Hiện nay, hoạt động kinh doanh ngoại tệ chủ yếu tại Sở là để phục vụ cho nhu cầu mở

L/C, chuyển tiền và nhờ thu của khách hàng. Để đáp ứng tốt nhu cầu này, trong thời gian

tới, Sở cần tăng cường hoạt động mua bán ngoại tệ để phục vụ cho hoạt động tài trợ xuất

nhập khẩu tại Sở:

- Với doanh nghiệp xuất khẩu thu ngoại tệ, ngân hàng nên khuyến khích họ bán lại số

ngoại tệ chưa dùng cho ngân hàng và sẽ cho họ hưởng lãi suất ưu đãi khi vay lại ngoại tệ

để thanh toán.

- Tham gia tích cực vào thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Thị trường liên ngân hàng

là thị trường mua bán ngoại tệ giữa các NHTM được phép kinh doanh ngoại tệ với mục

đích điều hoà nguồn ngoại tệ giữa nơi thừa và nơi thiếu. Việc tham gia vào thị trường này

sẽ giúp Sở bổ sung được nguồn vốn khi cần thiết nhằm đáp ứng đầy đủ và nhanh nhất

nhu cầu tín dụng phục vụ xuất nhập khẩu tại Sở.

3.3.1.3 Mở rộng mạng lưới kinh doanh

Việc mở rộng mạng lưới kinh doanh không những giúp Sở huy động vốn nhiều hơn và

dễ dàng hơn mà còn giúp sản phẩm, dịch vụ đến được tay khách hàng và mục tiêu lợi

nhuận của Sở trở thành hiện thực. Để cung ứng sản phẩm, dịch vụ của Sở đến từng khách

hàng thì việc lựa chọn kênh phân phối nào cho phù hợp là điều cần thiết. Để thực hiện tốt

việc phân phối sao cho khối lượng sản phẩm, dịch vụ cung ứng được nhiều mà không

lãng phí nguồn nhân lực, Sở cần phải:

- Mở rộng thêm quy mô của Sở

Do đặc điểm của Sở là tài trợ xuất nhập khẩu tập trung vào khách hàng là các DNNN

và công ty lớn nên không cần mở thêm nhiều chi nhánh mà chỉ cần mở rộng thêm quy

mô của Sở là vừa đủ.

- Mở rộng thêm các chi nhánh loại 4, các phòng giao dịch và quỹ tiết kiệm để đẩy

mạnh hoạt động huy động vốn nội tệ và ngoại tệ từ dân cư. Địa điểm của những quỹ tiết

kiệm, phòng giao dịch này phải thuận tiện về giao thông và nằm ở những nơi dân cư

đông đúc và có nhu cầu giao dịch với ngân hàng nhiều để giảm sự đi lại cho khách hàng.

3.3.1.4 Biện pháp khác

- Sở cần nhanh chóng và tích cực thu hút thêm khách hàng là các công ty có nguồn

tiền gửi lớn trên địa bàn Hà Nội. Bên cạnh đó, Sở cũng chú trọng tập trung vào khách

hàng lớn là Tổng công ty, khách hàng có nguồn vốn, khách hàng có ngoại tệ để không bị

mất khách hàng. Sở cũng cần chủ động bám sát các khách hàng lớn để có chính sách ưu

đãi phù hợp nhằm giữ nguồn.

- Đối với tiền gửi thanh toán của doanh nghiệp, ngoài việc được hưởng lãi suất như

quy định, nếu doanh nghiệp nào có số dư tài khoản này lớn thì ngân hàng có thể khuyến

mại bằng cách giảm phí dịch vụ thanh toán hoặc tặng quà...

3.3.2 Hoàn thiện và đa dạng hoá các hình thức tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu

Các hình thức tài trợ xuất nhập khẩu của Sở trong thời gian qua còn chưa đa dạng ,

phong phú. Hiện nay, tại SGD I có các hình thức tài trợ chủ yếu sau: mở L/C, cho vay ký

quỹ L/C khi sửa đổi tăng giá trị L/C, cho vay thanh toán L/C, cho vay thu mua hàng xuất

khẩu ; trong đó, các hình thức tài trợ xuất khẩu rất hạn chế, chủ yếu là các hình thức tài

trợ nhập khẩu.Hình thức chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất tuy đã có quy chế thực hiện

nhưng hình thức tài trợ này tại Sở vẫn chưa được thực hiện tại Sở.

Trong thời gian tới, Sở có thể hoàn thiện và đa dạng hoá các hình thức tài trợ xuất

nhập khẩu theo hướng :

3.3.2.1 Tài trợ xuất khẩu

* Nhanh chóng triển khai nghiệp vụ chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất

Chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất là hình thức tín dụng tài trợ cho các doanh nghiệp

xuất khẩu. Tuy tại Sở hiện nay đã có quy chế thực hiện hình thức chiết khấu bộ chứng từ

hàng xuất nhưng hình thức tài trợ này vẫn còn chưa được thực hiện.

Để thu hút thêm nhiều khách hàng xuất khẩu đến với mình, Sở cần phải nhanh chóng

triển khai nghiệp vụ này và nếu cần Sở phải thuê các chuyên gia có nhiều kinh nghiệm

đào tạo thêm các cán bộ thanh toán và tín dụng liên quan đến nghiệp vụ này. Điều này sẽ

giúp cho các cán bộ tín dụng thêm những kinh nghiệp cần thiết để phòng tránh rủi ro khi

thực hiện nghiệp vụ này.

Khi các doanh nghiệp xuất khẩu muốn xin chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất, Sở có thể

chiết khấu theo một trong hai cách dưới đây:

- Chiết khấu có truy đòi

Chiết khấu có truy đòi được thực hiện khi bộ chứng từ thoả mãn các điều kiện sau:

Đối với phương thức thanh toán L/C:

+ Ngân hàng mở L/C là ngân hàng có uy tín.

+ Khách hàng mở tài khoản và có quan hệ thường xuyên với NHNo.

+ Thị trường truyền thống được phép xuất khẩu tại Việt Nam

+ Khách hàng cam kết hoàn trả số tiền ngân hàng đã chiết khấu khi nhận được thông báo

từ chối thanh toán bộ chứng từ của nước ngoài.

+ Số tiền chiết khấu tối đa là 95% giá trị L/C.

+ Thư yêu cầu thanh toán và đơn xin chiết khấu phải có chữ ký của chủ tài khoản và kế

toán trưởng.

+ Đối với bộ chứng từ của L/C trả chậm có thời hạn 30 ngày trở lên, ngân hàng chỉ thực

hiện chiết khấu khi đã nhận được chấp nhận thanh toán của ngân hàng phát hành/ ngân

hàng chấp nhận.

Đối với phương thức thanh toán nhờ thu:

+ Khách hàng có quan hệ giao dịch thường xuyên tại ngân hàng, có quan hệ thanh toán

tốt.

+ Thị trường truyền thống

+ Mặt hàng được phép xuất khẩu

+ Khách hàng cam kết hoàn trả số tiền ngân hàng đã chiết khấu khi nhận

được thông báo từ chối thanh toán bộ chứng từ của nước ngoài.

- Chiết khấu miễn truy đòi: Chỉ áp dụng với phương thức thanh toán L/C

Chiết khấu miễn truy đòi được thực hiện khi bộ chứng từ thoả mãn các điều kiện sau:

+ L/C là L/C đã được NHNo xác nhận.

+ Chứng từ hoàn toàn phù hợp các điều khoản và điều kiện của L/C.

+ Thư yêu cầu thanh toán đề nghị chiết khấu miễn truy đòi phải có chữ ký của chủ tài

khoản và kế toán trưởng.

* Tài trợ khép kín cho doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu qua các công đoạn từ

vay vốn chế biến, sản xuất đến công đoạn tài trợ để doanh nghiệp thực hiện tái sản xuất.

Quá trình tài trợ khép kín này được thực hiện như sau:

- Khi doanh nghiệp sản xuất hàng theo hợp đồng ngoại thương đã ký, ngân hàng có thể

cho doanh nghiệp vay bổ sung nhu cầu vốn lưu động để mua vật tư, nguyên liệu. Mức

cho vay cụ thể do giám đốc Sở quyết định nhưng tối đa bằng chi phí sản xuất hàng hoá

theo hợp đồng xuất khẩu đã ký trừ đi vốn tự có, vốn ứng trước của người mua và vốn huy

động từ nguồn khác của doanh nghiệp. Sở cũng có thể thu mua ngoại tệ có được từ xuất

khẩu của doanh nghiệp bằng cách đề nghị doanh nghiệp cam kết đảm bảo việc thanh toán

tiền hàng xuất khẩu được chuyển vào tài khoản mở tại Sở để Sở mua lại số ngoại tệ đó.

- Sau khi doanh nghiệp gửi hàng, doanh nghiệp có trong tay bộ chứng từ thanh toán,

nếu doanh nghiệp muốn vay vốn để tiếp tục sản xuất trước khi đến hạn thanh toán thì

ngân hàng sẽ tài trợ bằng cách thực hiện chiết khấu chứng từ cho doanh nghiệp.

* Chiết khấu hối phiếu:

Trên cơ sở những hối phiếu đã được ngân hàng nước ngoài chấp nhận nhưng chưa đến

hạn thanh toán, Sở có thể cấp tín dụng cho người xuất khẩu bằng cách chiết khấu hối

phiếu đó.

* Tín dụng ứng trước kết hợp với kinh doanh ngoại tệ

Dựa trên hợp đồng ngoại thương đã ký kết hoặc L/C đã thông báo, Sở cho doanh

nghiệp vay để thu mua chế biến hàng xuất khẩu theo hợp đồng. Đồng thời, Sở yêu cầu

khách hàng ký hợp đồng bán lại cho Sở số ngoại tệ của khách hàng khi họ được thanh

toán theo tỷ giá hai bên thoả thuận và Sở tiến hành thu nợ từ nguồn bán ngoại tệ đó.

* Bảo lãnh thực hiện hợp đồng

Sở nên đa dạng hoá các hình thức tài trợ xuất khẩu của mình bằng cách bảo lãnh thực

hiện hợp đồng cho người xuất khẩu khi họ có yêu cầu. Việc bảo lãnh thực hiện hợp đồng

giúp cho người nhập khẩu tin tưởng rằng người xuất khẩu sẽ thực hiện đúng hợp đồng và

hình thức tài trợ này sẽ tạo điều kiện cho người xuất khẩu ký được hợp đồng bán hàng.

Sở có cũng thể thực hiện hình thức bảo lãnh thực hiện hợp đồng kết hợp với hình thức

cho vay thu mua hàng xuất theo L/C. 3.3.2.2 Tài trợ nhập khẩu:

Tương tự như hình thức tài trợ xuất khẩu, Sở nên đa dạng hoá các hình thức tài trợ để

hấp dẫn khách hàng bằng cách đưa thêm một số hình thức tài trợ nhập khẩu như: tín dụng

chấp nhận hối phiếu, tín dụng ứng trước đối với người nhập khẩu, bảo lãnh thanh toán

cho người nhập khẩu...

Với những khách hàng truyền thống, có uy tín, có khả năng tài chính tốt, Sở nên tài trợ

cho họ bằng cách bảo lãnh thanh toán. Việc bảo lãnh thanh toán cho nhà nhập khẩu sẽ

giúp họ có thể mua được hàng và mang lại nguồn thu cùng với uy tín cho Sở.

3.3.3 Đa dạng hoá khách hàng và thực hiện chính sách khách hàng phù hợp

3.3.3.1 Đa dạng hoá khách hàng

Khách hàng vay vốn chủ yếu tại Sở hiện nay là : Tổng công ty xuất nhập khẩu thuỷ

sản Hà nội, Công ty vật tư nông sản, công ty kim khí hà Nội, Tổng công ty chăn nuôi,

Tổng công ty lương thực miền Bắc... nên Sở dễ bị sức ép từ phía khách hàng về lãi suất,

phí thanh toán. Mặt khác, việc tập trung dư nợ vào một số ít khách hàng sẽ không có lợi

cho phòng ngừa rủi ro tín dụng.

Vì vậy, Sở I cần sử dụng nhiều biện pháp cần thiết để đa dạng hoá khách hàng, thu hút

thêm nhiều khách hàng mới như : cử cán bộ tiếp cận trực tiếp với khách hàng, chủ động

triển khai các hoạt động tín dụng theo các dự án lớn của doanh nghiệp. Sở cũng cần đẩy

mạnh tiếp thị để thu hút thêm các khách hàng vay vốn, khách hàng dịch vụ theo hướng

tập trung vào các Tổng công ty 90 - 91 và các thành viên của Tổng công ty này.

3.3.3.2 Thực hiện chính sách khách hàng phù hợp:

* Đối với khách hàng:

- Do trên địa bàn Hà Nội hiện nay đang diễn ra cuộc cạnh tranh gay gắt trong giành

giật khách hàng bằng cách tăng lãi suất huy động, giảm lãi suất cho vay làm cho Sở gặp

khó khăn. Để có thể cạnh tranh trong tình hình như vậy, Sở cần phải phân loại khách

hàng thường xuyên thông qua phân tích tài chính doanh nghiệp, phân tích thực trạng tín

dụng để có chính sách ưu đãi, chính sách giá cả linh động, phù hợp tình hình cạnh tranh

tuỳ từng thời điểm và tuỳ từng khách hàng.

+ Với những khách hàng truyền thống, có uy tín, khách hàng lớn hoặc khách hàng

mang lại nguồn thu ngoại tệ cho Sở, Sở cần cho vay với lãi suất ưu đãi và phải tăng lãi

suất tiền gửi khi cần thiết để giữ bằng được những khách hàng đã có.

Với những khách hàng nhỏ hoặc khách hàng mới, khách hàng chưa có uy tín, nếu việc

giảm lãi suất cho vay hoặc tăng lãi suất tiền gửi làm cho Sở không có lãi hoặc khó khăn

khi thực hiện thì Sở có thể từ bỏ.

+ Đối với khách hàng gửi tiền: Sở cần phân loại các khách hàng lớn, có nguồn vốn rẻ

để có ưu đãi về phí dịch vụ trong thanh toán, bố trí cán bộ phục vụ tận tình, chu đáo và

nếu cần thiết có thể đến đơn vị của khách hàng để phục vụ.

Đối với khách hàng vay vốn: Sở cần phân loại khách hàng thường xuyên để có chính

sách ưu đãi về lãi suất, điều kiện vay, phương thức cấp tín dụng, phong cách phục vụ...,

đặc biệt là đối với khách hàng có nguồn ngoại tệ cho thanh toán.

Sở cũng cần chú trọng tập trung vào khách hàng lớn, khách hàng có nguồn vốn, khách

hàng kinh doanh có hiệu quả để có chính sách ưu đãi phù hợp.

- SGD I cần tổ chức hội nghị khách hàng hàng năm nhằm tuyên truyền, củng cố mối

quan hệ giữa ngân hàng với khách hàng và biết được những nhu cầu của khách hàng để

đáp ứng kịp thời.

* Đối với cán bộ ngân hàng

Sở cần xem xét để có chính sách khen thưởng xứng đáng đối với những cán bộ đã tiếp

thị, lôi kéo, có sáng kiến mới để lưu giữ, thu hút khách hàng mà đặc biệt là khách hàng

lớn cho Sở.

3.3.4 Phòng ngừa rủi ro tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu

Trong hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu thì rủi ro tín dụng là yếu tố tiềm ẩn

mà các ngân hàng khó có thể triệt tiêu. Các ngân hàng chỉ có thể giảm thiểu rủi ro này

đến mức thấp nhất thông qua việc tuân thủ nghiêm túc các khâu trong quy trình nghiệp

vụ tín dụng, thực hiện phân tán và san sẻ rủi ro. Trong quy trình nghiệp vụ tín dụng, ngân

hàng nên chú trọng vào 2 khâu: khâu thẩm định tín dụng và khâu kiểm tra, kiểm soát sau

khi cấp tín dụng.

3.3.3.1 Nâng cao chất lượng công tác thẩm định tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu

Thẩm định tín dụng là một trong những khâu then chốt trong quy trình tín dụng góp

phần nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tài trợ xuất nhập khẩu tại Sở. Để thẩm

định một dự án đầy đủ, chính xác thì cán bộ tín dụng của Sở phải phân tích đầy đủ các

khía cạnh sau: tư cách khách hàng, năng lực khách hàng, nguồn hoàn trả nợ vay, đảm bảo

tín dụng, môi trường hoạt động kinh doanh của khách hàng, sự kiểm soát của ngân hàng .

- Tư cách khách hàng: cán bộ tín dụng phải xác định rõ mục đích thực sự của khách

hàng khi yêu cầu ngân hàng tài trợ và thái độ nghiêm túc của khách hàng khi hoàn trả nợ

vay. Cán bộ tín dụng còn phải xem xét hồ sơ về quá trình thanh toán của khách hàng với

ngân hàng và vơí ngân hàng khách để đánh giá uy tín của khách hàng.

- Năng lực khách hàng: cán bộ tín dụng cần đảm bảo rằng khách hàng có đủ thẩm

quyền yêu cầu ngân hàng tài trợ và có đủ năng lực pháp lý khi ký hợp đồng tín dụng với

ngân hàng.

- Nguồn hoàn trả nợ vay: dựa trên số liệu của báo cáo tài chính, báo cáo của cơ quan

kiểm toán, báo cáo chi phí hoạt động kinh doanh, hệ số an toàn kinh doanh, năng lực

quản trị của doanh nghiệp, khả năng thanh khoản, nguồn vật tư nguyên liệu tồn kho...để

đánh giá nguồn hoàn trả nợ vay cho ngân hàng.

- Đảm bảo tín dụng: cán bộ tín dụng cần quan tâm đặc biệt đến đặc điểm về chất

lượng, giá trị và khả năng phát mãi tài sản đảm bảo. Đây là những đặc điểm quan trọng,

nó ảnh hưởng đến nguồn thu nợ của ngân hàng khi khách hàng không có khả năng trả nợ.

- Môi trường kinh doanh của khách hàng: đây là một yếu tố quan trọng đối với hoạt

động kinh doanh của khách hàng và khả năng thu hồi vốn của ngân hàng. Môi trường

kinh doanh của khách hàng bao gồm: vị thế và thị phần của khách hàng trên thị trường,

tình hình cạnh tranh, triển vọng phát triển của ngành, môi trường pháp lý chính trị, tình

hình kinh tế của quốc gia và quốc tế...

- Sự kiểm soát của ngân hàng: bao gồm luật, quy chế ngân hàng về hoạt động tín dụng

và chất lượng tín dụng; sự phù hợp giữa nhu cầu tín dụng và chính sách tài trợ của ngân

hàng.

Thẩm định được đầy đủ sáu khía cạnh trên sẽ giúp cán bộ tín dụng của Sở hiểu rõ về

dự án và đây là cơ sở để khoản tín dụng đạt chất lượng tốt.

3.3.3.2 Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát sau khi cấp tín dụng

Công tác kiểm tra, kiểm soát sau khi cấp tín dụng cũng là một khâu then chốt trong

quy trình tín dụng của ngân hàng; đảm bảo việc sử dụng vốn vay của khách hàng đúng

mục đích , phát hiện kịp thời các sai phạm để có biện pháp xử lý, tránh mất vốn của ngân

hàng.

Sở có thể kiểm tra việc sử dụng vốn của khách hàng thông qua chứng từ, sổ sách, hoá

đơn hoặc bản kê chi phí sử dụng tiền vay, thông qua tồn kho vật tư hàng hoá thực tế...

Cán bộ tín dụng của Sở nên thường xuyên kiểm tra việc sử dụng vốn vay của khách hàng

mà không báo trước để có thể phát hiện các sai phạm khi khách hàng chưa kịp chuẩn bị.

Với những khoản tín dụng có tài sản thế chấp, cán bộ tín dụng của Sở cần bám sát việc

sử dụng, bảo vệ tài sản, sự biến động về giá trị của tài sản trên thị trường và các quy định

mới về tài sản thế chấp ... để có biện pháp xử lý kịp thời, đảm bảo nguồn thu nợ vay cho

Sở.

3.3.3.3 Phân tán rủi ro

Hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại SGD I hiện nay chỉ tập trung vào một số

khách hàng lớn như : tổng công ty xuất nhập khẩu thuỷ sản Hà Nội, tổng công ty kim khí

Hà Nội... nên khi những công ty này gặp khó khăn hoặc rủi ro thì sẽ ảnh hưởng rất lớn

đến hoạt động kinh doanh của Sở . Vì vậy, phân tán rủi ro là một biện pháp mà Sở I cần

thực hiện ngay.

- Sở không nên dồn vốn vào một vài khách hàng lớn mà cần tiếp cận thêm nhiều khách

hàng lớn, có uy tín để có thể phân bổ nguồn vốn vào nhiều đối tượng khách hàng khác

nhau. Sở cũng nên cho vay đối nhiều loại hàng hoá khác nhau với các thời hạn khác

nhau.

- Ngoài ra, đối với dự án lớn, có hiệu quả cao, thay vì từ chối vì không đủ vốn thì Sở

nên chủ động tìm kiếm các ngân hàng lớn có kinh nghiệm để có thể đồng tài trợ cho dự

án đó. Với những dự án mà Sở có khả năng tài trợ nhưng mức độ rủi ro hơi cao, Sở cũng

cần liên kết với ngân hàng khác để san sẻ thiệt hại khi rủi ro xảy ra.

3.3.5 Tăng cường tiếp cận nguồn thông tin tài trợ ngoại thương

Nguồn thông tin phục vụ cho hoạt động tín dụng của ngân hàng và độ tin cậy của

nguồn thông tín ấy là một yếu tố quyết định hoạt động tín dụng của ngân hàng. Ngân

hàng nào có nguồn thông tin nhanh hơn, nhiều hơn và chính xác hơn, ngân hàng đó có

thể giảm thiểu rủi ro và đứng vững trong cạnh tranh. Chính vì nguồn thông tin quan

trọng như vậy nên Sở I cần chủ động hơn nữa trong việc tiếp cận nguồn thông tin sẵn có

sau:

- Nguồn thông tin nhằm giảm thiểu rủi ro quốc gia

Nguồn thông tin này gồm có các báo cáo, ấn phẩm về tình hình chính trị, kinh tế của

các nước trên thế giới do các tổ chức xúc tiến mậu dịch quốc tế, tổ chức hỗ trợ phát triển

ngoại thương , tổ chức tài chính quốc tế và cơ quan quốc tế có uy tín phát hành. Các tổ

chức này gồm có IMF, WB, các tổ chức của Liên hiệp quốc và tổ chức chuyên nghiệp

như Moody's, Standard & Poor's...

- Nguồn thông tin nhằm giảm thiểu rủi ro tỷ giá

Nguồn thông tin này gồm các ấn phẩm, các báo cáo đánh giá và dự đoán tình hình,

diễn biến tỷ giá, chính sách ngoại hối của các quốc gia trên thế giới do những tổ chức

chuyên nghiệp phát hành. Những ấn phẩm này gồm có: Financial Times, Euromoney,

Wall Street Journal...

- Nguồn thông tin nhằm giảm thiểu rủi ro khách hàng

Nguồn thông tin này gồm hồ sơ tín dụng của khách hàng, báo cáo quan hệ tín dụng và

uy tín khách hàng do các ngân hàng đối tác hay ngân hàng đại lý cung cấp, báo cáo của

ngành, cơ quan liên quan...

3.3.6 Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng cáo về hoạt động tín dụng tài trợ xuất

nhập khẩu tại Sở.

Ngày nay, khi cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng ngày càng trở nên gay gắt thì việc

đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng cáo về hoạt động ngân hàng là tất yếu và Sở I

cũng không nằm ngoài quy luật đó.

Hiện nay, hoạt động tuyên truyền, quảng cáo tại Sở I tuy đã được quan tâm hơn trước

nhưng kết quả chưa cao do công tác này chưa được thực hiện đều khắp cơ sở. Trong định

hướng thực hiện kế hoạch năm 2002, Sở I có đề ra giải pháp thực hiện marketing nhưng

các giải pháp cho hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu còn chưa thật cụ thể.

Để không ngừng nâng cao khả năng cạnh tranh, tăng uy tín, tăng khả năng sinh lời

trong hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu nói riêng thì

SGD I cần đẩy mạnh hoạt động marketing thông qua chính sách giao tiếp, khuéch trương.

Để tác động có hiệu quả hơn đối với công chúng và đảm bảo giao tiếp có hiệu quả, Sở

cần phải lựa chọn chính sách giao tiếp khuyếch trương phù hợp.

Do hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu tại Sở mới đi vào hoạt động nên nhiều khách hàng

chưa biết hoặc chưa tin tưởng vào hoạt động này tại ngân hàng khi so sánh với các ngân

hàng có kinh nghiệp lâu năm như VIETCOMBANK, ngân hàng nước ngoài...Vì vậy Sở

cần đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền tiếp thị để thu hút thêm nhiều khách hàng

bằng cách:

- Tăng cường quảng cáo trên báo chuyên ngành và đặc biệt là báo được nhiều tầng lớp

dân chúng đọc như báo Hà Nội Mới, báo Lao động...Bên cạnh đó, Sở cũng nên quảng cáo

về hoạt động của ngân hàng mình thông qua các phóng sự trên vô tuyến truyền hình,

thông qua các bài báo. Cách làm này sẽ giúp cho nhiều người biết về những dịch vụ mới

tại Sở và lợi ích của họ khi trở thành khách hàng của Sở.

- Cử cán bộ có tài ăn nói, năng động, nhiệt tình, có trình độ nghiệp vụ đến các doanh

nghiệp nhất là các doanh nghiệp lớn và làm ăn có hiệu quả để giới thiệu về Sở và NHNo,

thuyết phục họ trở thành khách hàng của Sở.

- Lựa chọn cán bộ có khả năng giao tiếp tốt, nhanh nhẹn, nhiệt tình thực hiện nghiệp

vụ mà phải tiếp xúc với khách hàng. Chính phong cách giao tiếp của các nhân viên ngân

hàng sẽ mang lại uy tín cho Sở và giúp Sở thu hút thêm nhiều khách hàng mới mà không

cần quảng cáo.

- SGD I cần tổ chức hội nghị khách hàng hàng năm nhằm tuyên truyền, củng cố mối

quan hệ giữa ngân hàng với khách hàng và biết được những nhu cầu của khách hàng để

đáp ứng kịp thời.

- Sở cũng cần sửa sang địa điểm giao dịch cho khang trang hơn để tạo ấn tượng tốt cho

khách hàng về Sở ngay từ cái nhìn đầu tiên.

3.3.7 Nâng cao chất lượng cán bộ

Trình độ cán bộ và phong cách giao tiếp của họ đối với khách hàng rất quan trọng. Tuy

nhiên, tại Sở hiện nay, một trong những khó khăn là năng lực cán bộ tín dụng chưa đồng

đều và một số cán bộ là mới và chưa có kinh nghiệm.Thêm vào đó, vụ từ chối thanh toán

L/C số: LN/SGDI-00/071 đã gây ảnh hưởng đến uy tín của Sở. Vì vậy, trong thời gian

tới, để lấy lại uy tín với ngân hàng cấp trên và khách hàng trong lĩnh vực quan hệ quốc tế,

Sở cần chú trọng nhiều đến công tác sắp xếp, đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ tín

dụng và thanh toán quốc tế, củng cố thêm nhân sự cho tổ thanh toán quốc tế, có chính

sách đãi ngộ với cán bộ có năng lực và có thành tích trong việc thu hút khách hàng cho

Sở theo hướng:

- Sở phải hướng dẫn cụ thể việc cử những cán bộ có kinh nghiệm kèm cặp cán bộ trẻ

mới vào nghề, mở thêm những lớp nâng cao kiến thức về kinh tế thị trường, tài trợ dự án,

phân tích tài chính doanh nghiệp, marketing, thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại hối

cho cán bộ.

- Sở cũng cần đào tạo ngoại ngữ, tin học theo mức độ phổ cập và chuyên sâu tuỳ theo

yêu cầu của từng cán bộ. Ngoại ngữ đóng vai trò quan trọng trong công tác của các cán

bộ tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu bởi phần lớn hồ sơ, chứng từ là bằng tiếng Anh. Vì

vậy, Sở I cần chú trọng đào tạo ngoại ngữ chuyên ngành cho các cán bộ làm công tác tài

trợ xuất nhập khẩu và thanh toán quốc tế.

- Sở nên tổ chức nhiều đợt tập huấn nghiệp vụ để tất cả các cán bộ có nhu cầu vừa có

điều kiện học thêm vừa có thể đi làm. Bên cạnh đó, Sở nên nâng cao trình độ cán bộ hiện

có bằng cách gửi đi học khoá đào tạo trong nước và nước ngoài ngắn ngày, liên hệ với

các ngân hàng nước ngoài tại Hà Nội để cử cán bộ làm nghiệp vụ thanh toán quốc tế và

nghiệp vụ tín dụng tại Sở I đến học tập kinh nghiệm.

- Sở cũng cần xem xét để hợp đồng, tuyển thêm cán bộ đã qua đào tạo tín dụng, ngoại

thương và có nhiều kinh nghiệm về nghiệp vụ thanh toán quốc tế, tài trợ xuất nhập khẩu.

- Sở cần nhanh chóng đề ra chính sách đãi ngộ hoặc khen thưởng với những cán bộ có

năng lực, nhiệt tình, có thành tích trong hoạt động kinh doanh của Sở. Sở cũng cần đề ra

biện pháp xử phạt với những cán bộ có trách nhiệm.

- Sở cần tổ chức khoán một số khoản chi phí, khoán tiền lương theo công việc với từng

đơn vị và từng cán bộ công nhân viên, thực hiện việc trả lương theo số lượng, chất lượng,

hiệu quả công việc. Đây chính là động lực để gắn kết cán bộ, nhân viên của SGD I và kết

quả kinh doanh của Sở trong môi trường cạnh tranh ngày càng quyết liệt như hiện nay.

3.4 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TÀI

TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU

Thực tiễn hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu cho thấy có nhiều hình thức tài trợ

mà ngoài các tổ chức tài trợ do chính phủ thành lập, các NHTM có vai trò đặc biệt quan

trọng trong việc thực hiện các hình thức tài trợ ngoại thương khác như chiết khấu bộ

chứng từ hàng xuất, chiết khấu hối phiếu, bao thanh toán...Vì vậy, các ngân hàng cấp

trên, NHNN và Chính phủ cần tạo điều kiện để các NHTM thực hiện tốt nghiệp vụ tài trợ

xuất nhập khẩu của mình.

3.4.1 Kiến nghị đối với NHNo&PTNTVN

Trong thời gian qua, hoạt động quan hệ đối ngoại nói chung và hoạt động tín dụng tài

trợ xuất nhập khẩu nói riêng của NHNo&PTNTVN đã có nhiều đổi mới. Tuy nhiên, có

một số vấn đề cần NHNo&PTNTVN giải quyết nhằm phát triển mạnh mẽ hơn hoạt động

tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu:

- Đề nghị NHNo&PTNTVN triển khai việc hướng dẫn cụ thể các văn bản, chính sách,

chế độ của Chính phủ, của các ngành có liên quan đến xuất nhập khẩu, quản lý ngoại hối

và tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu và các quy định của chính NHNo&PTNTVN tới Sở và

các chi nhánh một cách kịp thời.

- NHNo&PTNTVN cần sửa đổi, bổ sung một số điểm trong Quy trình nghiệp vụ cụ thể

mới về thanh toán quốc tế (trong đó có tài trợ xuất nhập khẩu) của NHNo&PTNTVN là

văn bản 447 có hiệu lực thi hành từ 1/7/2001. Cụ thể là:

Văn bản 447 quy định: thư yêu cầu mở L/C phải có chữ ký của chủ tài khoản và kế

toán trưởng, nhưng với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên thì chỉ có 1 chữ ký

của chủ tài khoản. Vì vậy trên đơn xin mở L/C chỉ nên quy định phải có chữ ký của chủ

tài khoản và kế toán (nếu có)

Số tiền chiết khấu bộ chứng từ nên để cho Sở tự quyết định và chịu trách nhiệm, có

thể số tiền chiết khấu là 98% sau khi đã trừ đi các khoản phí và một tỷ lệ rủi ro nhất

định. Như vậy mới có thể khuyến khích khách hàng xuất chiết khấu bộ chứng từ tại

NHNo&PTNTVN.

- Về vấn đề ngoại tệ:

Văn bản 901 của Tổng giám đốc NHNo&PTNT quy định về cho vay ưu đãi hàng

xuất khẩu, thu gom hàng ngoại tệ nhưng không quy định rõ thời gian cho vay được

hưởng với lãi suất ưu đãi (0,45%/ tháng) trên số tiền USD mà đơn vị bán lại cho NHNo,,

do đó chưa khuyến khích các đơn vị có điều kiện khai thác ngoại tệ. Đề nghị Tổng giám

đốc NHNo&PTNT quy định thời gian cụ thể được hưởng lãi suất ưu đãi 0,45%/tháng và

quy định khuyến khích lãi suất theo từng mức khác nhau dựa trên số lượng ngoại tệ bán

lại cho Trung tâm hối đoái qua Sở giao dịch theo văn bản 901 đối với các đơn vị thừa

vốn để khuyến khích nguồn ngoại tệ .

Do khách hàng của Sở I có nhu cầu ngoại tệ lớn, chủ yếu là USD nên đề nghị SGD

NHNo&PTNT hỗ trợ nguồn ngoại tệ để Sở I có thể chủ động trong thanh toán.

Việc mua bán ngoại tệ từ các ngân hàng bạn trên cùng địa bàn còn vướng mắc trong

hạch toán do lệnh chuyển tiền từ ngân hàng bạn vào tài khoản của NHNo&PTNTVN tại

Vietcombank hay các ngân hàng nước ngoài còn chậm, việc hoạch toán phải 2-3 ngày

mới có sổ phụ. Việc thanh toán hiện nay thường qua bù trừ tại NHNN thường mất ít nhất

là 2 ngày. Vì vậy, đề nghị Trung tâm hối đoái cho phép Sở I được mở tài khoản ngoại tệ

tại Vietcombank để thuận tiện trong triển khai hoạt động mua bán ngoại tệ và tiết kiệm

thời gian giao dịch .

- Đề nghị Tổng giám đốc chỉ đạo công tác đào tạo quan tâm hơn nữa tới hoạt động

đào tạo nghiệp vụ thanh toán quốc tế và tài trợ xuất nhập khẩu bởi đây là nghiệp vụ đặc

biệt cần thiết cho hoạt động kinh doanh ngân hàng trong điều kiện kinh tế thị trường với

quan hệ đa phương, nhất là khi Hiệp định thương mại Việt - Mỹ có hiệu lực.

- Đề nghị NHNo&PTNT cho phép Sở I thành lập 5 phòng:

. Phòng chăm sóc khách hàng

. Phòng thanh toán quốc tế

. Phòng kế hoạch

. Phòng vi tính

Việc thành lập các phòng trên sẽ tạo điều kiện cho Sở triển khai chuyên môn, nghiệp

vụ tốt hơn. Trong đó, việc thành lập phòng " Chăm sóc khách hàng " sẽ có tác động mạnh

đến tâm lý khách hàng, giúp Sở thu hút thêm nhiều khách hàng mới và tạo điều kiện để

Sở thực hiện tốt hơn chính sách khách hàng và đẩy mạnh hoạt động giao tiếp, khuyếch

trương.

- Làm việc ngoài giờ là thực tế đòi hỏi của công việc, đặc biệt là vào thời điểm cuối

năm hoặc khi ngân hàng muốn thu hút thêm khách hàng. Do vậy, đề nghị

NHNo&PTNTVN có cơ chế tài chính xử lý vấn đề này để tháo gỡ cho Sở I nói riêng và

cho các thành viên của NHNo&PTNTVN nói chung.

3.4.2 Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước.

NHNN cần có thông tư, quyết định hướng dẫn cụ thể hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu

của các NHTM trong những thời kỳ cụ thể hoặc khi có những sự kiện kinh tế lớn diễn ra

trong nước và trên thế giới.

NHNN cần hoàn thiện quy chế cầm cố, thế chấp và đảm bảo tiền vay. Việc quy định

các DNNN không cần đảm bảo tiền vay gây không ít khó khăn cho hoạt động tín dụng

của các ngân hàng.

Thị trường liên ngân hàng là thị trường nhằm giải quyết mối quan hệ trao đổi, cung

cầu vốn giữa các NHTM. Việc thị trường liên ngân hàng phát triển giúp cung cấp nguồn

vốn kịp thời và đầy đủ cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng, giúp cho các ngân hàng

chớp được thời cơ kinh doanh của mình và đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Vì

vậy việc NHNN có biện pháp kích thích sự phát triển của thị trường liên ngân hàng là vô

cùng cần thiết.

3.4.3 Kiến nghị đối với Chính phủ

3.4.3 Hoàn thiện môi trường pháp lý

Hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu nói riêng

chỉ an toàn và hiệu quả khi nó có một môi trường pháp lý ổn định, đồng bộ và nhất quán.

Đó là bởi vì hoạt động ngân hàng có liên quan đến tất cả các ngành, các thành phần kinh

tế nên luật pháp và quy định của các ngành, các thành phần này ảnh hưởng lớn đến hoạt

động ngân hàng. Thêm vào đó, hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tiềm ẩn rất

nhiều rủi ro do hoạt động này chịu rủi ro của cả 2 hoạt động: hoạt động tín dụng và hoạt

động thanh toán quốc tế. Vì vậy, để đảm bảo tính an toàn và hiệu quả cho hoạt động ngân

hàng nói chung và hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu nói riêng, Chính phủ nên

thực hiện các biện pháp sau nhằm hoàn thiện môi trường pháp lý, tạo điều kiện cho sự

phát triển hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng và hoạt động xuất nhập khẩu

của các doanh nghiệp :

Có chủ trương, chính sách, cơ chế quản lý nhằm đảm bảo môi trường pháp lý để các

đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu yên tâm hoạt động và tạo môi trường kinh doanh bình

đẳng cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu mà không phân biệt thành phần

kinh tế.

Sớm ban hành chiến lược xuất khẩu quốc gia, trong đó chiến lược thương mại hướng

về xuất khẩu là căn cứ để các doanh nghiệp và các NHTM có chiến lược kinh doanh của

mình.

Khẩn trương xây dựng Đề án thành lập ngân hàng xuất nhập khẩu. Chính phủ cũng

cần thành lập các trung tâm hỗ trợ xúc tiến thương mại cho doanh nghiệp để cung cấp

cho các doanh nghiệp thông tin về thị trường, về uy tín của các đối tác thương mại, về

pháp luật và thủ tục hành chính của nước bạn hàng...

Xây dựng hệ thống bảo hiểm xuất nhập khẩu và bảo hiểm tín dụng xuất nhập khẩu.

3.4.3 Chính sách hỗ trợ tài chính

Chính phủ nên có chính sách hỗ trợ tài chính như :

Có chính sách tín dụng ưu đãi đối với doanh nghiệp sản xuất mặt hàng mới để phục

vụ xuất khẩu để ngân hàng làm căn cứ xây dựng chính sách tín dụng tài trợ xuất nhập

khẩu của mình.

Giảm thuế xuất khẩu và nhập khẩu nhằm giúp doanh nghiệp nâng cao lợi nhuận để tái

đầu tư phục vụ xuất khẩu.

Hỗ trợ việc hình thành quỹ bảo hiểm tín dụng xuất nhập khẩu.

Xác định những ngành hàng có thế mạnh để hỗ trợ thêm đồng thời chuyển đổi cơ cấu

hàng xuất khẩu theo hướng tăng tỷ trọng sản phẩm hàng hoá đã qua chế biến.

Có chính sách lãi suất hỗ trợ vay vốn ngân hàng hợp lý để vừa điều tiết nền kinh tế,

tạo điều kiện để các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu vừa tạo điều

kiện cho các NHTM xử lý linh hoạt lãi suất để tài trợ xuất nhập khẩu. Thực hiện tốt chính

sách này sẽ tránh tình trạng lãi suất ưu đãi đầu ra nhỏ hơn lãi suất đầu vào của các

NHTM, gây bất lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu và hoạt động ngân hàng.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Trên cơ sở định hướng phát triển hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam và định

hướng hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNTVN, của SGD I trong thời gian tới, trên

cơ sở những kết quả và tồn tại của hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại SGD I -

NHNo&PTNTVN, chương 3 đã đưa ra các giải pháp phù hợp nhằm phát triển hoạt động

tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại SGD I.

Các giải pháp nhằm phát triển hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại SGD I là:

. Giải pháp thu hút nguồn vốn

. Hoàn thiện và đa dạng hoá các hình thức tín dụng tài trợ XNK tại SGD I

. Đa dạng hoá khách hàng và thực hiện chính sách khách hàng phù hợp

. Phòng ngừa rủi ro tín dụng tài trợ XNK

. Tăng cường tiếp cận nguồn thông tin tài trợ ngoại thương

. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng cáo hoạt động tài trợ ngoại thương tại Sở.

. Nâng cao chất lượng cán bộ

Bên cạnh việc đưa ra các giải pháp nhằm phát triển hoạt động tín dụng tài trợ xuất

nhập khẩu tại SGD I, chương 3 còn đưa ra một số kiến nghị đối với NHNo&PTNTVN,

NHNN và Chính phủ.

KẾT LUẬN

Trong những năm qua, ngành Ngân hàng Việt Nam đang từng bước khẳng định vai trò

quan trọng của mình trong chiến lược phát triển kinh tế do Đảng và Nhà nước đề ra.

Cùng với các hoạt động kinh doanh khác, hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của

NHNo&PTNTVN nói chung và của SGD I nói riêng đã đạt được không ít thành tựu. Từ

những bước đầu khó khăn khi mới thực hiện nghiệp vụ tài trợ ngoại thương do thiếu kinh

nghiệm, thiếu vốn, chưa có uy tín..., đến nay sau gần 5 năm hoạt động, hoạt động này tại

SGD I không những phát triển mạnh mà còn và tạo điều kiện cho các hoạt động kinh

doanh khác của Sở cùng phát triển.Tuy hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu tại SGD I đã đạt

được những kết quả đáng khích lệ: doanh số tài trợ ngày càng tăng, tỷ lệ nợ quá hạn

thấp..., hoạt động này tại SGD I cũng gặp phải những khó khăn cần được sự quan tâm

giúp đỡ của NHNo&PTNTVN và NHNN.

Trong thời gian thực tập tại SGDI , được sự giúp đỡ nhiệt tình của ban lãnh đạo cùng

toàn thể các cô chú, các anh chị phòng Kế hoạch và kinh doanh SGD I, với sự cố gắng

của bản thân kết hợp những lý luận đã học với tình hình thực tế của Sở giao dịch I, em đã

mạnh dạn nêu ra một số ý kiến có tính chất tham khảo để SGDI NHNo & PTNTVN

nghiên cứu, xem xét góp phần phát triển hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại Sở.

Cùng với quá trình hoạt động và phát triển của nền kinh tế và của SGD I, nhiều nhu cầu

và khó khăn mới sẽ nảy sinh đòi hỏi những biện pháp giải quyết phù hợp. Hy vọng rằng

trong thời gian tới SGDI NHNo & PTNTVN sẽ không ngừng phát triển nghiệp vụ tài trợ

xuất nhập khẩu, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh tốt và là tiền

đề để hoàn thành chiến lược phát triển kinh tế do Đảng và Nhà nước đề ra.