Thuốc trong điều trị bệnh

đa hồng cầu

Đa hồng cầu là một trong những bệnh lý tăng sinh tủy ác tính

không rõ căn nguyên, đặc trưng bởi sự tăng sinh của cả 3 dòng hồng

cầu, bạch cầu và tiểu cầu ở trong tủy xương, dẫn đến sự gia tăng số

lượng của các tế bào này trong máu ngoại vi, đặc biệt là số lượng hồng

cầu.

Đa hồng cầu là một trong những bệnh lý tăng sinh tủy ác tính không

rõ căn nguyên, đặc trưng bởi sự tăng sinh của cả 3 dòng hồng cầu, bạch cầu

và tiểu cầu ở trong tủy xương, dẫn đến sự gia tăng số lượng của các tế bào

này trong máu ngoại vi, đặc biệt là số lượng hồng cầu. Độ lưu hành của bệnh

khoảng 0,5 - 2,3 trường hợp/100.000 dân, gặp chủ yếu ở người lớn tuổi với

tuổi mắc bệnh trung bình là 60 (chỉ có 7% các ca bệnh xảy ra trước tuổi 40).

Các biểu hiện thường gặp của bệnh là đau đầu, hoa mắt, chóng mặt, ù tai,

nhìn mờ, chảy máu cam, xuất huyết tiêu hóa, bầm tím tự nhiên trên da, ngứa,

ra nhiều mồ hôi, gầy sút, mặt và lòng bàn tay đỏ, đau nhức xương, gan lách

to và các biểu hiện tắc mạch như đau cách hồi, nhồi máu não. Xét nghiệm

máu ngoại vi có tăng số lượng hồng cầu và lượng huyết sắc tố, có thể kèm

theo tăng số lượng tiểu cầu, bạch cầu và histamin.

Có 2 phương pháp điều trị bệnh đa hồng cầu: trích máu và dùng

thuốc.

Trích máu: trích máu định kỳ là liệu pháp quan trọng nhất trong xử trí

đa hồng cầu để duy trì lượng hematocrit không vượt quá 45%, vì các nghiên

cứu đã chỉ ra rằng, khi hematocrit vượt quá con số này sẽ gây giảm khả năng

tưới máu cho não và nguy cơ cao xảy ra các biến chứng như tắc mạch não,

rối loạn khả năng nhận thức. Trích máu giúp giảm nhanh và chọn lọc số

lượng hồng cầu cũng như quá trình tạo hồng cầu mà không gây ức chế tủy

xương, nhu cầu trích máu sẽ giảm dần ở hầu hết bệnh nhân. Tuy nhiên,

phương pháp điều trị này làm tăng nguy cơ thiếu sắt và có thể gây ra các rối

loạn huyết động ở một số bệnh nhân. Ngoài ra, trích máu cũng kích thích tủy

xương và quá trình sinh mẫu tiểu cầu, từ đó làm tăng số lượng tiểu cầu trong

máu ngoại vi.

Trích máu nhiều lần có thể góp phần làm tăng tính ngưng tập của tiểu

cầu, từ đó làm tăng nguy cơ các biến chứng tắc mạch, do đó, nên phối hợp

thêm các thuốc chống ngưng tập tiểu cầu như aspirin, ticlodipin ở những

bệnh nhân phải trích máu nhiều lần, nhất là ở những người có tăng số lượng

tiểu cầu trong máu ngoại vi. Mặc dù việc phối hợp các thuốc này có thể làm

tăng nguy cơ xuất huyết nhưng các biến chứng này thường nhẹ trừ khi người

bệnh có số lượng tiểu cầu tăng quá cao. Những trường hợp bệnh nhân có số

lượng tiểu cầu trong máu tăng quá cao hoặc không dung nạp với trích máu

cần được điều trị bằng thuốc.

Dùng thuốc

Hiện nay, có 3 loại thuốc chính được sử dụng để giảm số lượng hồng

cầu trong máu là hydroxyurea, interferon-alfa và anagrelide.

Hydroxyurea

Hydroxyurea (HU) hiện là một trong những thuốc quan trọng nhất

trong điều trị bệnh đa hồng cầu, sau khi phốt pho phóng xạ (32P) và các tác

nhân hóa trị liệu khác như clorambucil đã không còn được sử dụng do làm

tăng nguy cơ chuyển dạng thành ung thư máu. Mặc dù nguy cơ gây chuyển

dạng thành ung thư máu của thuốc này không rõ rệt trên lâm sàng, nhưng rõ

ràng nó có khả năng gây đột biến và các loại ung thư nên cần hết sức thận

trọng khi sử dụng thuốc này cho những bệnh nhân trẻ tuổi. Bên cạnh đó, HU

gây ức chế tủy xương và do đó, làm giảm không chọn lọc cả số lượng hồng

cầu, bạch cầu và tiểu cầu, đồng thời có thể gây ra thiếu máu. Đáp ứng với

HU thường dao động trong quá trình điều trị. Sau khi ngừng dùng thuốc,

bệnh thường chỉ ổn định trong thời gian ngắn và có tình trạng tăng tiểu cầu

trong máu ngoại vi. Do đó, HU cần được sử dụng liên tục kéo dài, nhưng

điều này có thể làm tăng nguy cơ gây ung thư. Ngoài ra, HU còn có thể gây

các tác dụng phụ khác như rối loạn sắc tố móng hoặc các ổ loét ở mắt cá

chân, các ổ loét này thường chậm liền sau khi ngưng dùng thuốc và có thể

cần phải điều trị bằng ghép da. HU có thể qua được rau thai và gây dị dạng

thai nên cần tránh sử dụng ở những phụ nữ đang mang thai.

Interferon-alfa

Interferon-alfa (IFN-a) được sử dụng trong điều trị đa hồng cầu sau

khi có những bằng chứng cho thấy hiệu quả của thuốc này trong điều trị một

loại bệnh tăng sinh tủy ác tính khác là bệnh lơxêmi kinh dòng hạt. IFN-a có

tác dụng ức chế tủy xương nên cũng gây giảm cả hematocrit, số lượng tiểu

cầu và bạch cầu trong máu ngoại vi. Ưu điểm của thuốc này là tác dụng

được duy trì sau khi ngưng dùng thuốc và không gây chuyển dạng thành ung

thư máu và không gây đột biến gen, do đó, có thể sử dụng cho những bệnh

nhân trẻ tuổi. Tác dụng phụ thường gặp của IFN-a trong giai đoạn đầu dùng

thuốc là hội chứng giống cúm, nhưng nếu dùng kéo dài, thuốc có thể gây các

triệu chứng tiêu hóa và tâm thần kinh ở 15 - 30% số bệnh nhân, các tác dụng

phụ này phụ thuộc vào liều dùng. Liều dùng thông thường của IFN-a là 3 - 5

triệu đơn vị/ngày cho đến khi đạt được mục đích điều trị, sau đó giảm dần

liều. IFN-a không qua được rau thai nên có thể dùng được ở phụ nữ có thai.

Một nhược điểm quan trọng của IFN-a là rất đắt tiền.

Anagrelide

Anagrelide là một chất ức chế men prostaglandin synthase. Đầu tiên,

thuốc này được sử dụng với mục đích ức chế sự trưởng thành của mẫu tiểu

cầu, từ đó ức chế sự sinh sản của dòng tiểu cầu, tuy nhiên, người ta nhận

thấy tác dụng phụ gây thiếu máu của thuốc ở một số bệnh nhân với cơ chế

chưa được biết rõ. Đây là lý do anagrelide được sử dụng trong điều trị bệnh

đa hồng cầu. Anagrelide không gây giảm số lượng bạch cầu và không gây ức

chế tủy xương, không có nguy cơ gây chuyển dạng thành ung thư máu

nhưng có thể qua được rau thai và gây giảm số lượng tiểu cầu của thai nhi.