HỌC VIỆN NGOẠI GIAO KHOA CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ & NGOẠI GIAO ------***------
TIỂU LUẬN
MÔN: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI II
Đề tài:
HÌNH ẢNH “BẠN” CỦA VIỆT NAM TRÊN TẠP CHÍ CỘNG SẢN GIAI ĐOẠN 1975-1979
Hà Nội, 4/2018
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
1
NỘI DUNG
3
1. Tiêu chí chọn bạn
3
1.1. Một số thống kê
3
1.1.1. Tổng kết số lượng các bài:
3
1.1.2. Số lượng các bài theo vị trí
4
1.1.3 Thống kê số lượng những từ ngữ tiêu biểu:
7
1.2. Đánh giá chung
8
2. Phân tích chi tiết các mối quan hệ bạn bè của Việt Nam
9
2.1. Với Liên Xô
9
2.1.1. Định lượng
9
2.1.2. Mối quan hệ Việt Nam - Liên Xô được phản ánh qua tạp chí Cộng sản
giai đoạn 1975-1979
13
2.2. Với Trung Quốc
15
2.2.1. Định lượng
15
2.2.2. Định tính
17
2.3. Với các nước Đông Dương
20
2.3.1. Lào
20
2.3.1.1. Định lượng
20
2.3.1.2 Định tính
24
2.3.2. Cam-pu-chia
27
2.3.2.1. Định lượng
27
2.3.2.2. Định tính
31
2.4. Với các nước khác
34
2.4.1. Các nước XHCN khác
34
2.4.1.1. Định lượng
34
2.4.1.2. Định tính
38
2.4.2. Các nước Đông Nam Á khác
40
2.4.2.1. Định lượng
40
2.4.2.2. Định tính
40
2.4.3. Các nước đang đấu tranh giải phóng dân tộc
42
2.4.3.1. Định lượng
42
2.4.3.2. Định tính
45
2.4.4. Các dân tộc tiến bộ
47
2.4.4.1. Định lượng
47
2.4.4.2. Định tính
48
3. Đánh giá và nhận xét
50
KẾT LUẬN
52
PHỤ LỤC
54
LỜI NÓI ĐẦU
Năm 1975, Việt Nam vừa bước ra từ một cuộc chiến tranh cứu nước lâu dài
nhất, khó khăn nhất và vĩ đại nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của nhân dân ta.
Một kỉ nguyên mới đã mở ra trên đất nước Việt Nam: hòa bình, độc lập, thống nhất,
cả nước đi vào xây dựng trong hòa bình, quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã nâng cao uy tín vị trí của Việt Nam
trên trường quốc tế. Tranh thủ tình hình thuận lợi, Đảng và nhà nước Việt Nam đã
mở rộng quan hệ đối ngoại và hợp tác kinh tế với nước ngoài, nhằm thu hút vốn,
thiết bị kỹ thuật phục vụ công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh chống lại bao
vây cô lập. Từ năm 1975 đến năm 1977, Việt Nam đã thiết lập thêm quan hệ ngoại
giao với 23 nước.
Có thể thấy, quan điểm về bạn - thù của Việt Nam thời kỳ này được phân
biệt khá rõ ràng. Chúng ta coi trọng hợp tác toàn diện với các nước xã hội chủ nghĩa
trong đó nổi bật lên là mối quan hệ với Liên Xô và Trung Quốc, quan hệ đặc biệt
với các nước Đông Dương, sẵn sàng thiết lập quan hệ ngoại giao với các chính phủ
ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của các nước Đông Nam Á vì hòa bình, độc lập,
trung lập thực sự. Đồng thời, Việt Nam cũng ủng hộ cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc
lập dân tộc, dựa trên nguyên tắc quốc tế của nhân dân trên toàn thế giới. Trong giai
đoạn từ 1978-1979 mặc dù có nhiều vấn đề nảy sinh, đặc biệt là vấn đề về Cam-pu-
chia và Trung Quốc, tuy nhiên, yếu tố ý thức hệ và nêu cao ngọn cờ đấu tranh giai
cấp vẫn hoàn toàn chi phối chúng ta thời kì này.
Khi nghiên cứu về chính trị, ngoại giao của một nước, báo chí luôn cần thiết
được tìm hiểu một cách rõ ràng và chi tiết. Đặc biệt với truyền thông báo chí tại
Việt Nam không có báo chí tư nhân hữu, chính phủ vẫn giữ vai trò chủ đạo để định
hướng cho báo chí, những tờ báo chủ chốt còn là kênh thông tin vô cùng quan
trọng, thể hiện ý thức chính trị, chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước, định
hướng dư luận. Tạp chí Cộng sản là cơ quan lý luận và chính trị của Trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam, trước đây có tên là Tạp chí Học Tập ra đời vào năm
1955 trong hội nghị trung ương VII của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tạp chí Cộng
sản là đơn vị sự nghiệp trung ương của Đảng, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp và
thường xuyên của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, có chức năng là cơ quan lý luận và
chính trị của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Chính vì vậy, nghiên cứu phân
tích những bài viết, thông tin có trong Tạp chí cộng sản là một cách hiệu quả để
hiểu được chính sách của Đảng ta trong.
Trong bài tiểu luận này, nhóm sẽ đưa ra một số thông kê, phân tích nội dung,
từ ngữ của các bài báo ra hàng tháng trong các năm từ 1975-1979 để làm rõ định
nghĩa của Việt Nam về bạn thời kì này, Việt Nam coi ai là bạn và phân tích những
mối quan hệ đó. Cuối cùng nhóm sẽ kết luận, những yếu tố chi phối quan điểm về
bạn của Việt Nam trong giai đoạn 1975 -1979.
NỘI DUNG
1. Tiêu chí chọn bạn
1.1. Một số thống kê
Theo nguồn tài liệu hiện có, chúng tôi tiến hành nghiên cứu 60 số báo Tạp chí
Cộng sản phát hành hằng tháng từ tháng 1/1975 đến tháng 12/1979. Đối tượng
nghiên cứu chính mà chúng tôi hướng đến là quan điểm của các tác giả về yếu tố
bạn đối với Việt Nam thời kì này và những đối tượng được Việt Nam coi là bạn.
1.1.1. Tổng kết số lượng các bài:
Dưới đây là tổng kết các bài có xuất hiện đối tượng nghiên cứu:
Năm Số bài
1975 28
1976 13
1977 17
1978 13
1979 20
Bảng 1.1.1. Số lượng bài có xuất hiện đối tượng nghiên cứu
Biểu đồ 1.1.1. Số lượng bài có xuất hiện đối tượng nghiên cứu
Có thể thấy rằng, một tháng trung bình có 12 số báo, trung bình năm là 144 số.
Trong khi đó, số lượng bài có xuất hiện yếu tố bạn ít nhất là năm 1978 với 13 số,
năm 1975 xuất hiện nhiều nhất với 28 số. Điều này cho thấy, các bài viết về bạn
xuất hiện thường xuyên với số lượng tương đối lớn đặc biệt là năm 1975, khi chúng
ta vừa giải phóng miền Nam, giành thắng lợi hoàn toàn, rất nhiều bài báo cáo kết
quả cuộc chiến tranh miền Nam trong đó có bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc với các quốc
gia xã hội chủ nghĩa anh em, dân tộc tiến bộ và yêu chuộng hòa bình trên toàn thế
giới.
1.1.2. Số lượng các bài theo vị trí
Bố cục thông thường của một cuốn Tạp chí Cộng sản:
Một cuốn Tạp chí Cộng sản thường có 78-100 trang với khoảng 12 bài mỗi
số. Trong đó bài đăng trang nhất thường là các bài xã luận, tiếp theo đó, phần trung
tâm có thể là những bài báo cáo hoặc nghiên cứu về các vấn đề về xã hội, kinh tế,
xây dựng và tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam, cũng như đánh giá về các sự kiện
quốc tế; trong các số của Tạp chí Cộng sản cũng có những bài giới thiệu sách, các
diễn đàn khoa học và những bài phê phán tư tưởng của chủ nghĩa tư sản.
Dưới đây là thông kê lượng các bài báo theo vị trí:
Năm Bài đăng trang nhất Bài trung tâm Bài đăng trang cuối
1975 6 15 7
1976 1 12 0
1977 2 4 11
1978 3 8 2
1979 2 18 0
Bảng 1.1.2. Vị trí các bài báo có yếu tố “bạn” trong các số báo Tạp chí Cộng sản
giai đoạn 1975-1979
Biểu đồ 1.1.2. Vị trí các bài báo có yếu tố “bạn” trong các số báo Tạp chí Cộng
sản giai đoạn 1975-1979
1.1.3 Thống kê số lượng những từ ngữ tiêu biểu:
Số lần xuất hiện qua từng năm
STT Từ khóa Số lần xuất hiện tổng cộng 1975 1976 1977 1978 1979
1 “anh em” 128 16 15 8 28 61
2 “đồng chí” 76 3 27 2 32 12
3 “bạn” 33 1 0 2 13 17
4 130 27 17 5 47
tình bạn/tình cảm/ tình hữu nghị/ tình đoàn kết 34
5 68 nhân dân tiến bộ 16 15 6 18 13
6 40 15 5 5 8 7 lực lượng xã hội chủ nghĩa
7 111 12 50 0 45 4 phong trào giải phóng dân tộc
8 ba nước Đông Dương 20 4 2 1 9 4
9 164 giúp đỡ/ủng hộ 37 41 9 32 45
10 35 hợp tác 8 6 1 13 7
11 901 xã hội chủ nghĩa 230 185 218 70 198
12 114 29 20 10 26 29 chủ nghĩa cộng sản/ phong trào cộng sản
13 chủ nghĩa Mác - Lenin 80 12 28 13 11 16
14 ba dòng thác cách mạng 60 5 20 10 6 19
15 16 keo sơn 3 0 1 7 5
16 tế/ 188 15 94 35 33 11 công nhân quốc phong trào công nhân
15 1 17 đồng minh 7 2 1 4
Bảng 1.1.3. Thống kê số lượng những từ khóa tiêu biểu trong các số báo qua các năm
Biểu đồ 1.1.3. Thống kê số lượng từ khóa tiêu biểu trong các số báo qua các năm
1.2. Đánh giá chung
Có thể thấy, giữa bối cảnh cuộc chiến tranh lạnh giữa hai phe hai cực trên thế
giới diễn ra vô cùng căng thẳng tiêu chí để Việt Nam coi là bạn thời kì này rất rõ
ràng đó là các nước, các dân tộc chống lại “kẻ thù chung” đó là chủ nghĩa đế quốc,
chủ nghĩa tư sản mà đứng đầu là để quốc Mỹ. Cụ thể hơn, các đối tượng Việt Nam
về bạn thời kì này bao gồm:
Các nước xã hội chủ nghĩa -
Các nước Đông Dương -
Các nước Đông Nam Á khác -
- Các nước tham gia phong trào giải phóng dân tộc và phong trào không liên
kết.
- Các dân tộc tiến bộ
Tuy nhiên với mỗi một mối quan hệ, chúng ta lại có cách đánh giá khác nhau
từ đó đưa ra những chính sách đối ngoại khác nhau. Các số liệu và lập luận sau đây
sẽ đưa ra những phân tích làm rõ từng mối quan hệ.
2. Phân tích chi tiết các mối quan hệ bạn bè của Việt Nam
2.1. Với Liên Xô
2.1.1. Định lượng
Số lần xuất
Năm Số bài Tên bài hiện từ
“Liên Xô”
1975 6 ● Nền kinh tế Liên Xô không ngừng phát triển 118
● Thắng lợi vẻ vang của 30 năm đấu tranh giải phóng
● Dân tộc ta có đủ tinh thần và nghị lực, sức mạnh và
tài năng, biến nước ta thành một nước văn mình,
giàu mạnh
● Lăng Hồ Chủ tịch tượng trưng cho tình cảm của của
toàn Đảng, toàn dân đối với vị lanh tụ vô cùng kính
mến
● Nhật lệnh của Đại tướng Võ Nguyên Giáp ngày 2-9-
1975
● 30 năm đấu tranh ngoại giao vì độc lập, tự do của tổ
quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội
1976 3 ● Chính sách đại đoàn kết và thắng lợi của cách mạng 92
Việt Nam.
● Nhân dân Liên Xô tiến mạnh trên con đường xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa cộng sản
● Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV
của Đảng Cộng sản Việt Nam
1977 4 ● Tình hình thế giới sau thắng lợi của Việt - Nam và 158
thất bại của Mỹ
● Một tác phẩm quan trọng về tình hình thế giới và
trách nhiệm quốc tế của Đảng ta
● Nhân dân Việt Nam quyết góp phần xứng đáng hơn
nữa vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân thế giới
● Sáu mươi năm lớn mạnh không ngừng của Nhà
nước Xã hội chủ nghĩa đầu tiên.
● Cách mạng tháng Mười và Cách mạng Việt Nam.
● Những tiến bộ vượt bậc của Liên Xô qua các kế
hoạch 5 năm
1978 3 ● Khẩu hiệu kỷ niệm lần thứ 33 Cách mạng tháng 132
Tám và Quốc khánh 2-9
● Tất cả vì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa
● Cả nước một lòng bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa
1979 13 ● Hãy làm tốt những nhiệm vụ cách mạng của năm 155
1979
● Họ được gì từ khi trực tiếp ra tay
● Lời kêu gọi
● Chiến thắng oanh liệt
● Nhân dân Việt Nam nhất định thắng lợi, giặc Trung
Quốc xâm lược nhất định thất bại
● Cả loài người tiến bộ lên án Trung Quốc, ủng hộ
Việt Nam
● Kiên quyết đập tan âm mưu xâm lược của bọn phản
độn Trung Quốc
● Nhân dân Lào kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền
và toàn vẹn lãnh thổ của mình.
● Bài phát biểu của đồng chí Tố Hữu - Trưởng đoàn
Việt Nam ở Hội nghị các bí thư Trung ương Đảng
họp tại Béc-lin từ ngày 3 đến 5/7/1979
● Ba mươi năm hoạt động của Hội đồng tương trợ
kinh tế
● Tiếp tục phấn đấu thực hiện di chúc thiêng liêng của
Hồ chủ tịch
● Quan hệ kinh tế Việt-nam - Liên-xô ngày càng phát
triển
● Về vấn đề Cam-pu-chia
Bảng 2.1.1. Số lần xuất hiện của Liên Xô với vai trò là bạn của Việt Nam trong các
số báo giai đoạn 1975-1979
Biểu đồ 2.1.1. Số bài viết nhắc tới Liên Xô với vai trò là “bạn” của Việt Nam trong
các số báo giai đoạn 1975-1979
2.1.2. Mối quan hệ Việt Nam - Liên Xô được phản ánh qua tạp chí Cộng sản giai
đoạn 1975-1979
Trong thời kì đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược, giành thắng lợi toàn
văn cũng nhưng sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, đi vào xây dựng trong hòa
bình, Liên Xô vẫn luôn ủng hộ Việt Nam trong nhiều mặt về quốc phòng, về khôi
phục và phát triển kinh tế,...Có thể thấy, ngay trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IV” đã xác định chính sách đối ngoại
của Việt Nam : “Đoàn kết và hợp tác toàn diện vối Liên Xô”. Đến năm 1978, Đại
hội lần thức IV của Đảng (tháng 12-1976) đã nêu cao chủ trương với Liên Xô như
là “ hòn đá tảng của chính sách đối ngoại” “ là nguyên tắc, là chiến lược”.
Những quan điểm này được thể hiện rất rõ qua các bài viết xuyên suốt từ
năm 1975 đến 1979 với 29 số báo viết về Liên Xô hoặc có xuất hiện yếu tố Liên
Xô, từ Liên Xô xuất hiện 621 lần. Chúng ta luôn dành cho Liên Xô những lời lẽ hết
sức tốt đẹp, Liên Xô luôn là cái tên được nhắc đến đầu tiên trong danh sách bạn của
Việt Nam thời kì này. Những từ ngữ như “tinh thần hữu nghị anh em thắm thiết của
Liên Xô với Việt Nam”, “ trước sau như một”, “biết ơn sâu sắc” “ cảm ơn” “đối với
Liên Xô”, được xuất hiện liên tục trên các số báo, với những bài xã luận, báo cáo
chính trị, báo cáo, phân tích.
Xã luận Thắng lợi vẻ vang của 30 năm đấu tranh giải phóng (5/1975) viết
“Nhân dân ta coi sự giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ
nghĩa anh em khác, của các phong trào giải phóng dân tộc, hòa bình và dân chủ
trên thê giới là điều không thể thiếu được để giành thắng lợi trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước”.
Báo cáo của Nguyễn Duy Trinh- “ Nhân dân Việt Nam quyết góp phần xứng
đáng hơn nữa vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân thế giới” có viết “Về đối
ngoại, Việt nam ra sức tăng cường đoàn kết và hợp tác anh em với Liên Xô…”
Hơn thế nữa, hình ảnh của Liên Xô luôn là người anh cả, là tấm gương trong
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là chỗ dưa vững chắc
của các dân tộc anh em. Trong bài Nền kinh tế Liên Xô không ngừng phát triển số
tháng 11/1975, có viết “Thắng lợi mà nhân dân Liên Xô đạt được là một bằng
chứng hùng hồn về sức sống mạnh liệt và tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa,
đã làm cho vị trí và uy tín của Nhà nước xô viết trên trường quốc tế ngày càng cao,
góp phần tăng cường lực lượng của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới.
Nhân kỉ niệm 60 cách mạng Tháng mười vĩ đại, loạt bài viết bày tỏ về tình
cảm của nhân dân Việt Nam đối với cách mạng tháng Mười bắt nguồn từ một trong
những quy tắc của dân tộc “ Uống nước nhớ nguồn, Ăn quả nhớ kẻ trồng
cây”.Đồng thời đánh giá cao những kết quả đạt được trong phong trào cách mạng
và công tác xây dựng Đảng, xây dựng đất nước của Việt Nam và Liên Xô.
Đến năm 1978, Đại hội lần thức IV của Đảng (tháng 12-1976) đã nêu cao
chủ trương với Liên Xô như là “ hòn đá tảng của chính sách đối ngoại” “ là nguyên
tắc, là chiến lược”. Nói cách khác chính sách đối ngoại của Việt Nam đang nhất
biên đảo sang Liên Xô. Cũng trong thời kì này, hai nước đã kí kết nhiều hiệp ước
hữu nghị, việc Việt Nam gia nhập SEV và kí Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Việt -
Xô là một bước ngoặt mang ý nghĩa chiến lược trong chính sách đối ngoại Việt
Nam thời kì này. Chính vì những chuyển biến tốt đẹp đó trong quan hệ hai nước,
hình ảnh Liên Xô trở nên tốt đẹp hơn bao giờ hết, các bài viết về Liên Xô liên tục
xuất hiện trên các trang báo từ những năm 1977 đến năm 1979.
Trong bài viết số tháng 4/1977 có ghi“Với những chiến công lừng lẫy có
một không hai trong lịch sử. Với những kì tích vẻ vang trong lao động, nhân dân
Liên Xô thật sự đã có những cống hiến cực kì to lớn cho loài người.”
Trong bài viết tháng 10/1977 tác giả đồng ý với quan điểm trong báo cáo của
Liên Xô “Chưa bao giờ nước ta có một tiềm lực kinh tế và khao học kĩ thuật hùng
mạnh như thế. Chưa bao giờ chúng ta có một đạo quân to lớn gồm những cán bộ có
trình độ cao như thế. Sức mạnh của Liên Xô chứng tỏ chủ nghĩa xã hội hơn hẳn chu
nghĩa tư sản”
2.2. Với Trung Quốc
2.2.1. Định lượng
Số lần
Năm Số bài Tên bài được nhắc
đến
● Công nghiệp nhẹ Trung Quốc trên đà phát triển 1975 10 103
● Đảng Lao động Việt Nam, Người lãnh đạo và
tổ chức thắng lợi của Cách mạng Việt Nam
● Thắng lợi vẻ vang của 30 năm đấu tranh giải
phóng
● Dân tộc ta có đủ tinh thần và nghị lực, sức
mạnh và tài năng, biến nước ta thành một nước
văn mình, giàu mạnh
● Hồ Chủ tích và Cách mạng giải phóng dân tộc
● Phát huy truyền thống Cách mạng tháng Tám,
xây dựng Tổ quốc ta giàu mạnh
● Dưới ngọn cờ Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội,
nhân dân Việt Nam ta hãy vững bước tiến lên
● Nhật lệnh của Đại tướng Võ Nguyên Giáp ngày
2-9-1975
● 30 năm đấu tranh ngoại giao vì độc lập, tự do
của tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội
● Thực hiện thống nhất nước nhà về mặt nhà
nước
● Chính sách đại đoàn kết và thắng lợi của cách 1976 2 13
mạng Việt Nam
● Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IV của Đảng Cộng sản Việt Nam
● Tình hình thế giới sau thắng lợi của Việt - 1977 4 68
Nam và thất bại của Mỹ
● Một tác phẩm quan trọng về tình hình thế giới
và trách nhiệm quốc tế của Đảng ta
● Nhân dân Việt Nam quyết góp phần xứng đáng
hơn nữa vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân
thế giới
● Trung-Quốc tích cực hiện đại hóa công nghiệp
và nông nghiệp
● Cả nước một lòng bảo vệ vững chắc tổ quốc 5 1978 1
Việt Nam xã hội chủ nghĩa
● Nhân dân Việt Nam nhất định thắng lợi, giặc 137 1979 10
Trung Quốc xâm lược nhất định thất bại
● Chiến thắng oanh liệt
● Cả loài người tiến bộ lên án Trung Quốc, ủng
hộ Việt Nam
● Kiên quyết đập tan âm mưu xâm lược của bọn
phản động Trung Quốc (4/1979)
● Nhân dân Lào kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ của mình
● Chính sách bành trướng và bá quyền nước lớn
của Trung Quốc ở Đông Nam Châu Á
Bảng 2.1.1. Số lần xuất hiện của Trung Quốc với vai trò là “bạn” của Việt Nam
trong các số báo giai đoạn 1975-1979
Biểu đồ 2.1.1. Số bài viết nhắc tới Trung Quốc với vai trò là “bạn” của Việt Nam
trong các số báo giai đoạn 1975-1979
2.2.2. Định tính
* Từ năm 1975-1978:
Trung Quốc cũng là người anh hai trong phe xã hội chủ nghĩa sau Liên Xô,
là nước láng giềng cùng chung biên giới đất liền và biển. Nhân dân Việt Nam và
nhân dân Trung Quốc có quan hệ hữu nghị truyền thống lâu đời, đã từng đoàn kết,
hợp tác. Việt Nam luôn ghi nhớ và biết ơn sâu sắc Đảng, Nhà nước và nhân dân
Trung Quốc về sự ủng hộ mạnh mẽ về chính trí to lớn va quan trọng về vật chất và
tinh thần trong hai cuộc kháng chiến cứu nước của dân tộc Việt Nam. Trong thời kì
này, nhiều cuộc gặp mặt cấp cao hai nước đã diễn ra rất tốt đẹp.
Những tinh thần ấy cũng được thể hiện rõ trên các trang báo trong giai đoạn
từ năm 1975 đến đầu 1977, số lượng bài viết về Trung Quốc thời kì này khá lớn (
chỉ sau Liên Xô) với 26 bài viết liên quan đến Trung Quốc, từ Trung Quốc được
nhắc 321 đến lần trong suốt thời kì này. Đặc biệt là trong giai đoạn 1975-1976, khi
Việt Nam vừa giành thắng lợi toàn vẹn, chúng ta cũng đã ưu ái dành nhiều bài viết
có nhắc tới Trung Quốc, để cảm ơn Trung Quốc và các dân tộc anh em đã hết lòng
giúp đỡ Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến.
Số tháng 5/1975 có nhắc đến “Nhân dân Đảng lao động Việt Nam và nhân
dân cả nước tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đối với các nước Liên Xô, Trung Quốc,
các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác”.
Số tháng 6/1976 trong báo cáo về nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IV của Đảng Cộng sản Việt Nam có viết “Đại hội bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc
nhất đối với Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác”.
Đồng thời chúng ta cũng có những bài viết chúc mừng thành tựu đã đạt được
của Trung Quốc như “Công nghiệp nhẹ của Trung Quốc đang trên đà phát triển”
(10/1975), “30 năm đấu tranh ngoại giao vì độc lập, tự do của tổ quốc và xây dựng
chủ nghĩa xã hội” (5/1975), “Trung-Quốc tích cực hiện đại hóa công nghiệp và
nông nghiệp” (5/1977).
Hơn thế nữa Việt Nam cũng ý thức được những mâu thuẫn còn tồn đọng
giữa các nước trong phe xã hội chủ nghĩa, mâu thuẫn Xô - Trung, chính vì vậy
chúng ta đã nhiều lần nhắc nhấn mạnh tình đoàn kết, tình anh em, với từ đoàn kết
xuất hiện hơn 77 lần trong 3 năm 1975-1978, trong đó hơn một nửa có nhắc đến
mối quan hệ giữa Liên Xô, Trung Quốc và các nước trong phe xã hội chủ nghĩa.
Trong bài “30 năm đấu tranh ngoại giao vì độc lập, tự do của tổ quốc và xây
dựng chủ nghĩa xã hội” có viết “Mặc dù tình hình quốc tế và quan hệ giữa các nước
xã hội chủ nghĩa với nhau trong những năm qua có nhưng nét phức tạp, tình đoàn
kết chiến đấu và tình hữu nghị anh em giữa nước ta với Liên Xô, với Trung Quốc và
với các nước xã hội chủ nghĩa khác đã không ngừng được củng cố.và tăng cường”.
* Từ 1978-1979
Đến cuối năm 1977, xuất phát từ tình hình thực tế đó là những bất đồng giữa
hai nước trong quan điểm về vấn đề Cam-pu-chia, từ giữa năm 1978, Đảng đã điều
chỉnh chính sách nhất biên đảo đối với Liên Xô, tháng 8/1979 hai bên đàm phán
không có kết quả về vấn đề người Hoa, đỉnh điểm là tháng 2/1979, 60 mươi vạn
quan Trung Quốc tiến quân sâu vào lãnh thổ Việt Nam quan hệ giữa Việt Nam -
Trung Quốc bước vào giai đoạn căng thẳng. Chính vì lí do này, trong thời gian từ
cuối 1977 đến cuối 1978, từ Trung Quốc không còn xuất hiện trên mặt báo nữa.
Cụm từ “Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa” đã được đổi thành “
Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa”. Đến năm 1979, một loạt các bài “Nhân dân
Việt Nam nhất định thắng lợi, giặc Trung Quốc xâm lược nhất định thất
bại”(3/1979), “Cả loài người tiến bộ lên án Trung Quốc, ủng hộ Việt
Nam”(3/1979), “Kiên quyết đập tan âm mưu xâm lược của bọn phản động Trung
Quốc” (4/1979), “Chính sách bành trướng và bá quyền nước lớn của Trung Quốc ở
Đông Nam Châu Á” (4/1979), cho đến bài “Về vấn đề Cam-pu-chia” ra tháng
12/1979 vấn đề với Trung Quốc vẫn được đưa ra để lên án hành động xâm lược của
Trung Quốc đối với Việt Nam cũng như chính sách bành trướng của Trung Quốc,
kêu gọi sự đồng tình ủng hộ của nhân dân trong cả nước cũng như thế giới. Tuy
nhiên, chúng ta cũng có thái độ rất rạch ròi trong mỗi bài viết, rằng Việt Nam kịch
liệt phản đối bọn “bành trướng Trung Quốc”, “nhà cầm quyền phản động Bắc
Kinh”, “ tập đoàn phản động Trung Quốc”, nhưng chúng ta vẫn tin tưởng vào sự
sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ quốc tế to lớn và có hiệu lực của nhân dân cách
mạng Trung Quốc. Trong các bài viết “Lời kêu gọi” của Ban chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam và “Nhân dân Việt Nam nhất định thắng lợi, giặc
Trung Quốc xâm lược nhất định thất bại” của đại tướng Võ Nguyên Giáp có nêu rất
rõ điều này.
2.3. Với các nước Đông Dương
2.3.1. Lào
2.3.1.1. Định lượng
Số lần xuất Số Năm Tên bài hiện từ bài “Lào”
1975 3 ● 30 năm đấu tranh bất khuất 29
● 30 năm thắng lại vẻ vang
● Điện mừng
● Thắng lợi vĩ đại của cách mạng Lào
1976 5 ● Chính sách đại đoàn kết và thắng lợi của cách 11
mạng Việt Nam
● Ra sức thi đua lao động, sản xuất, cần kiệm xây
dựng chủ nghĩa xã hội, lấy thành tích chào
mừng Quốc hội mới
● Toàn dân đoàn kết xây dựng tổ quốc, Việt Nam
thống nhất xã hội chủ nghĩa
● Chính sách đối ngoại của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam
● Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IV của Đảng Cộng sản Việt Nam
1977 2 ● Tình hình thế giới sau thắng lợi của Việt - Nam 5
và thất bại của Mỹ
● Nhân dân Việt Nam quyết góp phần xứng đáng
hơn nữa vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân
thế giới
1978 4 ● Nước cộng hòa dân chủ nhân dân Lào ngày 16
càng được củng bố vững mạnh
● Khẩu hiệu kỷ niệm lần thứ 33 Cách mạng tháng
Tám và Quốc khánh 2-9
● Cả nước một lòng bảo vệ vững chắc tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa
● Về xu thế độc lập, hòa bình và trung lập ở khu
vực Đông - Nam Á
1979 8 ● Nhân dân Việt Nam nhất định thắng lợi, giặc 18
Trung Quốc xâm lược nhất định thất bại
● Chiến thắng oanh liệt
● Cả loài người tiến bộ lên án Trung Quốc, ủng
hộ Việt Nam
● Kiên quyết đập tan âm mưu xâm lược của bọn
phản động Trung Quốc
● Nhân dân Lào kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ của mình.
● Chuẩn bị tốt việc kỷ niệm ba ngày lễ lớn trong
năm 1980
● Tiếp tục phấn đấu thực hiện di chúc thiêng liêng
của Hồ chủ tịch
Bảng 2.3.1.1. Số bài viết nhắc tới Lào với vai trò là “bạn” của Việt Nam trong các
số báo giai đoạn 1975-1979
Biểu đồ 2.3.1.1. Số bài viết nhắc tới Lào với vai trò là “bạn” của Việt Nam trong
các số báo giai đoạn 1975-1979
2.3.1.2 Định tính
Sau năm 1975, quan hệ Việt Nam và Lào bước sang một trang hoàn toàn
mới: từ liên minh chiến đấu chung một chiến hào sang hợp tác toàn diện giữa hai
quốc gia có độc lập chủ quyền. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và
Đảng Nhân dân cách mạng Lào, nhân dân hai nước càng có điều kiện phát huy
truyền thống tốt đẹp đã từng gắn bó keo sơn trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù xâm
lược, xây dựng và tăng cường quan hệ hợp tác toàn diện về chính trị, quốc phòng an
ninh, kinh tế, văn hoá, giáo dục… Đây chính là đặc điểm quan trọng nhất, dẫn tới
sự thay đổi về chất trong nội dung, phương thức và các nguyên tắc quan hệ giữa hai
quốc gia, nâng quan hệ hữu nghị đặc biệt, hợp tác toàn diện giữa hai nước lên tầm
cao mới.
Sau chiến thắng của nhân dân Việt Nam (tháng 4 năm 1975) giải phóng hoàn
toàn miền Nam, thống nhất đất nước, từ tháng 5 đến tháng 12 năm 1975, nhân dân
Lào dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã nổi dậy khởi nghĩa
giành toàn bộ chính quyền trong cả nước. Ngày 2 tháng 12 năm 1975, nước Cộng
hoà Dân chủ Nhân dân Lào thành lập, cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân
Lào kết thúc thắng lợi. Những số báo tạp chí Cộng sản trong giai đoạn này đã cho
thấy sự ủng hộ rõ rệt của Việt Nam dành cho khởi nghĩa của Lào, mà tiêu biểu là
bài viết “Nhận lệnh của Đại tướng Võ Nguyên Giáp ngày 2-9-1975” in trong số báo
tháng 9/1975: “Chúng ta nhiệt liệt chào mừng thắng lợi vĩ đại của Quân đội giải
phóng nhân dân và nhân dân Lào anh hùng. Chúng ta gửi đến quân đội nhân dân
nước Lào anh em, nước Cam-pu-chia anh em lòng biết ơn vô hạn.” Thắng lợi của
nhân dân Lào liên tục được nhắc tới trong những số báo sau đó với tần suất dày,
xuất hiện trong các bài viết xã luận và trung tâm. Đặc biệt, trong số báo ra mắt
tháng 11/1975, 10 trang đã được dành riêng cho bài viết “30 năm đấu tranh bất
khuất, 30 năm thắng lợi vẻ vang” được viết bởi tác giả người Lào Kay-son Phôm-
vihan theo lời mời riêng của Ban Biên tập. Bài viết tường thuật lại quá trình và diễn
biến đấu tranh của nhân Lào chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Xuyên suốt bài
viết ta đã thấy được mối quan hệ khăng khít giữa hai dân tộc anh em khi “nhân dân
hai nước luôn phối hợp tiến công”. Đây là sự tái khẳng định mối quan hệ gắn bó
keo sơn giữa Việt Nam và Lào, cho thấy Việt Nam nhìn nhận đây là một mối quan
hệ có truyền thống dài lâu và đặt niềm tin vào sự chân thành của Lào trong mối
quan hệ với Việt Nam. Số báo tháng 12/1975 được dành để chúc mừng và ca ngợi
nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào mới thành lập, cuộc kháng chiến chống Mỹ
của nhân dân Lào kết thúc thắng lợi. Bài “Điện mừng” viết: “Nhân dân Việt Nam
và nhân dân Lào, Đảng lao động với nhau trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lê-nin trong
sáng, suốt mấy chục năm qua đã từng giúp đỡ lẫn nhau, cùng chiến đấu và cùng
giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thì nhất định sẽ ngày càng
gắn bó, giúp đỡ lẫn nhau để bảo vệ thành quả cách mạng của mỗi nước, xây dựng
đất nước phồn vinh phù hợp với điều kiện riêng của mỗi nước.”
Ngày 30 tháng 4 năm 1976, Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam ra Nghị
quyết Về tăng cường giúp đỡ và hợp tác với cách mạng Lào trong giai đoạn mới,
xác định: việc tăng cường đoàn kết, giúp đỡ, hợp tác đối với Lào là một trong
những nhiệm vụ quốc tế hàng đầu của Đảng và nhân dân Việt Nam, cũng là vì lợi
ích thiết thân của cách mạng Việt Nam. Trong những số báo giai đoạn này, các bài
viết liên tục nhắc tới và nhấn mạnh mối quan hệ đoàn kết và hữu nghị trong khối
Đông Dương, mà cụ thể là Lào; Liệt kê mối quan hệ này là một trong những điểm
chính yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam. Trong bài “Chính sách đối
ngoại của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, tác giả Hướng Nam khẳng
định Việt Nam “làm hết sức mình để bảo vệ và phát triển mối quan hệ đoàn kết và
hữu nghị anh em giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân Lào và nhân dân Cam-pu-
chia.” Mối quan hệ giữa Việt Nam và Lào không những về thực chất là mối quan
hệ giữa hai nước xã hội chủ nghĩa với nhau, mà còn là “quan hệ anh em láng giềng
thân thiết”.
Đặc biệt, từ ngày 15 đến ngày 18 tháng 7 năm 1977, Đoàn đại biểu cao cấp
Đảng và Chính phủ Việt Nam do Tổng Bí thư Lê Duẩn và Thủ tướng Phạm Văn
Đồng dẫn đầu sang thăm hữu nghị chính thức Lào. Trong chuyến thăm này, hai
nước chính thức ký kết các Hiệp ước: Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào; Hiệp ước hoạch
định biên giới quốc gia giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào; và ra Tuyên bố chung tăng cường sự tin cậy và
hợp tác lâu dài giữa hai nước. Bài viết “Nhân dân Việt Nam quyết góp phần xứng
đáng hơn nữa vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân thế giới”, khẳng định hiệp
ước có ý nghĩa quốc tế quan trọng và đánh dấu bước ngoặt mới trong quan hệ giữa
hai nước, đồng thời nêu cao tầm quan trọng của việc “bảo vệ và phát triền mối
quan hệ anh em thân thiết với hai nước láng giềng Lào và Cam-pu-chia.”
Tình hữu nghị đặc biệt giữa hai dân tộc Việt - Lào tiếp tục là nhân tố xuyên
suốt những số báo năm 1978. Trong giai đoạn này, những Tạp chí Cộng sản đặc biệt
dành lời ngợi cả cho Đảng Cách mạng Lào cũng như chính quyền nước Cộng hòa
dân chủ nhân dân Lào, được thể hiện qua những bài viết “Về xu thế độc lập, hòa
bình và trung lập ở khu vực Đông – Nam Á” tháng 7/1978 và “Nước Cộng hòa dân
chủ nhân dân Lào ngày càng được củng bố vững mạnh” tháng 11/1978.
Trong những số báo trên Tạp chí Cộng sản năm 1979, mối quan hệ khăng
khít giữa Việt Nam và Lào được tái khẳng định trong tương quan với mối quan hệ
khối đoàn kết Đông Dương Việt Nam – Lào – Cam-pu-chia, nhất là khi đứng trước
mối hiểm họa lớn là Trung Quốc. Bài viết “Nhân dân Lào kiên quyết bảo vệ độc
lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của mình” của tác giả Thanh Sơn trong số báo
tháng 4/1979 nêu rõ: “Nếu bọn phản động Bắc kinh liều lĩnh xâm phạm lãnh thổ
Lào thì chúng sẽ vấp phải sức mạnh chiến đấu của quân đội và nhân dân Việt Nam
và Cam-pu-chia, nhân dân Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác […] Nhưng
thủ đoạn đó của chúng quyết không lừa gạt được dư luận thế giới, và không hề đe
dọa nổi nhân dân Lào anh hùng, không thể chia rẽ được tình đoàn kết giữa Lào với
Việt Nam.”
2.3.2. Cam-pu-chia
2.3.2.1. Định lượng
Số lần xuất hiện Năm Số bài Tên bài từ Cam-pu-chia
1975 1 ● Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu 14
nước của nhân dân Cam-pu-chia đã
giành được thắng lợi hoàn toàn
1976 5 ● Chính sách đại đoàn kết và thắng lợi 11
của cách mạng Việt Nam
● Ra sức thi đua lao động, sản xuất, cần
kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội, lấy
thành tích chào mừng Quốc hội mới
● Toàn dân đoàn kết xây dựng tổ quốc,
Việt Nam thống nhất xã hội chủ nghĩa
● Chính sách đối ngoại của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
● Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IV của Đảng Cộng sản Việt
Nam
1977 2 ● Tình hình thế giới sau thắng lợi của 5
Việt - Nam và thất bại của Mỹ
● Nhân dân Việt Nam quyết góp phần
xứng đáng hơn nữa vào sự nghiệp
cách mạng của nhân dân thế giới
1978 2 ● Không thế lực phản động nào phá hoại 17
được tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân
dân hai nước Việt Nam và Cam-pu-
chia
● Về xu thế độc lập, hòa bình và trung
lập ở khu vực Đông - Nam
1979 10 ● Nhân dân Việt Nam nhất định thắng 28
lợi, giặc Trung Quốc xâm lược nhất
định thất bại
● Chiến thắng oanh liệt
● Thắng lợi mới của tình đoàn kết chiến
đấu Việt-nam - Cam-pu-chia
● Kiên quyết đập tan âm mưu xâm lược
của bọn phản động Trung Quốc
● Chuẩn bị tốt việc kỷ niệm ba ngày lễ
lớn trong năm 1980
● Bài phát biểu của đồng chí Tố Hữu -
Trưởng đoàn Việt Nam ở Hội nghị các
bí thư Trung ương Đảng họp tại Béc-
lin từ ngày 3 đến 5/7/1979
● Tiếp tục phấn đấu thực hiện di chúc
thiêng liêng của Hồ chủ tịch
● Về vấn đề Cam-pu-chia
Bảng 2.3.2.1. Số bài viết nhắc tới Cam-pu-chia với vai trò là “bạn” của Việt Nam
trong các số báo giai đoạn 1975-1979
Biểu đồ 2.3.2.1. Số bài viết nhắc tới Cam-pu-chia với vai trò là “bạn” của Việt
Nam trong các số báo giai đoạn 1975-1979
2.3.2.2. Định tính
Tình đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau giữa Cam-pu-chia và Việt Nam giai đoạn
1975 đã tạo điều kiện cần thiết cho hai nước thoát khỏi những âm mưa chia cắt và ý
định chiếm đóng lâu dài của thực dân và đế quốc. Mùa xuân 1975, miền Nam Việt
Nam hoàn toàn giải phóng, từ thời điểm này trở đi, nhân dân Việt Nam được hưởng
hòa bình, độc lập, tự do và thống nhất đi lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Riêng
Cam-pu-chia, con đường hòa bình và tự do còn gặp nhiều chông gai trắc trở do sự
phản bội lại dân tộc, nhân dân của tập đoàn phản động Polpot - Ieng Sary (Khmer
Đỏ). Mặc dù vẫn còn những trở ngại xuất phát từ điều kiện chủ quan và khách quan,
nhưng quan hệ Cam-pu-chia và Việt Nam ở thời kỳ này nhìn chung tốt đẹp. Đây
chính là nền tảng quan trọng góp phần làm nên thắng lợi đối với sự nghiệp cách
mạng mỗi nước cũng như của nhân dân trên toàn bán đảo Đông Dương. Hơn nữa,
sự gắn bó tích cực về mặt lịch sử giữa hai nước cũng được xem như là một tiền đề
không thể thiếu để Cam-pu-chia và Việt Nam tiếp tục tăng cường hơn nữa mối quan
hệ trong giai đoạn tiếp theo.
Trong những số báo trên tạp chí Cộng sản năm 1975, mối quan hệ khăng khít
giữa Việt Nam và Cam-pu-chia liên tục suốt hiện hàng tháng, đặc biệt được đặt
trong khối đoàn kết giữa ba nước Đông Dương Việt Nam – Lào – Cam-pu-chia.
Những bài báo có nhắc tới mối quan hệ này chủ yếu ca ngợi thắng lợi của những
cuộc cách mạng ở Đông Dương, tiêu biểu như bài “Dân tộc ta có đủ tinh thần và
nghị lực, sức mạnh và tài năng, biến nước ta thành một nước văn mình, giàu mạnh”
in tháng 5/1975: Trong ngày vui lớn này, chúng ta chào mừng thắng lợi vĩ đại của
nhân dân Lào và nhân dân Cam-pu-chia anh em, gửi đến các bạn chiến đấu cùng
chiến hào lòng biết ơn vô hạn và tinh thần đoàn kết sắt son của chúng ta… Đặc
biệt, cũng trong số này, Tạp chí Cộng sản đã dành riêng bài viết “Cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Cam-pu-chia đã giành được thắng lợi hoàn toàn”
để tôn vinh nhân dân cách mạng Cam-pu-chia. Bài viết đã mô tả ngắn gọn nhưng
đầy chi tiết cuộc đấu tranh chống sự can thiệp và chống phá chính quyền của Đế
quốc Mỹ vào nội bộ Cam-pu-chia. Trái lại với những ngôn từ mạnh, mang tính đả
kích quân đội Mĩ như “thâm độc”, “tàn bạo”, “can thiệp và tiếp tay”, là những từ
ngữ mang tính ca ngợi, tôn vinh người “anh em” Cam-pu-chia như “huy hoàng”,
“vẻ vang”, “kiên cường”. Tác giả đã gọi lực lượng quân đội ngụy quân, ngụy quyền
dưới sự chỉ đạo của đê quốc Mỹ là “bọn”, “quân Mỹ, ngụy quân Cam-pu-chia” đã
thể hiện sự đê hèn, phi nghĩa của kẻ thù; trái lại, với Cam-pu-chia, tác giả sử dụng
những từ ngữ thân mật, trìu mến, đề cao cuộc kháng chiến cứu quốc là cuộc chiến
chính nghĩa, là “thắng lợi vẻ vang”, rằng “nhân dân Cam-pu-chia chiến đấu kiên
cường bất khuất”. Trong bài Nhận lệnh của Đại tướng Võ Nguyên Giáp ngày 2-9-
1975” được in trong số tháng 9/1975, tình đoàn kết giữa Việt Nam – Cam-pu-chia
cũng như niềm tin của Việt Nam vào công cuộc kháng chiến chống Mỹ ở Cam-pu-
chia được khẳng định ngày càng mãnh liệt: “Chúng ta nhiệt liệt chào mừng thắng
lợi vĩ đại của Quân đội giải phóng dân tộc và nhân dân Cam-pu-chia anh hùng.
Chúng ta gửi đến quân đội nhân dân nước Lào anh em, nước Cam-pu-chia anh em
lòng biết ơn vô hạn. Chúc tinh thần đoàn kết chiến đấu thắm thiết giữa quân đội và
nhân dân ba nước Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia đời đời bền vững.”. Đây là một mối
quan hệ có truyền thống lâu đời, được thắt chặt và khẳng định qua “một giai đoạn
lịch sử lâu dài, ba nước Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia cùng chịu cảnh ngộ nô lệ dưới
ách thực dân, cùng đấu tranh cho độc lập tự do của đất nước, xây đắp nên những
mối quan hệ đồng minh khăng khít.”
Trong hai năm tiếp theo (1976-1977), Tạp chí Cộng sản tiếp tục nhấn mạnh
tầm quan trọng trong mối quan hệ Việt Nam – Cam-pu-chia cũng như trong khối
đoàn kết Đông Dương. Bên cạnh đó, các bài báo trong giai đoạn này cũng dành
nhiều lời ngợi ca cho những thắng lợi cách mạng của nhân dân Cam-pu-chia. Bài
“Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng Cộng sản Việt Nam”
khẳng định: “Thắng lợi của chúng ta là thắng lợi của tình đoàn kết chiến đấu không
gì lay chuyển nổi của nhân dân ba nước Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia. Đại hội
nhiệt liệt chào mừng thắng lợi lịch sử vĩ đại của nhân dân Cam-pu-chia, coi đó như
thắng lợi của chính mình và xin gửi các bạn chiến đấu cùng chiến hào lòng biết ơn
vô hạn và tình đoàn kết trước sau như một của nhân dân Việt Nam ta.”
Với tình hình Cam-pu-chia gặp nhiều chông gai trắc trở trong việc ổn định
hòa bình, số báo đầu năm 1/1978 đã dành bài viết “Không thế lực phản động nào
phá hoại được tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân hai nước Việt Nam và Cam-pu-
chia” để nêu rõ quan điểm của Việt Nam trong việc củng cố mối quan hệ giữa hai
dân tộc: “Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đề nghị hai bên gặp
nhau càng sớm càng tốt, ở bất cứ cấp nào để cùng nhau trên tinh thần hữu nghị anh
em giải quyết vấn đề biên giới giữa hai nước.”
Hiệp ước Hòa bình, hữu nghị và hợp tác Cam-pu-chia - Việt Nam được ký
ngày 8/2/1979 ngay sau khi Cam-pu-chia thoát khỏi họa diệt chủng đã mở ra một
thời kỳ mới, thời kỳ phát triển toàn diện mối quan hệ đoàn kết chiến đấu và hợp tác
hữu nghị đặc biệt Cam-pu-chia - Việt Nam. Sự kiện này đã được lãnh đạo cả hai
nước Việt Nam và Cam-pu-chia đánh giá rất cao. Trong thời gian này, các bài viết
trên Tạp chí Cộng sản đã thể hiện rõ nét tình cảm đồng chí, anh em nồng ấm trong
quan hệ Cam-pu-chia - Việt Nam. Bên cạnh đó, các bài viết cũng nhìn nhận chiến
thắng của nhân dân Cam-pu-chia trước “chế độ tàn bạo Pôn Pốt-leeng Xa-ry, tay sai
của tập đoàn phản động Trung Quốc” là “một nguồn cổ vũ to lớn với nhân dân Việt
Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.” Bài “Thắng lợi mới của tình
đoàn kết chiến đấu Việt-nam - Cam-pu-chia” trong số ra tháng 3/1979 đã viết:
“Không một sức mạnh tàn bạo nào, không một âm mưu nham hiểm nào và thủ đoạn
thâm độc nào lay chuyển nổi tình đoàn kêt chiến đấu và tình hữu nghị anh em giữa
Việt Nam và Cam-pu-chia”. Trong bài “Về vấn đề Cam-pu-chia” in trong số báo
tháng 9/1979, Trường Chinh đã tái khẳng định việc Việt Nam và Cam-pu-chia có
chung kẻ thù là “bọn bành trướng và bá quyền Bắc kinh cùng bè lũ Pôn Pốt-Ieeng
Xa-ry”. Tình hữu nghị anh em lâu đời giữa hai dân tộc đã được khôi phục với sự ra
đời của nước Cộng hòa nhân dân Cam-pu-chia.
2.4. Với các nước khác
2.4.1. Các nước XHCN khác
2.4.1.1. Định lượng
Năm Số bài Tên bài
1975 4 ● Chăn nuôi theo phương pháp công nghiệp ở Cu-ba
● Liên doanh, hình thức tổ chức sản xuất mới trong
nông nghiệp Cộng hòa dân chủ Đức
● Hung-ga-ri phát triển chăn nuôi
● Sự nghiệp cách mạng của nhân dân Tiệp-Khắc
không ngừng tiến triển
1976 2 ● Đảng cộng sản Cu-ba, đội tiền phong anh hùng của
giai cấp công nhân Cu-ba
● Chính sách đối ngoại của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam
1977 4 ● Thành tựu xuất sắc của Cộng hòa Dân chủ Đức
trong giai đoạn đầu xây dựng xã hội xã hội chủ
nghĩa phát triển
● Tình đoàn kết trong sáng Cu- ba- Việt - Nam
● Hung-ga- ri xây dựng chủ nghĩa xã hội phát triển
● Bước nhảy vọt lịch sử của nhân dân Mông Cổ
1978 6 ● Ba Lan chú trọng phát triển ngành công nghiệp mũi
nhọn
● Cuba vững bước trên con đường xây dựng xã hội
chủ nghĩa
● Liên hợp công- nông nghiệp ở Bun-ga-ri
● Cả nước một lòng bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa
● Tất cả vì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa
● Khẩu hiệu kỷ niệm lần thứ 33 Cách mạng tháng
Tám và Quốc khánh 2-9
1979 7 ● Cu ba, một tấm gương sinh động về chủ nghĩa quốc
tế vô sản
● Nhân dân Việt Nam nhất định thắng lợi, giặc Trung
Quốc xâm lược nhất định thất bại
● Chiến thắng oanh liệt
● Chuẩn bị tốt việc kỷ niệm ba ngày lễ lớn trong năm
1980
● Ba mươi năm hoạt động của Hội đồng tương trợ
kinh tế
● Tiếp tục phấn đấu thực hiện di chúc thiêng liêng
của Hồ chủ tịch
Bảng 2.4.1.1. Số bài viết nhắc tới các nước XHCN với vai trò là “bạn” của Việt
Nam trong các số báo giai đoạn 1975-1979
Biểu đồ 2.4.1.1. Số bài viết nhắc tới các nước XHCN với vai trò là “bạn” của Việt
Nam trong các số báo giai đoạn 1975-1979
2.4.1.2. Định tính
Như chúng ta đã biết, trong giai đoạn 1950 - 1953, Việt Nam, từ một quốc
gia trung lập, đã thiết lập quan hệ Ngoại giao với Liên Xô, Trung Quốc và một loạt
các quốc gia xã hội chủ nghĩa khác. Điều này đã đánh dấu bước chuyển biến quan
trọng trong quan hệ ngoại giao của Việt Nam và đồng nghĩa với việc nhân dân Việt
Nam coi các quốc gia xã hội chủ là “bạn bè”. Tinh thần đó đã được thể hiện qua Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV (12/1976), trong đó nêu bật khẩu hiệu :“Trong quá
trình làm việc, Đại hội đã tập trung phân tích đánh giá tình hình thế giới và khẳng
định mạnh mẽ chính sách đối ngoại nhất quán của Đảng và Nhà nước trong giai
đoạn mới là tăng cường tình đoàn kết chiến đấu và quan hệ hợp tác với tất cả các
nước xã hội chủ nghĩa, làm hết sức mình để góp phần làm cho lý tưởng cao đẹp của
chủ nghĩa Mác-Lênin ngày càng thắng lợi rực rỡ.”
Xuyên suốt các số của Tạp chí Cộng sản, đã có tổng cộng 20 bài viết về các
quốc gia xã hội chủ nghĩa trong đó “các quốc gia xã hội chủ nghĩa” được nhắc đến
31 lần. Trong tất cả các số của Tạp chí, chúng ta có thể thấy rằng luôn có ít nhất 1
bài viết về thành tựu của các quốc gia xã hội chủ nghĩa.
Trong suốt những năm tháng kháng chiến, các nước xã hội chủ nghĩa anh em
luôn giúp đỡ và chi viện cho chúng ta. Chính vì vậy, chúng ta luôn sử dụng những
từ ngữ tốt đẹp để nói về các quốc xã hội chủ nghĩa, ta luôn gọi và coi họ là “anh
em”, “đồng chí”, nhân dân Việt Nam luôn “bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc” đối với các
quốc gia này. Hơn thế nữa, trong các chủ trương, đường lối của Đảng, “các quốc gia
xã hội chủ nghĩa” là một bộ phận không thể tách rời, luôn giữ một vị trí “quan
trọng” trong sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam. Đây là tinh thần xuyên
suốt, hiện hữu trong các số báo từ 1975 đến 1979.
Bài xã luận“Đảng Lao động Việt Nam, Người lãnh đạo và tổ chức thắng lợi
của Cách mạng Việt Nam” (số tháng 2/1975) của Tổng Bí Thư Lê Duẩn, trong đó,
ông thể hiện :“Chúng ta bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với Liên-xô, Trung Quốc và
các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác...”, “Đảng ta luôn luôn coi việc đoàn kết
với các lực lượng cách mạng trên thế giới, trước hết là các nước xã hội chủ nghĩa
anh em và phong trào cộng sản quốc tế, là nội dung cơ bản trong đường lối quốc tế
của Đảng và Nhà nước ta.”
Bài “Chính sách đối ngoại của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”
(số tháng 9/1976), đường lối và chủ trương của Đảng đã được thể hiện rõ :“Chủ
trương nhất quán của ta là bảo vệ và tăng cường mối quan hệ anh em với tất cả các
nước xã hội chủ nghĩa...”, “tiếp tục kề vai sát cánh với các nước xã hội chủ nghĩa
...”.
Có thể thấy, trong các số của Tạp chí Cộng sản từ 1975 đến 1979 đều có
những bài viết ca ngợi những thành tựu vĩ đại của các nước xã hội chủ nghĩa anh
em. Trong những bài viết này, chúng ta dùng những từ ngữ hết sức tốt đẹp, với một
thái độ ngưỡng mộ và tin tưởng. Tác giả đã coi những mục tiêu đạt được là những
“bước tiến vượt bậc”, những “thành tựu vĩ đại”. Mặc dù số bài viết trực tiếp nói đến
các quốc gia xã hội chủ nghĩa là không nhiều, nhưng trong mỗi bài viết ấy, chúng ta
có thể dễ dàng nhận thấy sự kính mến, tôn trọng và tin tưởng tuyệt đối của “nhân
dân Việt Nam”, “của Đảng ta” vào sự nghiệp cách mạng của mỗi quốc gia. Điều đó
đã thể hiện tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái giữa Việt Nam và các nước Xã
hội Chủ nghĩa, khẳng định sự gắn bó bền chặt giữa dân tộc Việt Nam với khối Xã
hội chủ nghĩa.
Bài viết “Hung-ga-ri phát triển chăn nuôi” (số tháng 4/1975), trong đó tác
giả Hằng Anh đã ca ngợi :“Những thành tựu mà nhân dân Hung-ga-ri thu được
trong sự nghiệp xây dựng và phát triển nền kinh tế xã hội chủ nghĩa là toàn diện và
rất đáng phấn khởi.”
Trong bài “Đảng cộng sản Cu-ba, đội tiền phong anh hùng của giai cấp
công nhân Cu-ba” (số tháng 4/1976), Tổng Bí Thư Trường Chinh đã viết :“Đảng
lao động Việt Nam và giai cấp công nhân Việt Nam tin rằng Đảng Cộng Sản Cuba
gai cấp công nhân Cuba chắc chắn sẽ thực hiện được cương lĩnh chính trị mới đưa
Cuba vững bước tiến lên những đỉnh cao mới của chủ nghĩa xã hội.”
2.4.2. Các nước Đông Nam Á khác
2.4.2.1. Định lượng
Năm Số bài Tên bài
● Dân tộc ta có đủ tinh thần và nghị
lực, sức mạnh và tài năng, biến nước
ta thành một nước văn mình, giàu
1975 2 mạnh
● Phát huy truyền thống Cách mạng
tháng Tám, xây dựng Tổ quốc ta giàu
mạnh
● Quyền tự quyết của nhân dân Đông 1976 1 Ti-mô phải được tôn trọng
● Nhân dân Việt Nam quyết góp phần
1977 1 xứng đáng hơn nữa vào sự nghiệp
cách mạng của nhân dân thế giới
● Hãy làm tốt những nhiệm vụ cách 1979 1 mạng của năm 1979
Bảng 2.4.2.1. Số bài viết nhắc tới các nước Đông Nam Á với vai trò là “bạn” của
Việt Nam trong các số báo giai đoạn 1975-1979
2.4.2.2. Định tính
Khi bước vào thời kỳ đất nước đi vào hòa bình, Việt Nam đã bắt đầu thiết lập
quan hệ ngoại giao với các nước của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, đến năm
1976 thì Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với tất cả các nước thành viên. Bên
cạnh các nước Đông Dương, Việt Nam luôn muốn duy trì mối quan hệ với các nước
Đông Nam Á, cố gắng biến nước ta thành một thành trì để bảo vệ Đông Dương, bảo
vệ Đông Nam Á.
Trong bài: “Dân tộc ta có đủ tinh thàn và nghị lực, sức mạnh và tài năng,
biến nước ta thành một nước văn mình, giàu mạnh” của Lê Duẩn đăng tháng 4 năm
1975, ông đã viết : “Cùng với thắng lợi của nhân dân Cam-pu-chia và nhân dân
Lào, thắng lợi của chúng ta đã góp phần tích cực tăng cường lực lượng xã hội chủ
nghĩa thế giới, tạo điều kiện thuận lợi mới để bảo về hòa bình, bảo vệ độc lập dân
tộc ở Đông Dương và Đông Nam Á”. Hay đến tháng 8/1975, trog bài xã luận được
đăng trang nhất đã khẳng định: “Mục tiêu mà nhân dân ta cần đạt được là xây dựng
một nước Việt Nam hiện đại, văn hóa hóa và khoa học tiên tiến, và một nền quốc
phòng toàn dân hùng mạng, bảo đảm cho nước ta thành một thành trì bất khả xâm
phạm của độc lập, dân chủ, của chủ nghĩa xã hội ở Đông Dương và Đông Nam Á”.
Đến ngày 5 tháng 7 năm 1976, Chính phủ Cộng hội Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam công bố chính thức bốn điểm đối với các nước Đông Nam Á. Chính sách này
được đưa ra bốn tháng sau cuộc đi thăm đầu tiên của Thứ trưởng ngoại giao Việt
Nam sang các nước thành viên ASEAN. Nhưng từ năm 1978, ở Đông Nam Á xuât
hiện những luồng trái chiều khi cuộc xung đột biên giới Việt Nam - Cam-pu-chia
bộc lộ công khai gây nên căng thẳng kéo dài. Tuy nhiên, vẫn có những nước như
Indonesia, Malaysia còn duy trì đối thoại với Việt Nam trong giai đoạn này.
Để thúc đẩy quan hệ giữa Việt Nam với các nước, tháng 9 năm 1978 thủ
tướng Phạm Văn Đồng đã đi thăm chính thức các nước trong khu vực ASEAN.
Trong bài xã luận : “Hãy làm tốt những nhiệm vụ cách mạng của năm 1979” đăng
số 1 năm 1979 có viết: “Trên mặt trận ngoại giao, chúng ta đã tranh thủ được sự
đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, của
nhiều nước khác và của nhân dân tiến bộ trên thế giới. Cuộc đi thăm 5 nước Đông
Nam Á của Thủ tướng Phạm Văn Đồng và cuộc đi thăm 14 nước Châu Phi của Phó
chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ đã đạt được kết quả tốt đẹp.”
Nói tóm lại, quan hệ Việt Nam với các nước Đông Nam Á khác trong giai
đoạn này có nhiều thăng trầm do những vấn đề không đáng có xảy ra. Việt Nam
luôn sát cánh cùng các quốc gia Đông Nam Á, hợp tác bình đẳng trên cơ sở cùng có
lợi để bảo vệ bảo vệ lập ở khu vực Đông Dương nói riêng và Đông Nam Á nói
chung.
2.4.3. Các nước đang đấu tranh giải phóng dân tộc
2.4.3.1. Định lượng
Năm Số Tên bài
bài
1975 1 ● Bước phát triển mới của phong trào các nước không
liên kết
1976 3 ● Quyền tự quyết của nhân dân Đông Ti-mô phải được
tôn trọng
● Nhân dân Ăng-gô-la anh dũng đấu tranh cho độc lập
và thống nhất
Phong trào giải phóng dân tộc và sự thất bại của chủ
nghĩa thực dân cũ và mới
1977 3 ● Cách mạng Mô - dăm - bích đang vững bước tiến lên
● Cộng hòa dân chủ nhân dân Y-ê-men trên con đường
tiến bộ xã hội
● Nhân dân Việt Nam quyết góp phần xứng đáng hơn
nữa vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân thế giới
1978 4 ● Cuộc đấu tranh chống chế độ phân biệt chủng tộc ở
Cộng hòa Nam Phi
● Sự nghiệp chính nghĩa cua nhân dân Pa-le-xtin nhất
định thắng lợi
● Thắng lợi to lớn của cách mạng Áp-ga-ni-xtan
● Thắng lợi mới của phong trào không liên kết
1979 5 ● Hãy làm tốt những nhiệm vụ cách mạng của năm
1979
● Chiến thắng oanh liệt
● Cả loài người tiến bộ lên án Trung Quốc, ủng hộ Việt
Nam
● Bài phát biểu của đồng chí Tố Hữu - Trưởng đoàn
Việt Nam ở Hội nghị các bí thư Trung ương Đảng họp
tại Béc-lin từ ngày 3 đến 5/7/1979
● Y-ê-men trên con đường phát triển cách mạng
Bảng 2.4.3.1. Số bài viết nhắc tới các nước đấu tranh giải phóng dân tộc với vai trò
là “bạn” của Việt Nam trong các số báo giai đoạn 1975-1979
Biểu đồ 2.4.3.1. Số bài viết nhắc tới các nước đấu tranh giải phóng dân tộc với vai
trò là “bạn” của Việt Nam trong các số báo giai đoạn 1975-1979
2.4.3.2. Định tính
Với lịch sử chiến đấu hào hùng chống lại các cuộc xâm lăng của các thế lực
bên ngoài, nhất là khi chúng ta vừa trải qua hai cuộc trường kì kháng chiến chống
thực dân Pháp và đế quốc Mĩ, nhân dân Việt Nam có lẽ là người hiểu hơn ai hết
những khó khăn, những mất mát, những đau thương mà nhân dân các nước đang
thực hiện đấu tranh giải phóng dân tộc phải gánh chịu. Việt Nam luôn nhận biết và
thấu hiểu những điều đó, và chúng ta luôn dành cho những dân tộc, quốc gia này
những lời lẽ hết sức động viên, ủng hộ.
Trong Tạp chí Cộng sản, có tổng cộng 12 bài có đề cập đến sự nghiệp đấu
tranh của nhân dân các nước châu Á, châu Phi và châu Mĩ La-tinh, nêu bật sự đấu
tranh chống sự bành trướng của chủ nghĩa Đế quốc. Ngoài ra, mặc dù không trực
tiếp nói đến các quốc gia đang trong quá trình giải phóng dân tộc, chúng ta, Tạp chí
Cộng sản cũng có những bài viết đề cập đến yếu tố này.
Đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân thế giới, chúng ta luôn tỏ thái độ
thiện chí, nêu cao tinh thần “chính nghĩa” và ủng hộ trong công cuộc đấu tranh
giành độc lập của các nước chịu sự áp bức bóc lột. Mối quan hệ giữa nhân dân Việt
Nam và nhân dân các nước luôn là “tình hữu nghị”, “tình đoàn kết”, là “anh em”.
Đặc biệt, những trạng từ mạnh cũng được các tác giả sử dụng, cũng như những
động từ mạnh như “một lần nữa”, “hoàn toàn”, “kiên quyết”. Có thể thấy, chúng ta
luôn giành cho các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc một tình cảm đặc biệt, thậm
chí nhân dân Việt Nam luôn coi bản thân là “một phần của các dòng thác cách mạng
trên thế giới”. Điều này đã chỉ ra một thực tế rằng Việt Nam luôn coi nhân dân các
quốc gia đấu tranh cho lẽ phải là bạn bè, anh em của mình.
Bài xã luận “Toàn dân đoàn kết xây dựng tổ quốc, Việt Nam thống nhất xã
hội chủ nghĩa” của nguyên Tổng Bí Thư Lê Duẩn đã nêu cao tinh thần :“Ủng hộ
cuộc đấu tranh của nhân dân các nước châu Á, châu Phi, châu Mĩ La-tinh chống chủ
nghĩa đế quốc”, “chĩa mũi nhọn đấu tranh vào chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là đế
quốc Mỹ”.
Cụ thể hơn, bài báo cáo “Nhân dân Việt Nam quyết góp phần xứng đáng hơn
nữa vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân thế giới” (số tháng 10/1977) của tác
giả Nguyễn Duy Trinh, đã nêu bật tinh thần chung của nhân dân Việt Nam đối với
các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc :“Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt-nam
một lần nữa khẳng định sự ửng hộ kiến quyết của mình đối với cuộc đấu tranh của
nhân dân Ả Rập bị chiếm đóng, giành các của nhân dân Pa-le-stin”, “Chúng tôi
kiên quyết ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Dim-ba-bu-ê, Na-mi-bi-a, Nam
Phi” “Chúng tôi kiến quyết ủng hộ cuộc đấu tranh giành độc lập và chủ quyền của
nhân dân Síp, nhân dân Pu-éc-tô Ri-cô các đảo bị ủy trị,... Chúng tôi kiên quyết ủng
hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Triều Tiên”, “Chúng tôi hoàn toàn ủng hộ nước
Cộng hòa nhân dân Trung hoa giải phóng Đài Loan”
Khi các cuộc đấu tranh diễn ra thắng lợi, thành công, các bài báo luôn sử
dụng những từ ngữ đẹp đẽ nhất, thể hiện sự thiện chí và gần gũi giữa Việt Nam và
các quốc gia đó, điển hình là những từ “nồng nhiệt”, “nhiệt liệt chào mừng”, chúng
ta luôn coi những thắng lợi của nhân dân các nước là “thắng lợi vẻ vang”. Việc tung
hộ sự chiến thắng của sự nghiệp cách mạng nhân dân thế giới đã nhấn mạnh vào sự
gắn bó khăng khít, vào “tình bạn thiên liêng” giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân
các “nước xã hội chủ nghĩa anh em”, qua đó khẳng định Việt Nam coi các quốc gia
này là bạn.
Bài viết “Thắng lợi to lớn của cách mạng Áp-ga-ni-xtan” của tác giả
Nguyễn Nam đã thể hiện rất rõ điều đó :“Nhân dân Việt Nam nhiệt liệt chào mừng
thắng lợi vẻ vang và những thành tích to lớn của nhân dân Áp-ga-ni-xtan anh em.”
2.4.4. Các dân tộc tiến bộ
2.4.4.1. Định lượng
Năm Số bài Tên bài
1975 3 ● Đảng Lao động Việt Nam, Người lãnh đạo và tổ chức
thắng lợi của Cách mạng Việt Nam
● Dân tộc ta có đủ tinh thàn và nghị lực, sức mạnh và tài
năng, biến nước ta thành một nước văn mình, giàu mạnh
● Bước phát triển mới của phong trào các nước không liên
kết
1976 1 ● Phong trào giải phóng dân tộc và sự thất bại của chủ
nghĩa thực dân cũ và mới
1977 2 ● Hoàn thành thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến
nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội
● Phong trào công nhân ở các nước tư bản chủ nghĩa phát
triển
1978 1 ● Cả nước một lòng bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa
1979 5 ● Thực chất vấn đề quyền con người
● Nhân dân Việt Nam nhất định thắng lợi, giặc Trung
Quốc xâm lược nhất định thất bại
● Kiên quyết đập tan âm mưu xâm lược của bọn phản
động Trung Quốc
● Cả loài người tiến bộ lên án Trung Quốc, ủng hộ Việt
Nam
● Chính sách bành trướng và bá quyền nước lớn của
Trung Quốc ở Đông Nam Châu Á
● Về vấn đề Cam-pu-chia
Bảng 2.4.4.1. Số bài viết nhắc tới các dân tộc tiến bộ với vai trò là “bạn” của Việt
Nam trong các số báo giai đoạn 1975-1979
Biểu đồ 2.4.4.1. Số bài viết nhắc tới các dân tộc tiến bộ với vai trò là “bạn” của
Việt Nam trong các số báo giai đoạn 1975-1979
2.4.4.2. Định tính
Nước ta là một dân tộc có tinh thần chiến đấu hào hùng chống lại các cuộc
xâm lăng của các thế lực thù địch bên ngoài. Đặc biệt, khi vừa trải qua hai cuộc
trường kì kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ, nhân dân Việt Nam có
lẽ đã hiểu hơn hết những khó khăn, những mất mát, những đau thương và cũng như
luôn nhận biết và thấu hiểu sự sự ủng hộ của các dân tộc tiến bộ với nước mình
trong công cuộc giành độc lập cho dân tộc. Chúng ta luôn dành cho các dân tộc tiến
bộ trên thế giới những lời động viên, cảm ơn chân thành nhất bởi họ đã luôn sát
cánh cùng ta trong những lúc dân tộc ta rơi vào cảnh lầm than.
Bên cạnh việc bày tỏ sự tôn trọng, biết ơn với các nước như Liên Xô, Trung
Quốc, hai nước láng giềng Lào, Cam-pu-chia hay các nước xã hội chủ nghĩa anh em
khác, Việt Nam luôn bày tỏ sự chân thành với các dân tộc tiến bộ trên thế giới ủng
hộ cuộc chiến chính nghĩa của dân tộc ta. Trong tổng số nhiều bài viết, có đến 12
bài nhắc đến các lực lượng tiến bộ ủng hộ Việt Nam, bao gồm cả những bài xã luận
đứng trên trang nhất. Điều đó cho thấy Việt Nam vô cùng đánh giá cao sự sát cánh
của các dân tộc, cả loài người tiến bộ đối với sự nghiệp chính nghĩa của dân tộc.
Trong bài xã luận “Đảng Lao động Việt Nam, Người lãnh đạo và tổ chức
thắng lợi của Cách mạng Việt Nam” của Lê Duẩn đăng trên tạp chí số 2 năm 1975,
ông đã viết: “Chúng ta bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với Liên-xô, Trung Quốc và
các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế,
phong trào giải phóng dân tộc, tất cả các nước và toàn thể loài người tiến bộ đã
dành cho sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân Việt Nam sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn
và quý báu.”
Hay trong bài “Dân tộc ta có đủ tinh thần và nghị lực, sức mạnh và tài năng,
biến nước ta thành một nước văn mình, giàu mạnh” cũng của Lê Duẩn đăng trên
tạp chí số 5 năm 1997, ông một lần nữa khẳng định : “Chúng ta cảm ơn giai cấp
công nhân các nước trên thế giới, các nước dân tộc chủ nghĩa, các tổ chức dân chủ
quốc tế và cả loài người tiến bộ đã cổ vũ và ủng hộ mạnh mẽ cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước của nhần dân ta. Chúng ta gửi đến nhân dân tiến bộ Mỹ đã vì
hòa bình và công lý mà đồng tình, ủng hộ cuộc chiến đấu chính nghĩa của nhân dân
ta, lời chào hữu nghị.” Trong rất nhiều bài viết, cụm từ “nhân dân tiến bộ Mỹ”
được nhắc lại rất nhiều, cho thấy ta đã không xếp nhân dân Mỹ và đế quốc Mỹ đều
là kẻ thù mà nhân dân ta đã nhận ra sự khác biệt giữa đế quốc Mỹ và nhân dân tiến
bộ Mỹ và coi nhân dân tiến bộ Mỹ là bạn chứ không phải thù địch của ta. Đây cũng
là một điểm rất đúng đắn trong nhận thức của dân tộc ta.
Cũng như vậy, với bài viết “Nhân dân Việt Nam nhất định thắng lợi, giặc
Trung Quốc xâm lược nhất định thất bại” đăng trên số 3 năm 1979, Đại tướng Võ
Nguyên Giáp có viết: “Chúng ta nhất định thắng lợi, bởi vì chúng ta có sự đồng
tình, ủng hộ và giúp đỡ quốc tế to lớn và có hiệu lực của Liên Xô, của các nước xã
hội chủ nghĩa anh em khác, của nhân dân các nước yêu chuộng hòa bình và công lý
trên thế giới, kể cả nhân dân cách mạng Trung Quốc”. Dù đang xảy ra cuộc chiến
cam go với “bọn phản động Bắc Kinh”, dân tộc ta vẫn phân biệt rõ lực lượng phản
động với nhân dân cách mạng tiến bộ.
Nói tóm lại, Việt Nam luôn coi trọng sự cổ vũ và ủng hộ mạnh mẽ của các
dân tộc, cả loài người tiến bộ, những người ủng hộ cuộc chiến chính nghĩa của nhân
dân Việt Nam. Chúng ta đã biết phân biệt rõ ràng giữa lực lượng phản động, giữa đế
quốc với nhân dân cách mạng tiến bộ để từ đó bày tỏ sự cảm kích của mình. Chúng
ta luôn tăng cường đoàn kết giữa nhân dân ba nước Việt Nam - Lào - Cam-pu-chia,
hợp tác chặt chẽ với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em, đồng thời tranh
thủ sự đồng tình và ủng hộ của phong trào cộng sản và công dân quốc tế và của
nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới.
3. Đánh giá và nhận xét
Việt Nam khi hoàn thành thống nhất đất nước trong bối cảnh chiến tranh
lạnh đang diễn ra vô cùng căng thẳng với cuộc đối đầu của hai phe xã hội chủ nghĩa
và tư bản chủ nghĩa. Hơn thế nữa, chúng ta vừa bước ra từ cuộc chiến ác liệt, với sự
giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, đặc biệt là Liên Xô và Trung Quốc,
giành chiến thắng trước cường quốc đứng đầu phe tư bản chủ nghĩa đó là đế quốc
Mỹ.
Sau khi hoàn thành giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, Mỹ đã thực
hiện chính sách thù địch: ban hành lệnh bao vây cấm vận đối với Việt Nam. Trong
khi đó, các nước Xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Liên Xô đã hết lòng ủng hộ và viện
trợ cho Việt Nam về mọi phương diện cả về vật chất lẫn tinh thần.
Trước thực tế đó, Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng do
đồng chí Lê Duẩn trình bày tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV chỉ rõ: “Chính
sách đối ngoại của chúng ta là: Ra sức củng cố và tăng cường tình đoàn kết chiến
đấu và quan hệ hợp tác giữa các nước Xã hội chủ nghĩa anh em, làm hết sức mình
để góp phần cùng các nước xã hội chư nghĩa, phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế khôi phục và củng cố đoàn kết, tăng cường ủng hộ và giúp đỡ lẫn nhau, trên
cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình, làm cho lý
tưởng cao đẹp của chủ nghĩa Mác - Lênin ngày càng thắng lợi rực rỡ… Hoàn toàn
ủng hộ sự nghiệp chính nghĩa của của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
của các nước tư bản chủ nghĩa … chĩa mũi nhọn đấu tranh vào bọn tư bản trong và
ngoài nước, giành quyền dân sinh, dân chủ, tiến bộ xã hội, bảo vệ độc lập dân tộc
và bảo vệ hòa bình thế giới, giành thắng lợi từng bước, tiến lên giành thắng lợi
hoàn toàn cho chủ nghĩa xã hội”.
Có thể thấy rằng, ý thức hệ là tiêu chí hàng đầu trong cách đánh giá bạn - thù
của ta thời kì này. Trong Tập chí Cộng sản, yếu tố ý thức hệ cũng thế hiện rõ ràng
trong một số lượng lớn các bài báo, trong có nhiều bài báo quan trọng như: xã luận,
báo cáo chính trị, nghiên cứu khoa học, phân tích, bình luận về mối quan hệ thân
tình của Việt Nam và các nước xã hội chủ nghĩa. Đồng thời,mặc dù không dùng
trực tiếp từ “ý thực hệ” chúng ta đã sử dụng lượng lớn các từ như là 76 từ “đồng
chí”, 128 từ “anh em”, 130 từ “tình bạn/tình đoàn kết”. Cách viết, cách sử dụng từ
thân thương như vậy càng làm sâu sắc hơn quan hệ giữa Việt Nam và các nước Xã
hội chủ nghĩa. Còn đối với Mỹ và phương Tây báo cáo chỉ rõ: “Kiên quyết cùng các
nước anh em và nhân dân tiến bộ trên thế giới tiếp tục chung sức đấu tranh chống
chính sách xâm lược và gây chiến của bọn đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ, góp
phần tích cực vào sự nghiệp giữ gìn và củng cố hòa bình trên thế giới.” Mặc dù,
chúng ta vẫn ý thức được những mâu thuẫn còn tồn đọng giữa các nước xã hội chủ
nghĩa, đặc biệt là mâu thuẫn Xô- Trung, hay những vấn đề về Cam-pu- chia, vấn đề
về Việt Nam - Trung Quốc thì ý thức hệ, ngọn cờ đấu tranh giai cấp vẫn luôn được
nêu cao và là tiêu chí hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam.
KẾT LUẬN
Năm 1975 là mốc son đánh dấu chiến thắng của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa sau mấy chục năm ròng rã thực hiện cách mạng kháng chiến cứu quốc.
Việt Nam bước ra khỏi cuộc chiến với tư cách là một nước độc lập, tự chủ, với mục
tiêu thực hiện nhiệm vụ thời kì mới đặt ra là quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tuy vậy,
trong niềm hân hoan, chúng ta không ngủ quên trên chiến thắng, bởi khó khăn vẫn
còn phía trước, đặc biệt là về mặt đối ngoại. Tạp chí Cộng sản (Tạp chí Học tập),
với vai trò đơn vị sự nghiệp trung ương của Đảng, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp và
thường xuyên của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, có chức năng là cơ quan lý luận và
chính trị của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, cũng đóng vai trò rất quan
trọng trong việc định hướng tư tưởng, thể hiện thái độ của Đảng và nhân dân Việt
Nam đối với các quốc gia, dân tộc khác.
Trước hết, xuyên suốt các số báo của Tạp chí Cộng sản từ năm 1975 cho tới
1979, chúng ta luôn đề cao sự giúp đỡ và tinh thần gắn bó keo sơn với các quốc gia
xã hội chủ nghĩa đã ủng hộ chúng ta trong suốt các năm kháng chiến. Trong đó,
Liên Xô, Trung Quốc, Lào và Cam-pu-chia luôn là các dân tộc hiện hữu, đồng hành
trong các số của Tạp chí Cộng sản. Qua những thống kê định lượng và phân tích
định tính, có thể thấy rõ chúng ta sử dụng rất nhiều những từ ngữ tốt đẹp để nói về
những quốc gia “anh em này”. Mặc dù Tạp chí Cộng sản chỉ xuất bản mỗi tháng
một số, chưa kể tới việc số lượng bài trong mỗi một số là có hạn, nhưng trong mỗi
số luôn có tối thiểu một bài nói về các quốc gia xã hội chủ nghĩa. Điều này đã một
phần khẳng định thực tế rằng chúng ta đặc biệt coi trọng tình bạn với Liên Xô,
Trung Quốc, Lào và Cam-pu-chia mặc cho thực tế là trong giai đoạn 1978-1979
chúng ta gặp đôi chút trục trặc trong quan hệ với Trung Quốc và Cam-pu-chia.
Ngoài ra, trong các bài viết trên các mặt báo của Tạp chí Cộng sản, bên cạnh
những Liên Xô, Trung Quốc, Lào và Cam-pu-chia, các “nước xã hội chủ nghĩa anh
em” khác cũng đặc biệt được chú trọng, đặc biệt nhất có thể kể đến quan hệ “anh
em hữu nghị” với Cu-ba. Trong thời kỳ này, chúng ta cũng công khai trên Tạp chí
các cố gắng mở rộng quan hệ đối ngoại và hợp tác kinh tế với nước ngoài và tăng
cường đoàn kết quốc tế trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô
sản. Đồng thời ta cũng mạnh mẽ ủng hộ các phong trào giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp và sự nghiệp đấu tranh vì độc lập của nhân dân các nước châu Á,
châu Phi, châu Mĩ La-tinh chống chủ nghĩa đế quốc và của các dân tộc tiến bộ khác.
Có thể thấy rõ rằng trong giai đoạn 1975-1979 này, qua những lập luận và
cách sử dụng những từ ngữ, qua số lượng tương đối những bài viết về các nước
Liên Xô, Trung Quốc, Lào và Cam-pu-chia và các quốc gia xã hội chủ nghĩa khác
chiếm số lượng tương đối trong mỗi số báo, Việt Nam bị ảnh hưởng bởi yếu tố “ý
thức hệ” và chủ nghĩa Mác-Lê-nin trong cách chọn bạn bè của mình. Những thống
kê định lượng và phân tích định tính ở phần trên của tiểu luận đã làm rõ điều này.
Cụ thể là trong thời gian này, các tác giả của Tạp chí Cộng sản luôn nêu cao tinh
thần “xã hội chủ nghĩa”, chê bai chiều kích “tư bản”, “tư sản”, cùng với đó các cách
sử dụng từ ngữ luôn có thiên hướng ưu ái và ca ngợi các nước xã hội chủ nghĩa.
Tóm lại, trong giai đoạn 1975-1979, tư tưởng của chúng ta vẫn bị ảnh hưởng
bởi nhân tố “ý thức hệ” trong cách xác định bạn-thù, vì vậy, chúng ta lựa chọn các
quốc gia xã hội chủ nghĩa là bạn bè của mình.
PHỤ LỤC
Thời STT Tên bài viết Tác giả Thể loại Số trang gian
Đảng Lao động Việt Nam, Người
1 2/1975 lãnh đạo và tổ chức thắng lợi của Lê Duẩn Xã luận 12-27
Cách mạng Việt Nam
Liên doanh, hình thức tổ chức Nguyễn 2 2/1975 sản xuất mới trong nông nghiệp Bài viết 76-81 Trung Cộng hòa dân chủ Đức
Chăn nuôi theo phương pháp Nguyễn 3 3/1975 Bài viết 83-89 Mười công nghiệp ở Cu-ba
Hằng 4 4/1975 Hung-ga-ri phát triển chăn nuôi Bài viết 85-89 Anh
Thắng lợi vẻ vang của 30 năm 5 5/1975 Xã luận 5-14 đấu tranh giải phóng
Dân tộc ta có đủ tinh thần và
nghị lực, sức mạnh và tài năng, 6 5/1975 Lê Duẩn Diễn văn 15-20 biến nước ta thành một nước văn
mình, giàu mạnh
Hồ Chủ tích và Cách mạng giải Hà Huy 7 5/1975 Bài viết 29-39 phóng dân tộc Giáp
Cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước của nhân dân Cam-pu- Hữu 8 5/1975 Bài viết 48-57 chia đã giành được thắng lợi Nghị
hoàn toàn
Phan 9 5/1975 Thế giới với Việt Nam đại thắng Bài viết 84-89 Hiền
Sự nghiệp cách mạng của nhân
10 7/1975 dân Tiệp-Khắc không ngừng tiến Yến Văn Báo cáo 78-84
triển
Phát huy truyền thống Cách
11 8/1975 mạng tháng Tám, xây dựng Tổ Xã luận 1-7
quốc ta giàu mạnh
Phạm 12 8/1975 Tự hào và tin tưởng Bài viết 53-57 Thành
Tăng cường nhà nức để làm tròn
13 9/1975 nhiệm vụ cách mạng trong giai Xã luận 3-12
đoạn mới
Lăng Hồ Chủ tịch tượng trưng
cho tình cảm của của toàn Đảng, 14 9/1975 Lê Duẩn Diễn văn 13-15 toàn dân đối với vị lanh tụ vô
cùng kính mến
Dưới ngọn cờ Tổ quốc và chủ Phạm
15 9/1975 nghĩa xã hội, nhân dân Việt Nam Văn Diễn văn 16-25
ta hãy vững bước tiến lên Đồng
Võ Nhật lệnh của Đại tướng Võ Nhật Nguyên 16 9/1975 26-29 Nguyên Giáp ngày 2-9-1975 lệnh Giáp
Nguyễn Bước phát triển mới của phong Như 17 9/1975 Bài viết 86-89 trào các nước không liên kết Liên
30 năm đấu tranh ngoại giao vì Nguyễn
18 10/1975 độc lập, tự do của tổ quốc và xây Huy Bài viết 5-19
dựng chủ nghĩa xã hội Thanh
Công nghiệp nhẹ Trung Quốc 19 10/1975 Lê Tịnh Bài viết 84-89 trên đà phát triển
Hoàn thành thống nhất nước nhà,
đưa cả nước tiến nhanh, tiến 20 11/1975 Xã luận 1-13 mạnh, tiến vững chắc lên chủ
nghĩa xã hội
Thực hiện thống nhất nước nhà Trường Báo cáo 21 11/1975 14-19 về mặt nhà nước Chinh chính trị
30 năm đấu tranh bất khuất Kay-son 30 năm thắng lại vẻ vang 22 11/1975 Phôm- Bài viết 34-42 (Bài này chốt sau vì viết dưới vihan góc độ của người Lào)
Nguyễn Nền kinh tế Liên Xô không 23 11/1975 Hữu Bài viết 43-49 ngừng phát triển Khiếu
Thắng lợi vĩ đại, bước ngoặt lịch Nguyễn 24 11/1975 Bài viết 50-56 sử Cần
Bài trừ tận gốc bọn tư sản mại Nguyễn 25 11/1975 bản lũng đoạn, đầu cơ tích trữ, Bài viết 68-71 Chính phá rối thị trường
26 12/1975 Một sự kiện lịch sử Xã luận 1-3
Điện 27 12/1975 Điện mừng 4-6 mừng
Thắng lợi vĩ đại của cách mạng 28 12/1975 Bài viết 7-13 Lào
Thông cáo của hội nghị đại biểu Thông 29 1/1976 4-7 nhân dân miền Nam Việt-Nam cáo
Đào Mấy kinh nghiệm trong công tác 30 1/1976 Thiện Bài viết 41-48 tài chính Thi
Quyền tự quyết của nhân dân 31 1/1976 Yến Van Bài viết 75-80 Đông Ti-mô phải được tôn trọng
Nguyễn 32 2/1976 Nhiệm vụ mới, trách nhiệm mới Bài viết 41-49 Văn
Quảng
Nguyễn
33 2/1976 Đông Nam Á “sau Việt Nam Bài viết 61-70 Giao
Hiền
Hoàng Chính sách đại đoàn kết và thắng 34 3/1976 Quốc Bài viết 7-17 lợi của cách mạng Việt Nam Việt
Nhân dân Ăng-gô-la anh dũng Lê Hoàn 35 3/1976 đấu tranh cho độc lập và thống Bài viết 64-70 Thư nhất
Đế quốc Mỹ bước vào năm 1976 36 3/1976 Huy Ưu Bài viết 70-80 đầy chông gai
Đảng cộng sản Cu-ba, đội tiền Hoàng 37 4/1976 phong anh hùng của giai cấp Bài viết 65-72 Tùng công nhân Cu-ba
Ra sức thi đua lao động, sản
xuất, cần kiệm xây dựng chủ Trường 38 5/1976 Bài viết 6-13 nghĩa xã hội, lấy thành tích chào Chinh
mừng Quốc hội mới
Xây dựng nền quốc phòng toàn Võ
39 5/1976 dân vững mạnh bảo vệ Tổ quốc Nguyên Bài viết 13-46
Việt Nam xã hội chủ nghĩa Giáp
Hưởng ứng kêu gọi của quốc Hội
40 7/1976 ra sức phấn đấu xây dựng tổ Xã luận 1-6
quốc xã hội chủ nghĩa giàu mạnh
Toàn dân đoàn kết xây dựng tổ
41 7/1976 quốc, Việt Nam thống nhất xã Lê Duẩn Bài viết 7-20
hội chủ nghĩa
Phong trào giải phóng dân tộc và
42 8/1976 sự thất bại của chủ nghĩa thực La Côn Bài viết 69-79
dân cũ và mới
Chính sách đối ngoại của nước Hướng 43 9/1976 Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Bài viết 59-66 Nam Nam
Nhân dân Liên Xô tiến mạnh trên
con đường xây dựng cơ sở vật 44 11/1976 Yên Vân Bài viết 73-77 chất kỹ thuật của chủ nghĩa cộng
sản
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn Nghị 45 12/1976 quốc lần thứ IV của Đảng Cộng 3-7 quyết sản Việt Nam
Tình hình thế giới sau thắng lợi Hoàng 46 2/1977 của Việt - Nam và thất bại của Bài viết 37-48 Tùng Mỹ
Sáu mươi năm lớn mạnh không
47 4/1977 ngừng của Nhà nước Xã hội chủ Vũ Toàn Bài viết 64-70
nghĩa đầu tiên
Dương Trung-Quốc tích cực hiện đại 48 5/1977 Quốc Bài viết 67-71 hóa công nghiệp và nông nghiệp Tần
Thành tựu xuất sắc của Cộng hòa
Dân chủ Đức trong giai đoạn đầu 49 6/1977 Yến Vân Bài viết 69-75 xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa
phát triển
Cách mạng Mô - dăm - bích đang 50 6/1977 Lê Tịnh Bài viết 75-77 vững bước tiến lên
Hoàng Phong trào công nhân ở các nước 51 7/1977 Quốc Bài viết 17- 34 tư bản chủ nghĩa phát triển Việt
Một tác phẩm quan trọng về tình
hình thế giới và trách nhiệm quốc Phan tế của Đảng ta Tiến 52 7/1977 Bài viết 58 -68 Giới thệu sách “Tình hình thế Tích giới và nhiệm vụ quốc tế của
Đảng ta” - Lê Duẩn
Tình đoàn kết trong sáng Cu- ba- Đoàn 53 7/1977 Bài viết 74-77 Việt - Nam Văn
Nắm vững tính chất giai cấp
54 8/1977 công nhân của Đảng trong giai Xã luận 1-12
đoạn mới
Hung-ga- ri xây dựng chủ nghĩa Đinh 55 8/1977 Bài viết 68-71 xã hội phát triển Hoàng
Cộng hòa dân chủ nhân dân Y-ê-
56 8/1977 men trên con đường tiến bộ xã Đào Vũ Bài viết 71-73
hội
Cuộc đấu tranh của các lực lượng
57 8/1977 tiến bộ trên thế giới về luật biển Bá Sơn Bài viết 74-77
quốc tế
Nhân dân Việt Nam quyết góp Nguyễn phần xứng đáng hơn nữa vào sự Báo cáo 58 10/1977 Duy 11-14 nghiệp cách mạng của nhân dân Trinh thế giới
Cách mạng tháng Mười và Cách Đào Duy 59 10/1977 Bài viết 39-45 mạng Việt Nam Tùng
Những tiến bộ vượt bậc của Liên 60 10/1977 Bài viết 45-55 Xô qua các kế hoạch 5 năm
Sự nghiệp chính nghĩa của nhân Lê Toàn 61 10/1977 Bài viết 73-77 dân Pa-le-xtin nhất định thắng lợi Thư
Bước nhảy vọt lịch sử của nhân Nguyễn 62 12/1977 Bài viết 63-67 dân Mông Cổ Văn
Không thế lực phản động nào Nguyễn phá hoại được tình đoàn kết hữu 63 1/1978 Huy Bài viết 11-14 nghị giữa nhân dân hai nước Việt Tưởng Nam và Cam-pu-chia
Ba Lan chú trọng phát triển 64 2/1978 Hà Đăng Bài viết 97-100 ngành công nghiệp mũi nhọn
Cuộc đấu tranh chống chế độ Trần
65 2/1978 phân biệt chủng tộc ở Cộng hòa Bài viết 101-104 Hoài
Nam Phi Nam
Nguyễn Cuba vững bước trên con đường 66 7/1978 Minh Bài viết 91-95 xây dựng xã hội chủ nghĩa Phương
Sự nghiệp chính nghĩa cua nhân Hữu 67 7/1978 Bài viết 95-98 dân Pa-le-xtin nhât định thắng lợi Nghị
Về xu thế độc lập, hòa bình và Văn 68 7/1978 Bài viết 98-105 trung lập ở khu vực Đông - Nam Hiền
Khẩu hiệu kỷ niệm lần thứ 33
69 9/1978 Cách mạng tháng Tám và Quốc Hà Anh 1-3
khánh 2-9
Tất cả vì sự nghiệp xây dựng chủ
70 9/1978 nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc xã Xã luận 3-7
hội chủ nghĩa
Thắng lợi to lớn của cách mạng Nguyễn 71 9/1978 Bài viết 72-76 Áp-ga-ni-xtan Nam
Thắng lợi mới của phong trào Hướng 72 10/1978 Bài viết 47 -51 không liên kết Nam
Cả nước một lòng bảo vệ vững Hồng 73 10/1978 chắc tổ quốc Việt Nam xã hội Bài viết 1-24 Nam chủ nghĩa
Liên hợp công- nông nghiệp ở Lê 74 10/1978 Bài viết 97-105 Bun-ga-ri Phước
Nước công hòa dân chủ nhân dân Quyết 75 11/1978 Lào ngày càng được củng bố Bài viết 96-100 Thắng vững mạnh
Hãy làm tốt những nhiệm vụ 76 1/1979 Xã luận 1-10 cách mạng của năm 1979
Thao 77 1/1979 Họ được gì từ khi trực tiếp ra tay Bài viết 72-76 Hiền
Nguyễn Thực chất vấn đề quyền con 78 1/1979 Khắc Bài viết 77- 83 người Viện
Nguyễn Cu ba, một tấm gương sinh động 79 1/1979 Minh Bài viết 83-90 về chủ nghĩa quốc tế vô sản Phương
Lời kêu gọi của Ban Chấp hành Lời kêu 80 3/1979 Trung ương Đảng Cộng sản Việt 1-5 gọi Nam
Đại
Nhân dân Việt Nam nhất định tướng
81 3/1979 thắng lợi, giặc Trung Quốc xâm Võ Bài viết 11-23
lược nhất định thất bại Nguyên
Giáp
82 3/1979 Chiến thắng oanh liệt TCCS Bài viết 23-27
Thắng lợi mới của tình đoàn kết
83 3/1979 chiến đấu Việt-nam - Cam-pu- Bài viết 33-36
chia
Cả loài người tiến bộ lên án 84 3/1979 Bài viết 70-75 Trung Quốc, ủng hộ Việt Nam
Trung Kiên quyết đập tan âm mưu xâm tướng Lê 85 4/1979 lược của bọn phản động Trung Bài viết 10-17 Trọng Quốc Tấn
Nhân dân Lào kiên quyết bảo vệ Thanh 86 4/1979 độc lập, chủ quyền và toàn vẹn Bài viết 66-71 Sơn lãnh thổ của mình.
Chính sách bành trướng và bá Văn 87 4/1979 quyền nước lớn của Trung Quốc Bài viết 71-79 Hiền ở Đông Nam Châu Á
Chuẩn bị tốt việc kỷ niệm ba 88 6/1979 Xã luận 1-9 ngày lễ lớn trong năm 1980
Bài phát biểu của đồng chí Tố
Hữu - Trưởng đoàn Việt Nam ở Bài phát 89 7/1979 Hội nghị các bí thư Trung ương Tố Hữu 12-30 biểu Đảng họp tại Béc-lin từ ngày 3
đến 5/7/1979
Phạm Y-ê-men trên con đường phát 90 7/1979 Huy Bài viết 83-88 triển cách mạng Thông
Nguyễn Ba mươi năm hoạt động của Hội 91 8/1979 Xuân Bài viết 65-74 đồng tương trợ kinh tế Trang
Tiếp tục phấn đấu thực hiện di 92 9/1979 Bài viết 9-14 chúc thiêng liêng của Hồ chủ tịch
Quan hệ kinh tế Việt-nam - Liên- 93 11/1979 Lê Khắc Bài viết 29-35 xô ngày càng phát triển
Trường 94 12/1979 Về vấn đề Cam-pu-chia Bài viết 1-21 Chinh
Cộng hòa dân chủ Đức 30 năm Yến Vân Bài viết 76-80 95 12/1979 qua