HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
KHOA CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ VÀ NGOẠI GIAO
MÔN: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI II
Đề tài:
HÌNH ẢNH KẺ THÙ DƯỚI GÓC ĐỘ Ý THỨC HỆ VÀ LỢI ÍCH QUỐC
GIA TRÊN BÁO NHÂN DÂN GIAI ĐOẠN 1975 - 1978
Giảng viên hướng dẫn :Thầy Vũ Đoàn Kết
Nhóm sinh viên thực hiện : Nhóm 8
Lớp : CT43A
Hà Nội , 2018
LỜI MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 4
HÌNH ẢNH “KẺ THÙ” DƯỚI GÓC NHÌN Ý THỨC HỆ VÀ LỢI ÍCH QUỐC GIA TRÊN BÁO NHÂN DÂN GIAI ĐOẠN 1975-1978 .................... 5
I. KHÁI QUÁT CHUNG .............................................................................. 5
1. Bối cảnh ..................................................................................................... 5
1.1. Tình hình thế giới ................................................................................ 5
1.2. Tình hình trong nước .......................................................................... 6
2. Sơ lược về một số thông tin quan trọng trong quan hệ Việt Nam với các nước giai đoạn 1975- 1978 ..................................................................... 7
2.1. Với các nước Đông Nam Á (ASEAN) ................................................ 7
2.2. Với Hoa Kì ........................................................................................... 8
2.3. Với Trung Quốc ................................................................................... 8
2.4. Với Cam-pu-chia ................................................................................. 8
3. Khái niệm về kẻ thù .................................................................................. 9
3.1. Khái niệm kẻ thù .................................................................................. 9
3.2. Kẻ thù mang tính ý thức hệ ................................................................. 9
3.3. Kẻ thù mang tính lợi ích quốc gia ...................................................... 9
4. Tổng quan về hình ảnh “kẻ thù” trong báo nhân dân ........................ 10
II. NỘI DUNG ............................................................................................ 14
1. Hình ảnh kẻ thù dưới góc độ ý thức hệ trên báo nhân dân giai đoạn 1975-1978 ..................................................................................................... 14
1.1. Xét về định lượng ............................................................................ 14
1.2. Về định tính ..................................................................................... 17
1.2.1. Kẻ thù giai đoạn đầu năm 1975 đến lúc thống nhất đất nước .. 21
1.2.2. Kẻ thù từ sau khi thống nhất đất nước đến hết năm 1978 ......... 32
1.2.3. Có hay không cơ hội bình thường hóa quan hệ giữa Mỹ với Việt Nam dựa trên thông tin của báo Nhân dân giai đoạn 1975-1978 ......... 34
2. Hình ảnh kẻ thù dưới góc độ lợi ích quốc gia trên báo Nhân dân giai đoạn 1975-1978 ............................................................................................ 38
2.1. Báo nhân dân khi nói về “kẻ thù” Mỹ dưới góc độ lợi ích quốc gia giai đoạn 1975- 1978 ................................................................................ 41
2.1.1. Tham vọng của Mỹ khi tiến hành xâm lược Việt Nam............... 42
2.1.2. Về định lượng ............................................................................. 43
2.1.3. Về định tính ................................................................................ 44
2.2. Báo Nhân dân khi nói về “kẻ thù” Trung Quốc dưới góc độ lợi ích quốc gia giai đoạn 1975- 1978 ................................................................. 48
2.2.1. Về định lượng ............................................................................. 50
2.2.2. Về định tính ................................................................................ 50
2.3. Báo nhân dân khi nói về “kẻ thù” Campuchia dưới góc độ lợi ích quốc gia giai đoạn 1975- 1978 ................................................................. 55
2.3.1. Quan hệ Việt Nam – Campuchia giai đoạn 1975-1978 ............ 55
2.3.2. Về định lượng ............................................................................. 59
2.3.3. Về định tính ................................................................................ 60
III. NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ ..................................................................... 63
1. Giọng điệu của những bài viết trên báo nhân dân về “kẻ thù”. ........ 63
2. Đánh giá ................................................................................................... 64
2.1. Ưu điểm: .......................................................................................... 64
2.2. Hạn chế: .......................................................................................... 65
3. Lợi ích của Việt Nam khi công khai lên án, chỉ trích kẻ thù trên báo nhân dân giai đoạn 1975-1978 ................................................................... 66
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 71
LỜI MỞ ĐẦU
Theo suốt chiều dài lịch sử của Việt Nam, trong ý thức của dân tộc ta
luôn có hai chữ “bạn – thù”. Những kẻ luôn có âm mưu xâm lược và chiếm hữu
nước ta thì coi là kẻ thù. Chúng ta đã gặp phải nhiều “kẻ thù” khác nhau từ lớn
đến nhỏ như: Đức, Pháp, Mỹ,…Tính đến nay đã hơn 40 năm kể từ khi chấm dứt
cuộc kháng chiến chống Mỹ và thiết lập quan hệ ngoại giao nhưng để có được
kết quả này Việt Nam đã phải trải qua một thời gian đầy gian khổ. Giai đoạn
sau 1975, khi kết thúc chiến tranh tưởng chừng như êm đẹp thì ta vẫn gặp phải
lệnh cấm vận của Mỹ. Bên cạnh đó, vấn đề Cam-pu-chia lại liên quan trực tiếp
đến quan hệ Việt – Trung nên một lần nữa Việt nam bị “chảy máu”. Về đối
ngoại, Việt Nam bị cô lập về chính trị, bị bao vây về kinh tế trong khi đó chúng
ta phải đối phó với cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội rất trầm trọng trong nước.
Bởi vậy, bài tiểu luận này nhóm nghiên cứu sẽ đi sâu phân tích hình ảnh
“kẻ thù” dưới góc nhìn của ý thức hệ và lợi ích quốc gia trong giai đoạn 1975-
1978, một giai đoạn được coi là nhạy cảm. Bằng cách sử dụng các phương
pháp: phân tích, định lượng và định tính qua các bài viết trên trang báo Nhân
Dân để làm rõ hơn về tình hình các sự kiện, cái nhìn từ bao quát đến cụ thể về
hành động của Mỹ cũng như Trung Quốc – Cam-Pu-Chia đối với Việt Nam và
những bài học sâu sắc trong việc thiết lập quan hệ với các nước để biến từ “thù”
sang “bạn”.
Trong quá trình tìm hiểu, tổng hợp và phân tích tài liệu, bài tiểu luận sẽ
không thể tránh khỏi những sai sót, mắc phải những suy nghĩ chưa thực sự đầy
đủ, chính xác. Nhóm rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của giáo viên
hướng dẫn và của các bạn để bài tiểu luận được hoàn thiên hơn!
HÌNH ẢNH “KẺ THÙ” DƯỚI GÓC NHÌN Ý THỨC HỆ VÀ LỢI ÍCH QUỐC GIA TRÊN BÁO NHÂN DÂN GIAI ĐOẠN 1975-1978
I. KHÁI QUÁT CHUNG
1. Bối cảnh
1.1. Tình hình thế giới
Phức tạp và biến dạng theo nhiều hướng, chiến tranh lạnh vẫn chi phối
hầu hết trong quan hệ quốc tế. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật mới diễn ra,
tạo xu thế cho hợp tác kinh tế giữa các quốc gia. Thế giới vừa hợp tác mạnh mẽ
vừa đấu tranh gay gắt, đặc biệt là hai phe, hai cực trong chiến lược lợi ích toàn
cầu. Sự phân hóa mạnh mẽ trong nội bộ từng phe đặc biệt là phe các nước xã
hội chủ nghĩa, nảy sinh nhiều mâu thuẫn khó có thể điều hòa được
Việc Mỹ rút quân khỏi Đông Nam Á lục địa đã khiến cho nền chính trị
thế giới bước vào thời kỳ "sau Việt Nam". Cục diện quan hệ giữa các nước lớn
cũng diễn biến phức tạp. Nước Mỹ suy giảm thế và lực, khủng hoảng toàn diện
về chính trị, kinh tế, xã hội. Trong khi đó, Tây Âu và Nhật Bản vươn lên, trở
thành các trung tâm kinh tế thế giới cạnh tranh với Mỹ, các khối quân sự trở nên
lỏng lẻo hoặc tan rã ( SEATO). Xu hướng độc lập với Mỹ trong thế giới phương
Tây không ngừng tăng lên.
Năm 1975, Liên Xô thúc đẩy ký Định ước Helsinki, kết thúc 30 năm đối
đầu ở châu Âu. Liên Xô cũng tăng cường mở rộng ảnh hưởng đến Mỹ Lantinh,
châu Á, châu Phi, đặc biệt là ở các nước thuộc khối thuộc địa của Bồ Đào Nha
mới giành được độc lập và bắt đầu quan tâm nhiều hơn tới Đông Nam Á, châu
Á – Thái Bình Dương. Trên mặt trận quốc tế lúc này, xu thế hòa hoãn đang thay
thế dần xu thế đối đầu.
Trong khi đó, tình hình khu vực cũng có nhiều biến động. Tình trạng
chiến tranh nóng bỏng gây nên sự mất ổn định trong khu vực kéo dài suốt 30
năm đã kết thúc, ngày nay khu vực Đông Nam Á đã im tiếng súng, đã có hòa
bình, ổn định. Các nước ASEAN trước đây đã dính líu vào các cuộc chiến tranh
của Mỹ sau khi ta giành độc lập rất muốn có quan hệ tốt với chúng ta. Sau khi
Mỹ rút lui, Liên Xô và Trung quốc tăng cường sự hiện diện ở khu vực này. Đối
với Mỹ thất bại ở Việt Nam đã khiến Mỹ như bị dội “một gáo nước lạnh”, rút
khỏi khu vực Đông Nam Á. Mặc dù ảnh hưởng ở khu vực này đã bị suy giảm
nhưng Mỹ vẫn vừa tìm cách khai thác mâu thuẫn Xô – Trung vừa muốn có một
nước Việt Nam độc lập cả với Trung Quốc lẫn Liên Xô để duy trì cân bằng
chiến lược giữa 3 nước lớn trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Nền
kinh tế Mỹ suy yếu bởi tác động của cuộc khủng hoảng dầu lửa những năm 70
cùng với việc Mỹ đã quá sa lầy trong chiến tranh ở Việt Nam đã tạo ra trong
lòng nước Mỹ, nhân dân Mỹ “hội chứng Việt Nam” hình ảnh nước Mỹ bị giảm
đi nghiêm trọng.
1.2. Tình hình trong nước
Sau hiệp định Pa-ri năm 1973, tình hình 2 miền nước ta trước những thay
đổi to lớn:
Miền Bắc, về cơ bản miền Bắc đang dần khôi phục các cơ sở kinh tế, các
hệ thống thủy nông, mạng lưới giao thông, công trình văn hóa, giáo dục, y tế.
Kinh tế đang dần dà có bước phát triển.
Miền Nam, trong cuộc đấu tranh chống “bình định – lấn chiếm”, chống
âm mưu “tràn ngập lãnh thổ” của chính quyền Sài Gòn vào những tháng đầu sau
khi kí Hiệp định Pari, quân dân ta đã đạt được một số kết quả nhất định. Nhưng
do không đánh giá hết âm mưu phá hoại Hiệp định của địch, do quá nhấn mạnh
đến hòa bình, hòa hợp dân tộc… nên tại một số địa bàn quan trọng, chúng ta bị
mất đất, mất dân.
Tại các vùng giải phóng, đồng thời với cuộc đấu tranh bảo vệ quê hương,
nhân dân ta ra sức khôi phục và đẩy mạnh sản xuất, tăng nguồn dự trữ chiến
lược cho cuộc chiến đấu hoàn thành giải phóng miền Nam. Các ngành sản xuất
công nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp, các mặt hoạt động văn hóa, xã
hội, giáo dục, y tế cũng được đẩy mạnh.
Sau khi giành thắng lợi trong chiến dịch mùa Xuân năm 1975, Việt Nam
bước vào thời kì mới, bảo vệ độc lập chủ quyền và xây dựng lại đất nước.
Tuy nhiên, ngay sau đó Việt Nam phải tiếp tục đương đầu với các cuộc
chiến tranh biên giới phía Bắc và Tây Nam. Bị các thế lực thù địch do Mỹ,
Trung Quốc đứng đầu bao vây, phong toả về kinh tế, cô lập về ngoại giao, cùng
với sự áp dụng cứng nhắc mô hình kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp, không
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, hoàn cảnh trong nước
giai đoạn 1975-1978 này có nhiều khó khăn về nhiều mặt: kinh tế, chính trị, xã
hội. Kinh tế sa sút, lạm phát tăng nhanh, bội chi ngân sách Nhà nước càng ngày
càng tăng; sản xuất trì trệ, năng suất hiệu quả kinh tế giảm sút. Đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân không được đảm bảo.
Thêm vào đó là quan hệ giữa Việt Nam với các nước trong khu vực, đặc
biệt là các nước có chung biên giới xuất hiện hiều diễn biến phức tạp, các thế
lực thù địch trong và ngoài nước chống đối Việt Nam.
2. Sơ lược về một số thông tin quan trọng trong quan hệ Việt Nam
với các nước giai đoạn 1975- 1978
2.1. Với các nước Đông Nam Á (ASEAN)
Ta vẫn cho rằng tổ chức ASEAN là khối SEATO trá hình, các nước
ASEAN là tay sai của Mỹ bảo vệ lợi ích của Mỹ, nên mặc dù ta đưa ra chính
sách bốn điểm và đã bình thường hóa quan hệ với họ, ta vẫn dè dặt trong mối
quan hệ đó và đôi khi vẫn để xảy ra những trục trặc nhỏ không cần thiết đối với
họ. Mặt khác, ta vẫn cho rằng ta có nghĩa vụ quốc tế là ủng hộ phong trào cách
mạng ở các nước trong khu vực trong khi các nước ASEAN rất sợ ta ủng hộ và
giúp đỡ phong trào cách mạng của các lực lượng vũ trang chống đối trong nước
họ. Vì vậy, mặc dù đã bình thường hóa quan hệ với ta trên cơ sở chính sách bốn
1 Chính sách đối ngoại Việt Nam (1975-2006), Học viện Quan hệ quốc tế, TS. Nguyễn Vũ Tùng biên soạn , NXB Thế Giới
điểm, các nước ASEAN vẫn không thật sự yên tâm với ý đồ lâu dài của ta1
2.2. Với Hoa Kì
Trong quan hệ với Mỹ, tháng 1/1977, Jimmy Carter nhậm chức Tổng
thống; Đại sứ Mỹ ở Liên hợp quốc A. Young nói: Coi Việt nam như Nam Tư ở
châu Á, không phải là một bộ phận của Trung Quốc hay Liên Xô, là một nước
độc lập. Một nước Việt Nam mạnh và độc lập là phù hợp với lợi ích quốc gia
của Mỹ. Ngày 16/3/1977, Leonard Woodcock, đặc phái viên của Tổng thống
Mỹ thăm Việt Nam. Phía Mỹ nêu vấn đề MIA, phía Việt Nam nêu vấn đề thực
hiện điều 21 Hiệp định Paris. Ta và Mỹ cũng tiến hành 3 vòng hội đàm về bình
thường hóa quan hệ 2 nước (3/5/1977, 1/6/1977, 19/12/1977) nhưng không kết
quả; tuy nhiên, Mỹ thôi không phủ quyết việc VN gia nhập Liên Hợp quốc.
2.3. Với Trung Quốc
Quan hệ Việt-Trung ngày càng xấu đi. Ngày 2-20/6/1977, đoàn quân sự
ta do đồng chí Võ Nguyên Giáp dẫn đầu thăm Trung Quốc, Trung Quốc nói gay
gắt là ta đã làm tổn thương quan hệ 2 nước. Ngày 7- 10/6/1977, Thủ tướng
Phạm Văn Đồng thăm các nước Bắc Âu về qua Bắc Kinh, Trung Quốc trao bị
vong lục 7 điểm: Việt Nam công khai nói xấu Trung Quốc; vấn đề biên giới trên
bộ; điểm nối ray đường sắt Việt-Trung; 2 quần đảo; vịnh Bắc bộ; Hoa kiều ở
Việt Nam; Việt Nam dùng vấn đề lịch sử để chống Trung Quốc. Ngày
20/11/1977, đoàn Đảng và Chính phủ ta do đồng chí Lê Duẩn dẫn đầu thăm
Trung Quốc. Trung quốc đón tiếp và hội đàm lạnh nhạt. Trung Quốc nhắc lại
thuyết “3 thế giới”, từ chối việc ta yêu cầu viện trợ 50 vạn tấn thép. Trong khi
đó, quan hệ Cam-pu-chia-Trung Quốc tiếp tục được tăng cường.
2.4. Với Cam-pu-chia
Dưới sức ép của liên minh Trung Quốc – Khmer Đỏ, Việt Nam đã phải
đưa quân vào giải phóng Campuchia khỏi tay của bè phái diệt chủng Pol Pot,
mở đầu cho một thập kỷ mà Việt Nam bị cô lập về mọi mặt, phải phụ thuộc vào
viện trợ của Hội đồng Tương trợ Kinh tế, phải đối phó với một cuộc xâm lược ở
biên giới phía Bắc, và chịu tổn thất lớn về con người trên đất bạn.
3. Khái niệm về kẻ thù
3.1. Khái niệm kẻ thù
Kẻ thù là cá nhân, thế lực, tổ chức hay quốc gia có âm ý định làm hại đến
một cá nhân, tổ chức hay tập thể khác bằng những hành động gây ảnh hưởng
đến nhiều mặt
Có hai loại lẻ thù: kẻ thù trực tiếp và kẻ thù gián tiếp
Kẻ thù trực tiếp là những cá nhân tổ chức trực tiếp hành động gây ra
những tổn thất, khó khăn cho đối phương bằng mọi cách
Kẻ thù gián tiếp là những thế lực đứng sau tiếp tay cho một nhóm tổ chức
để âm mưu làm hại đối phương bằng cách viện trợ, giúp đỡ nhưng lại mamg ý
đồ xấu
3.2. Kẻ thù mang tính ý thức hệ
Ý thức hệ được định nghĩa là: Các ý tưởng, nhận thức, giá trị và niềm tin
chung, thông qua đó những thành viên của một xã hội diễn dịch lịch sử và
những sự kiện xã hội đương thời đã định hình các kỳ vọng và khát khao của họ
đối với tương lai.
Vậy kẻ thù mang ý thức hệ nghĩa là những quốc gia có âm mưu xâm
chiếm nước ta và mang hệ thống tư tưởng tư bản chủ nghĩa.
3.3. Kẻ thù mang tính lợi ích quốc gia
Lợi ích quốc gia - dân tộc là các mục tiêu mà quốc gia theo đuổi để bảo
đảm sự tồn tại và phát triển của mình, bao gồm: Giữ vững chủ quyền; thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ; ổn định chế độ chính trị; bảo đảm an ninh và an toàn
cho người dân; giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc; bảo đảm các điều kiện cho
quốc gia phát triển kinh tế, xã hội,... Các lợi ích này thường được chia thành hai
nhóm: nhóm lợi ích an ninh và nhóm lợi ích phát triển. Nhóm lợi ích an ninh là
những mục tiêu bảo đảm cho quốc gia tiếp tục tồn tại. Nhóm lợi ích phát triển
bao gồm các lợi ích bảo đảm cho quốc gia ngày càng lớn mạnh, có vị thế quốc
tế ngày càng cao, đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được
cải thiện.
Kẻ thù mang lợi ích quốc gia là những nước được cho là xâm lược nước
ta vì mục đích phát triển kinh tế, mở rộng lãnh thổ nhằm làm cho quốc gia đó
lớn mạnh hơn, phát triển thành bá chủ thế giới
4. Tổng quan về hình ảnh “kẻ thù” trong báo nhân dân
Báo Nhân dân là cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Việt Nam, là Cơ
quan Trung ương, tiếng nói của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam. Do đó,
bằng cách chọn báo Nhân dân để phân tích sẽ cho ta thấy được cái nhìn chính
xác, chân thực về tư duy, chính sách cũng như tiếng nói của Đảng và nhà nước.
Báo nhân dân có số lượng phát hành 200-220 nghìn bản/ngày, phát hành rộng
rãi đến từng chi bộ trên phạm vi cả nước và một số được phát hành nước ngoài.
Trong giai đoạn 1975-1978 có tất cả 851 đầu báo nói về kẻ thù trong đó
bao gồm có Mỹ, Thiệu, Trung Quốc và Cam-pu-chia.
Dưới đây là biểu đồ thể hiện số đâu báo về kẻ thù trong giai đoạn này:
417
231
122
81
600 550 500 450 400 350 300 250 200 150 100 50 0
1975
1976
1977
1978
Số bài
Tổng số bài báo nói về kẻ thù trong các năm từ 1975- 1978 trong báo Nhân dân
Từ biểu đồ trên ta có thể thấy: Năm 1975, số đầu báo lên đến 417 bài và
giảm dần xuống 122 đầu năm 1976, 81 đầu năm 1977 và lại tăng lên nhanh trên
231 đầu năm 1978. Sở dĩ có sự thay đổi như vậy là bởi vì, sau 1975, Mỹ và
Thiệu là hai kẻ thù chung lớn nhất gây áp lực nhiều cho phía Việt nam mặc dù
đại thắng Mùa xuân năm 1975 đã chấm dứt chiến tranh nhưng phía Mỹ lại phá
bỏ hiệp định Pari – ép dân ta phải di cư…Đồng thời lên án Mỹ- Thiệu về những
hành động sai trái đối với người dân Việt Nam, vạch trần bộ mặt xảo trá. Đến
năm 1976, ta tiếp tục lên án hành động Mỹ phản đối Việt nam gia nhập Liên
hợp quốc. Cho đến năm 1977, Mỹ có ý định muốn bình thường hóa quan hệ với
Việt nam và Việt Nam cũng đang suy nghĩ để đưa ra những điều khoản mong
Mỹ bồi thường cho chiến tranh, có thể vì thế mà giai đoạn này các đầu báo lên
án Mỹ đã được cắt bớt đi nhiều thay bằng các tình hình thời sự khác. Tuy nhiên,
năm 1978 khi vấn đề Mỹ chưa giải quyết ổn thỏa thì Cam-pu-chia cho quân
xâm phạm chủ quyền Việt Nam. Một lần nữa Việt Nam phải đối mặt liên tiếp
với nhiều kẻ thù, đặc biệt là được sự ủng hộ của nhân dân nhiều nước trên thế
giới nên số đầu báo lại tăng lên nhằm nhấn mạnh tội ác, sự sai trái của kẻ thù.
Đồng thời từ đây, các nguồn báo không chỉ lấy từ báo Nhân dân mà còn từ tin
Thông tấn xã Việt Nam (một hãng Thông tấn Quốc gia, trực thuộc Chính phủ
Việt Nam và là cơ quan thông tin chính thức của Nhà nước Cộng hòa xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam), Báo Liên Xô (Tạp chí Hồng Kì, Báo Mặt trận trẻ,…).
Báo Mỹ (Báo Thế giới hằng ngày. Báo Tin tức nông nghiệp Mỹ,…),…
Nguồn báo nói về kẻ thù giai đoạn 1975-1978
13%
Thông tấn xã Việt Nam
6%
Báo nhân dân - tác giả Việt
39%
3%
Báo Mỹ
2%
Báo Tiệp Khắc
Báo Liên Xô
Các báo khác
37%
Báo Nhân dân cũng cập nhật tất cả những ngòi bút của các nhà báo,
những người luôn tìm cách tiếp cận tin tức mới nhất từ quốc tế. Báo Mỹ và các
nguồn báo khác chủ yếu cung cấp thông tin về chính trị, văn hóa, kinh tế.
Tuy nhiên nếu chỉ để viết một bài báo nhiều chữ xoanh quanh các vấn đề
thường xuyên được nhắc đến sẽ dễ gây nhàm chán và rối mắt. Do đó trên một
số Báo Nhân dân thường có các thể loại như tường thuật, tin vắn, xã luận,
truyện ngắn và thậm chí là cả thơ ca, tranh ảnh.
Dưới đây là một số thể loại báo được lấy từ Báo Nhân dân về nội dung
“kẻ thù” của Việt Nam:
Mỹ luôn đưa ra những luận điệu xảo trá nhằm trốn tránh trách nhiệm của
mình về những gì đã gây ra cho nước ta. Nếu chỉ bằng ngòi bút không thì chưa
hẳn đã gây được sức ép dư luận nhưng bằng những hình ảnh mà ta đã thu được
như vậy dễ dàng làm khó Mỹ.
Hay là những bài thơ được sang tác nên nhằm châm biếm cả Pho, Mỹ,
Thiệu rằng cứ mãi đeo bám Việt Nam, âm mưu xâm lược và làm hại nước ta.
II. NỘI DUNG
1. Hình ảnh kẻ thù dưới góc độ ý thức hệ trên báo nhân dân giai đoạn
1975-1978
Năm 1975 là năm đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử Việt
Nam bằng cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi trọn vẹn, giải phóng
hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Để đạt được mục tiêu đưa nước ta
trở thành một nước Xã hội chủ nghĩa có vai trò và tầm ảnh hưởng lớn trong và
ngoài khu vực, Đảng và nhà nước ta đã luôn phấn đấu đưa Việt Nam ngày càng
hội nhập sâu rộng hơn, có thể nhận thấy rõ sự phát triển đó thông qua các kì đại
hội. Ngay từ đại hội IX đã phát triển phương châm của đại hội VII “ Việt Nam
muốn làm bạn với các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc
lập và phát triển” thành “ Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các
nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển. Việc
gạt bỏ rào cản “ý thức hệ” có cái nhìn mới hơn về quan hệ đối tác thêm “bạn”
bớt “thù” đã giúp Việt Nam ngày càng khẳng định được vị thế của mình trên
trường quốc tế. Trở lại những năm 1975- 1978 do quan niệm về “ý thức hệ” của
người Việt Nam về hình ảnh đối với các nước đế quốc đã quá sâu đậm nên
trong giai đoạn này, dù có cơ hội cho một bước ngoặt về mặt ngoại giao nhưng
Việt Nam đã đánh mất nó, vụt mất cơ hội bình thường hóa quan hệ với Mỹ cuối
những năm 1977- 1978, đây có thể xem là một bài học lịch sử quan trọng đối
với ta vì sự việc đã dẫn tới những hậu quả đáng tiếc như việc Mỹ bao vây cấm
vận ngay sau đó. Có thể thấy trong giai đoạn 1975-1978 Việt Nam luôn coi Mỹ
là kẻ thù số một, coi các nước đế quốc là những tên tay sai, bọn phản động và
chính quyền Thiệu là bọn bù nhìn thân Mỹ, việc phân định ranh giới “bạn” và
“thù” được Việt Nam vạch ra đều thông qua cái nhìn “ý thức hệ” và bị “ý thức
hệ” chi phối một cách trầm trọng.
1.1. Xét về định lượng
Biểu đồ số lượng báo viết về kẻ thù dưới góc độ ý thức hệ trên báo Nhân dân giai đoạn 1975-1978
11%
Mỹ
51%
38%
Thiệu
Các nước TBCN khác
Thông qua quá trình tổng hợp và thống kê, nhóm đã tính toán và trình bày
số liệu trong biểu đồ tròn, từ biểu đồ chúng ta có thể thấy Mỹ chiếm số lượng
báo viết về kẻ thù nhiều nhất (51%) tiếp đó là chính quyền Sài Gòn có số lượng
báo viết về kẻ thù nhiều thứ hai (38%) còn các nước Tư bản chủ nghĩa khác
chiếm tỷ lệ ít hơn (11%) Mỹ có số lương báo viết về kẻ thù gấp 51/11 lần số
lượng báo viết về kẻ thủ của các nước Tư bản chủ nghĩa khác, gấp 51/38 lần số
lượng báo viết về kẻ thù của chính quyền Thiệu. Qua những con số trên có thể
thấy rằng Mỹ luôn là kẻ thù được báo chí Việt Nam, đặc biệt trong báo nhân
dân – nguồn báo được nhóm lựa chọn để nghiên cứu, nhắc đến nhiều nhất và
tiếp đó là chính quyền Thiệu - tay sai của Mỹ, đối với các nước Tư bản chủ
nghĩa khác do sự đối lập nhau về ý thức hệ tức có cùng ý thức hệ với Mỹ nên
Việt Nam cũng luôn coi họ là kẻ thù như Mỹ.
300
250
200
150
Mỹ
100
50
0
1975
1976
1977
1978
Các nước Tư bản chủ nghĩa khác Chính quyền Sài Gòn
BIỂU ĐỒ CỘT THỂ HIỆN SỐ LƯỢNG CHỮ “THÙ” THEO Ý THỨC
HỆ TRÊN BÁO NHÂN DÂN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1975-1978
Ở biểu đồ này cho chúng ta thấy được rất rõ số lượng chữ “thù” giảm qua
các năm từ 1975-1978, từ gần 280 chữ “thù” xuống còn khoảng 80 chữ đối với
Mỹ, từ 60 tới khoảng 10 chữ “thù” đối với các nước Tư bản chủ nghĩa khác và
cuối cùng từ 124 từ giảm xuống còn không từ trong năm 1978 đối với chính
quyền Sài Gòn, và hơn thế nữa năm 1978 sau khi giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước, chính quyền Sài Gòn bị lật đổ, một kẻ thù lớn của chúng ta đã bị
loại bỏ còn lại là các nước thuộc phe Tư bản chủ nghĩa trái ngược ý thức hệ với
Việt Nam và đặc biệt nhấn mạnh kẻ thù chung của các nước Xã hội chủ nghĩa là
Mỹ, tuy nhiên cũng có thể thấy rằng số lượng chữ “thù” đối lập về ý thức hệ này
đã giảm hơn qua bốn năm cho thấy được phần nào về việc nhìn nhận kẻ thù qua
lăng kính ý thức hệ cũng giảm dần theo.
Mỹ
250
200
150
100
50
0
1975
1976
1977
1978
Mỹ
BIỂU ĐỒ ĐƯỜNG THỂ HIỆN SỐ LƯỢNG CHỮ “KẺ THÙ” THEO Ý
THỨC HỆ ĐỐI VỚI MỸ TRÊN BÁO NHÂN DÂN VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1975-1978
Qua biểu đồ đường như trên có thể nhận thấy số lượng số lượng chữ kẻ
thù theo ý thức đối với Mỹ trên báo nhân dân Việt Nam giảm dần qua bốn năm
và giảm hơn 50% ở giai đoạn 1975 – 1978. Đặc biệt giảm mạnh những năm
1976-1977 nguyên nhân là vì ta đã đánh đuổi được đế quốc Mỹ và trong năm
1977-1978 số lượng chữ “kẻ thù” bị chững lại là do ở thời điểm này Mỹ có ý
định bình thường hóa quan hệ với ta. Có thể xem xét rằng mối quan hệ giữa
Việt Nam tuy có chút khởi sắc ở giai đoạn giữa năm 1976 tuy nhiên đến giữa
những năm 1978 lại không có gì thay đổi nhiều vì vậy có thể nói ranh rới về ý
thức hệ vẫn còn trong tư tưởng cũng như đường lối xây dựng đất nước vẫn còn
khá mạnh mẽ.
1.2. Về định tính
Khi cuộc kháng chiến chống Mỹ của toàn thể nhân dân Việt Nam đã kết
thúc trong thắng lợi vẻ vang bằng hiệp định Pari được kí kết vào năm 1973 thì
cho đến đầu những năm 1975, đất nước vẫn chưa thống nhất hoàn toàn, non
sông vẫn chưa về một mối, theo hiệp định Pari, miền nam Việt Nam sẽ tạm thời
tồn tại 2 chính quyền là Cộng Hòa miền Nam Việt Nam và Việt Nam Cộng Hòa
sau đó một thời gian sẽ đi đến tổng tuyển cử thống nhất theo nguyện vọng của
nhân dân và Mỹ phải rút hết mọi dính líu và can thiệp vào đất nước Việt Nam.
Tuy nhiên, qua những trang báo Nhân dân từ giai đoạn 1975- 1978 lại phản ánh
rất rõ thực tại tình hình nước ta lúc bấy giờ, đất nước vẫn xảy ra chiến tranh vào
những tháng đầu năm 1975 và mãi đến 30 tháng 4 năm 1975 thì mới hoàn toàn
giải phóng được Việt Nam, việc kéo dài lâu như vậy nguyên nhân phần lớn là
do chính quyền Sài Gòn liên tiếp có những hành động đi ngược lại hiệp định đã
ký kết và Mỹ vẫn còn dính líu phần lớn vào nội bộ nước ta. Trước những hành
động phản động, phá hoại của chính quyền Mỹ cũng như Chính quyền Sài Gòn
cùng đường lối đối ngoại hiện thời của Đảng và Nhà nước ta đã tác động trực
tiếp về hình thức, số lượng cùng nội dung các bài đăng về “kẻ thù” hoặc những
bài báo dù là của những quốc gia khác lên tiếng vì “kẻ thù” chung của toàn dân
tộc đều được đăng tải lên báo Nhân dân, giúp cho người đọc nhận thức và định
hình về “kẻ thù” của cách mạng Việt Nam, không chỉ là một chính quyền Thiệu
mà đằng sau đó còn là một đế quốc sừng sỏ, hùng mạnh như nước Mỹ, một tên
đế quốc đầu têu can thiệp vào chủ quyền, quyền độc lập, quyền tự chủ, tự quyết
của dân tộc.
Năm 1975 Mỹ Chính quyền Sài Gòn Các nước Tư bản
chủ nghĩa khác
Quý I 43 67 15
Quý II 35 10 5
Quý III 25 6 7
Quý IV 24 4 3
BẢNG THỐNG KÊ CÁC BÀI BÁO VỀ KẺ THÙ MANG TÍNH
Ý THỨC HỆ NĂM 1975
Như đã kể trên, số lượng các bài báo đăng tải trên báo Nhân dân giai
đoạn 1975 tập trung và nhắc nhiều nhất đến kẻ thù mang tính ý thức hệ của dân
tộc Việt Nam. Đây là giai đoạn kháng chiến của miền nam Việt Nam, đang
chống lại những cuộc tấn công từ kẻ địch trực tiếp là Chính quyền Sài Gòn do
Nguyễn Văn Thiệu cầm đầu. Khi đi vào nghiên cứu hình ảnh kẻ thù mang tính ý
thức hệ trên báo Nhân dân giai đoạn này, ta dễ dàng nhận ra được, không một
sự kiện nào vắng bóng chính quyền Thiệu trong những cuộc đấu tranh của nhân
dân miền Nam, mà ẩn sau đó là một “ông trùm đế quốc” hay còn được coi như
là một nhà viện trợ giàu có cho chính quyền Sài Gòn.
Năm Mỹ Chính quyền Sài Gòn Các nước Tư bản
chủ nghĩa khác
1975 279 124 60
1976 190 70 12
1977 85 68 13
1978 84 0 11
BẢNG THỐNG KÊ CÁC BÀI BÁO VỀ KẺ THÙ MANG TÍNH Ý THỨC
HỆ GIAI ĐOẠN 1975-1978
Bước vào giai đoạn 1975 cho đến 1978, bạn đọc báo Nhân dân sẽ dễ dàng
tiếp cận được với rất nhiều thông tin về các sự kiện có thể khái quát là : “ ra sức
tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi để nhanh chóng hàn gắn những vết
thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế , phát triển văn hóa, khoa
học kỹ thuật, củng cố quốc phòng, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội ở nước ta, đồng thời tiếp tục kề vai sát cánh với các nước xã hội
chủ nghĩa, anh em và tất cả các dân tộc trên thế giới đấu tranh vì hòa bình, độc
lập dân tộc dân chủ và chủ nghĩa xã hội, chống đế quốc và đứng đầu là đế quốc
Mỹ”2. Qua đây, nhóm nghiên cứu nhận thấy rằng, dù chính quyền Sài Gòn là kẻ
thù trực tiếp và nguy hiểm của nhân dân ta, nhưng đó chỉ là những năm đầu
1975 , đến 30/4/1975 sau khi giải phóng miền nam thống nhất đất nước thì
chính quyền Thiệu đã ngày càng ít đi trên các mặt báo Nhân dân, xét về tổng
thể, không có một lực lượng nào có thể so sánh được với Mỹ, một kẻ thù dưới
góc độ ý thức hệ rất quan trọng, xuất hiện hầu như trên các trang báo, trải dài và
xuyên suốt qua cả một giai đoạn. Vì vậy, nhóm nghiên cứu xin tập trung phần
lớn vào hình ảnh của đế quốc Mỹ khi nghiên cứu về kẻ thù mang tính ý thức hệ
giai đoạn 1975-1978 2 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 43, Nxb Chính tri Quốc gia, H,2006, tr.53
1.2.1. Kẻ thù giai đoạn đầu năm 1975 đến lúc thống nhất đất nước
Vào năm 1975, sau gần 2 năm đấu tranh thi hành hiệp định Pari về Việt
Nam, được coi là hai năm đấu tranh gay gắt quyết liệt, cũng là 2 năm thắng lợi
quan trọng về mọi mặt, trên các mặt báo Nhân dân là hàng ngàn bài báo viết về
việc chống lại đường lối của đế quốc Mỹ và chính quyền Nguyễn Văn Thiệu
đang cố gắng phá hoại hiệp định hòng thực hiện chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ
ở toàn miền nam Việt Nam, trong bài báo “hai năm đấu tranh thi hành hiệp định
Pari về Việt Nam” (Báo cáo của Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ ngoại giao
Việt Nam dân chủ Cộng Hòa Nguyễn Duy Trinh trước kì họp thứ năm của
Quốc hội khóa bốn ) có viết: “ Theo sự chỉ đạo của Mỹ , tập đoàn Nguyễn Văn
Thiệu ra sức phá hoại hiệp định, chống lại hòa bình, độc lập dân chủ và hòa hợp
dân tộc… Đối với hiệp định Pari, Mỹ và chính quyền Nguyễn Văn Thiệu không
từ một thủ đoạn nào để phá hoại… Để làm thất bại âm mưu và cách hành động
của Mỹ và tập đoàn tay sai hiếu chiến ở Sài Gòn…tố cáo mọi âm mưu và hành
động của Mỹ- Thiệu phá hoại hiệp định, tố cáo những tội ác của chúng , đập tan
mọi luận điệu vu cáo , đe dọa và thủ đoạn lừa bịp…”3
Báo Nhân dân với tư cách là một phương tiện thông tin đã thực thi nhiệm
vụ truyền tải các tin tức quan trọng theo sự định hướng, kiểm duyệt của Đảng
đến người dân Việt Nam. Tường thuật khá sâu và sát các sự kiện, diễn biến
cũng như những ý kiến, quan điểm của các vấn đề trong nước cũng như quốc tế
này, các nội dung của các tờ báo hầu như chỉ đích danh rõ ràng Mỹ và Thiệu là
kẻ thù chính trong mọi hoạt động của toàn thể đất nước. Điều này được phản
ánh qua rất nhiều bài báo, điển hình là một số bài báo như bài báo được viết với
tiêu đề “Thiệu, tên hiếu chiến láo xược”- được đăng trên báo Nhân dân tháng
1/1975, trong đó trích các lời lẽ của Thiệu và qua bài viết, ta nhận định Thiệu là
một tên hiếu chiến, láo xược, là một “thằng tay sai” của Mỹ, hay trong bài
3 “Hai năm đấu tranh thi hành hiệp định Pari về Việt Nam”, báo Nhân dân số 7568 ngày 21/1/1978
“Kiên quyết chống kế hoạch bình định của Mỹ - Thiệu” có ghi : “ Chống địch
“bình định” là một cuộc đấu tranh quyết liệt, lâu dài, gian khổ và phức tạp”4.
Qua đó có thể thấy rõ vào đầu năm 1975, kẻ thù ý thức hệ lúc này được xác
định rõ ràng và xuất hiện tràn trên các đầu báo là Mỹ và Chính quyền Sài Gòn
Bên cạnh đó, từ đầu tháng 1 năm 1975 đến tháng 4 năm 1975, vì nhân
dân miền nam Việt Nam vẫn phải tiếp tục kháng chiến chống chính quyền Sài
Gòn nên việc cập nhật thông tin về một miền nam toàn diện lúc này là rất cần
thiết, một phần để cho người đọc nắm bắt được tình hình diễn biến xảy ra ở các
tỉnh miền nam, ví dụ như: Còn bao nhiêu đồn địch và quân lính của chính quyền
Sài Gòn ở các tỉnh miền nam?, một phần để nhấn mạnh và làm rõ những thủ
đoạn của chính quyền Thiệu, nêu được âm mưu xấu xa của chúng hay sâu xa
hơn là Mỹ và báo Nhân dân vào thời điểm này đã cập nhật rất sát sườn về tình
hình tại miền nam, đã giúp người đọc có một cái nhìn rất toàn cảnh về nó, các
thông tin về những sự kiện đấu tranh, quân lính, bắn địch được đặt trong các bài
báo với tiêu đề rất rõ ràng : “MIỀN NAM” , “ san bằng, bức rút, loại khỏi vòng
4 “ Kiên quyết chống kế hoạch bình định của Mỹ- Thiệu”, Lưu Phương Thanh, báo Nhân dân số 7456, ngày 9/1/1975
chiến đấu, tiêu diệt hàng ngàn tên địch…”
HÌNH ẢNH MINH HỌA CHO BÀI VIẾT TRÊN BÁO NHÂN DÂN KHI
ĐƯA TIN VỀ TÌNH HÌNH MIỀN NAM VIỆT NAM
Diễn biến tình hình ở Miền Nam Việt Nam đã được báo Nhân dân truyền
tải rất chân thật và đầy đủ. Với những nội dung như thế, ta hoàn toàn có thể thấy
được một bộ mặt của bọn phản động tay sai thân Mỹ - Chính quyền Thiệu,
chúng đã không chấp hành nghiêm chỉnh hiệp định Pari, chống phá quyết liệt,
vẫn tiếp tục khơi mào chiến tranh và giết hại rất nhiều nhân dân miền nam Việt
Nam, một chính quyền như thế, không khó hiểu vì sao “chúng” vẫn luôn luôn là
kẻ thù trong mắt người dân Việt Nam, một kẻ thù điển hình về ý thức hệ của
toàn dân tộc.
Bên cạnh chính quyền Thiệu, không thể không nhắc đến chính quyền
Pho, bởi vì chính sự hiện diện của Mỹ tại Việt Nam mới là cơ sở cho sự hung
hăng và hiếu chiến của Chính quyền Thiệu, nguồn vũ khí, nguồn kinh phí của
Thiệu là từ đâu? Theo như người Mỹ, thì chỉ có chính quyền Pho của Mỹ mới
thực hiện được chính sách “cha chiều con mù quáng” với Thiệu. Trong bài báo
vào tháng 1/1975 “Chính quyền Pho tiếp tay cho Thiệu gây tội ác” có viết: “Rõ
ràng Mỹ đang tiếp tục nhúng bàn tay tộc ác vào miền Nam nước ta. Bằng chứng
không thể chối cãi là chính quyền Pho đang tìm cách tăng cường dính líu và
can thiệp, tiếp tay cho bọn Thiệu kéo dài và đẩy mạnh chiến tranh, chà đạp thô
bạo hiệp định Pari. Rõ ràng Mỹ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về tình hình
nghiêm trọng ở miền Nam do chúng ngoan cố tiếp tục chính sách “Việt Nam
hóa chiến tranh” hòng áp đặt chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam nước
ta…Mỹ phải chấm dứt ngay, hoàn toàn và triệt để mọi dính líu quân sự và can
thiệp vào công việc nội bộ miền nam Việt Nam, thi hành nghiêm chỉnh hiệp định
Pari.”5 Theo như điều 4 chương II Hiệp định về chấm dứt chiến tranh lập lại
hòa bình ở Việt Nam được kí kết giữa 4 bên có ghi: “Hoa Kỳ sẽ không tiếp tục
dính líu quân sự hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam”6
Dù đã kí kết như thế nhưng đế quốc Mỹ vẫn tiếp tục tiếp tay cho chính quyền
Thiệu, ngăn cả, phá hoại hiệp định Pari, nhưng “nhân dân Việt Nam có một
lòng nồng nàn yêu nước” nhân dân ta vẫn đoàn kết, vẫn kiên cường đấu tranh,
vẫn cùng nhau chống kẻ thù xâm lược. Báo Nhân dân đã thể hiện rất tốt sự ủng
hộ của mình đối với cách mạng miền nam Việt Nam, đã vạch trần, lên án, chỉ
trích các hoạt động câu kết, phá hoại giữa Mỹ và Chính quyền Sài Gòn, cụ thể
như: Báo Nhân dân số 7572 ngày 25/1/1975 có đăng trong bài “Đằng sau những
con số này là máu, mồ hôi, nước mắt nhân dân”, ghi rằng: “Chúng đã ném vào
ngân sách chiến tranh năm 1975: dự chi 993 tỷ, chúng vét thuế năm 1975: dự
thu 372 tỷ”7. Bằng cách công bố và đăng tải những con số cụ thể như vậy, báo
5 “Chính quyền Pho tiếp tay cho Thiệu gây ra tội ác”, báo Nhân dân số 7558 ngày 11/1/1975 6 “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam”, NXb Chính trị quốc gia sự thật, 2012 7 “Đằng sau những con số này là máu, mồ hôi, nước mắt nhân dân”, báo Nhân dân số 7572 ngày 25/1/1975
Nhân dân đã vạch trần được âm mưu chiến tranh cũng như thủ đoạn tàn bạo của
chính quyền Thiệu, vơ vét, moi tiền từ nhân dân , khiến cho nhân dân miền nam
Việt Nam ngày càng có cuộc sống khổ cực
Báo nhân dân số 7585 ngày 7/2/1975 với tiêu đề: “Lên án Mỹ và tập đoàn
Nguyễn Văn Thiệu tăng cường chiến tranh” viết “..Mấy ngày qua, tổng thống
Mỹ Giê-rôn Pho và bộ trưởng Bộ ngoại giao Mỹ kít-xing-giơ đã ra sức vu cáo
Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa và Chính Phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền
nam Việt Nam vi phạm hiệp định Pari nhằm phục vụ chiến dịch lừa bịp dư luận,
thúc ép quốc hội Mỹ tăng thêm viện trợ quân sự cho tập đoàn Nguyễn Văn
Thiệu để đẩy mạnh và kéo dài chiến tranh ở miền nam Việt Nam. .. Ngày 5/2,
người phát ngôn Bộ ngoại giao Viêt Nam Dân chủ Cộng hòa miền nam Việt
Nam ra tuyên bố nghiêm khắc lên án những hành động tăng cường chiến tranh
nói trên của Mỹ và tập đoàn Nguyễn Văn Thiệu, đòi chính phủ Mỹ phải chấm
dứt hoàn toàn dính líu quân sự và can thiệp vào công việc nội bộ của miền nam
Việt Nam, chấm dứt ngay mọi viện trợ quân sự cho tập đoàn Nguyễn Văn
Thiệu, phải chấm dứt ngay mọi hành động chiến tranh phá hoại hiệp định,
chấm dứt việc bắt lính , đôn quân và mọi hành động đàn áp đối với báo chí”8
Báo nhân dân số 7586 ngày 8/2/1975 “Lên án Mỹ- Thiệu tăng cường
chiến tranh” viết “ Người phát ngôn Bộ ngoại giao Cộng hòa miền Nam Việt
Nam ra tuyên bố tố cáo tổng thống Mỹ Giê-rôn Pho chính thức yêu cầu quốc
hội Mỹ thông qua 300 triệu đô la viện trợ quân sự bổ sung tài khóa 1974-1975
và đưa ra dự luật viện trợ quân sự 1,3 tỷ đô la tài khóa 1975- 1976 cho chính
quyền Thiệu.”9
Qua những bài báo trên ta thấy rằng đế quốc Mỹ đang xen chân vào tình
hình Việt Nam, còn viện trợ về mặt tài chính cho chính quyền Sài Gòn để có thể
thực hiện được những mục đích, âm mưu và ý đồ xấu xa của chúng đối với
nước ta. Báo Nhân dân bằng cách tường thuật lại đơn giản những sự việc ấy
cũng đã góp phần vào việc vạch trần rõ bộ mặt xấu xa của chính quyền Pho- 8 “Lên án Mỹ và tập đoàn Nguyễn Văn Thiệu tăng cường chiến tranh”, báo Nhân dân số 7585 ngày 7/2/1975 9 “Lên án Mỹ- Thiệu tăng cường chiến tranh”, báo Nhân dân số 7586 ngày 8/2/1975
chính là kẻ tiếp tay, luôn ngoan cố theo đuổi chính sách Việt Nam hóa chiến
tranh, luôn có âm mưu chiến tranh và dính líu lâu dài ở miền nam Việt Nam.
Bên cạnh đó, bằng việc đăng tải những thông tin đáng tin cậy như vậy, báo nhân
dân còn góp phần vào việc tăng thêm dư luận tố cáo đế quốc Mỹ và bè lũ tay
sai, góp phần vào việc kêu gọi sự đồng tình, ủng hộ của các nước xã hội chủ
nghĩa cũng như các nước khác vào công cuộc ủng hộ Việt Nam chống Mỹ, bảo
vệ đất nước.
Ngoài ra, báo Nhân dân cũng đăng tải những phát ngôn chính thức của
Bộ ngoại giao nước ta đối với những sự kiện này, trong bài viết “Bộ Ngoại giao
ta nghiêm khắc lên án hành động của Mỹ tăng cường chiến tranh, đưa trái phép
nhân viên không quân Mỹ vào miền nam Việt Nam” báo Nhân dân số ngày
9/2/1975 có viết “Đây là một bước phá hoại mới, cực kỳ nghiêm trọng của Mỹ
đối với Hiệp định Pari về Việt Nam, đặc biệt là điều 5 và điều 7 của hiệp định
đã nghiêm cấm việc đưa nhân viên quân sự Mỹ và dụng cụ chiến tranh vào
miền Nam Việt Nam. Hành động này của Mỹ thách thức trắng trợn nhân dân
Việt Nam…Chính phủ Mỹ phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về mọi hậu quả do
những hành động phá hoại hiệp định của họ gây ra.”10 Bằng việc đưa ngay
tuyên bố của Bộ ngoại giao nước ta lên tiêu đề báo, báo Nhân dân đã nhấn mạnh
hơn nữa quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trước hành động của chính quyền
Pho, nhận định một nước đế quốc Mỹ vi phạm trắng trợn hiệp định Pari, từ đó
đưa ra sự lên án, phản đối mạnh mẽ.
Bên cạnh những bài báo luận tội, lên án của báo Nhân dân thì trong giai
đoạn này, Báo Nhân dân cũng đã trích các bài báo của các quốc gia khác cùng
là mục đích phản đối, đòi lại sự công bằng cho đất nước ta, lên án và chỉ trích
hành động xâm lược của đế quốc Mỹ, lên tiếng phản đối, đề nghị Mỹ ngừng
ngay những hành động của mình ở miền nam Việt Nam. Trong đó có cả báo của
10 “Bộ Ngoại giao ta nghiêm khắc lên án hành động của Mỹ rang cường chiến tranh, đưa trái phép nhân viên không quân Mỹ vào miền nam Việt Nam”, báo Nhân dân số 7587 ngày 9/2/1975
Mỹ về những phản đối trong dư luận của người Mỹ, những phản đối gay gắt của
công dân Mỹ về hành động của chính quyền Mỹ mà ở đây là chính quyền Pho.
Bằng việc liệt kê cụ thể các bài báo từ nhiều nguồn, nó càng thể hiện được
những hành động của chính quyền Pho là hoàn toàn sai trái, đi ngược lại với ý
kiến, dư luận thế giới. Nó được thể hiện rất rõ qua những bài báo như: Báo
Nhân dân số 7581 ngày 3/2/1975 “ Thế giới ủng hộ nhân dân ta đấu tranh đòi
Mỹ-Thiệu thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Pari”, báo Nhân dân số 7583 ngày
5/2/1975 “Thế giới đoàn kết với Việt Nam chống Mỹ-Thiệu phá hoại hiệp định
Pari”, báo Nhân dân số 7590 ngày 13/2/1975 “82 nghị sĩ Mỹ gửi thư đòi tổng
thống Pho chấm dứt viện trợ quân sự cho Thiệu là Lon Non”, báo Nhân dân số
7551 ngày 4/1/1975 “Phong trào nhân dân Mỹ chống chiến tranh chuẩn bị họp
đại hội để đấu tranh đòi chính quyền Pho thi hành nghiêm chỉnh hiệp định Paris
về Việt Nam” …
Song song với những bài viết, không thể không nhắc đến tranh biếm họa
mà báo Nhân dân đăng tải khi nói về “kẻ thù” Mỹ hay chính quyền Sài Gòn do
Nguyễn Văn Thiệu cầm đầu.
Đây là một số bức ảnh của các tác giả Nguyễn Mạnh Hùng, Phạm Trung
Miên và Lương Khôi được đăng trên báo Nhân dân với những nhan đề khác
nhau nhưng nhìn chung, nội dung của các bức ảnh đều phản ánh “quan hệ” giữa
Mỹ và Thiệu trong cuộc đấu tranh ở miền nam Việt Nam, cả 3 bức ảnh đều là
hình ảnh về Pho, riêng bức thứ 3 thì có thêm Kít-xing-giơ, là những người đang
đứng đầu bộ trong cơ quan chính phủ, chính quyền Mỹ lúc bấy giờ, với hình
ảnh một người luôn hò hét kêu gọi viện trợ cho Thiệu, những bức ảnh đều muốn
chỉ ra rằng đế quốc Mỹ mới chính là tên đạo diễn đằng sau những hành động
của chính quyền Thiệu, chính quyền Pho mới là kẻ xúi giục và đang vi phạm
trắng trợn những điều khoản họ đã ký ở hiệp định Pari
Ngoài những bức tranh biếm họa, báo Nhân dân giai đoạn này còn có
thêm rất nhiều thể loại, hình thức đăng tin khác để lên án và phản ánh ý nghĩ
của người dân về vấn đề miền nam Việt Nam, về cách họ nhìn nhận “kẻ thù”
dân tộc- chính quyền Sài Gòn và đế quốc Mỹ.
Gây chú ý nhất là chuyên mục chuyện thời sự được đăng ở cuối mỗi tờ
báo Nhân dân, nó được viết theo dạng những mẩu chuyện nhỏ nhưng rất thâm
thúy và làm bật lên được ai là kẻ thù ý thức hệ giai đoạn này một cách rất rõ
ràng.
Ngoài ra, còn có những bài thơ được đăng lên báo Nhân dân, cũng thể
hiện hình ảnh kẻ thù mang tính ý thức hệ của nhân dân ta, cụ thể như:
NHỮNG BÀI THƠ ĐĂNG TRÊN BÁO NHÂN DÂN VỀ KẺ THÙ
1.2.2. Kẻ thù từ sau khi thống nhất đất nước đến hết năm 1978
Sau khi giải phóng miền nam ngày 30/4/1975 , chính quyền Nguyễn Văn
Thiệu bị xóa sổ, đất nước thống nhất, Việt Nam bước vào thời kỳ xây dựng chủ
nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Bắt đầu từ thời điểm này, chỉ còn Mỹ là kẻ
thù mang tính ý thức hệ xuất hiện trên mặt báo Nhân dân.
Sau khi thống nhất đất nước, tập trung xây dựng và phát triển kinh tế,
Việt Nam cố gắng và nỗ lực, tham gia vào các tổ chức quốc tế, tiêu biểu là Liên
Hợp Quốc. Báo Nhân dân thời kì này đã tập trung đưa tin, phản ánh chân thật
nhất sự khó khăn của ta khi gia nhập vào Liên Hợp Quốc trước sự chống đối
của đế quốc Mỹ. Trong một bài xã luận được đăng trên báo Nhân dân số 8828
ngày 17/11/1976 “Càng ngoan cố đế quốc Mỹ càng cô lập và thất bại” có viết:
“Trong cuộc bỏ phiếu ngày 15/11, Mỹ lại một lần nữa lạm dụng quyền phủ
quyết chống lại ý muốn của 14 thành viên khác của hội đồng bảo an, ngăn cản
nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam trở thành hội viên Liên hợp
Quốc…Dân tộc Việt Nam là một dân tộc anh hùng. Sự nghiệp của nhân dân
Việt Nam sáng ngời chính nghĩa…chống lại đế quốc Hoa Kỳ, kẻ thù chung của
nhân loại. Thật là trơ tráo và thảm hại cho đại sứ Mỹ ở Liên hợp quốc dám mở
miệng nói Việt Nam không đủ tiêu chuẩn nhân đạo để vào Liên hợp quốc! Giữa
chúng ta, những người hy sinh chiến đấu để giải phóng mình và góp phần giải
phóng các dân tộc khỏi ách chủ nghĩa thực dân và bè lũ cướp nước Hoa Kỳ, ai
nhân đạo, ai dã man…Hỡi những kẻ ngồi ở Nhà trắng và Lầu năm góc đang cả
gan tự xưng là “văn minh” và chớ quên rằng từ sau bọn Đức quốc xã ở Nua-
răm-be, bè lũ các người là những kẻ duy nhất vì cuộc chiến tranh ăn cướp ở
Việt Nam, đã bị nhân dân thế giới liên tiếp lôi ra trước tòa án dư luận xét xử tội
phạm chiến tranh…”11
Qua những bài viết được đăng tải trên báo Nhân dân như trên ta càng
thấy rõ được kẻ thù đối với đất nước ta lúc bấy giờ vẫn là đế quốc Mỹ. Mỹ tìm
mọi cách ngăn cản ta tham gia Liên Hợp Quốc và luôn sử dụng quyền phủ quyết
đối với Việt Nam. Bằng cách đăng tải những bài báo như trên, báo Nhân dân đã
phần nào thể hiện được sự bức xức của Việt Nam,Việt Nam coi Hoa Kỳ là “kẻ
thù chung” của nhân loại, là “lũ cướp nước” là “những kẻ ngồi ở Nhà trắng và
Lầu năm góc” .
Bên cạnh những bài xã luận, báo Nhân dân cũng đăng tải những bài viết
của người dân như bài viết trên báo Nhân dân số 8229 ngày 18/11/1976 của
Phạm Giảng, một luật gia với tiêu đề “Thái độ sai trái của Mỹ”, trong bài có viết
như sau: “…Như vậy, về mặt chính trị cũng như về mặt pháp lý Việt Nam thật
có đầy đủ điều kiện để gia nhập Liên Hợp Quốc. ..dư luận chung tại Liên hợp
quốc một lần nữa, lên án mạnh mẽ chính quyền Mỹ đã lạm dụng quyền phủ
quyết chống lại việc gia nhập của Việt Nam…Đế quốc Mỹ thêm một lần nữa bị
cô lập và thất bại thảm hại. Tuy nhiên, họ đã lạm dụng quyền phủ quyết một
cách trắng trợn và tạm thời ngăn chặn Việt Nam vào Liên hợp quốc. Đây là
món nợ mà đế quốc Mỹ sớm muộn phải thanh toán cho Việt Nam. Trước sau
11 “Càng ngoan cố đế quốc Mỹ càng thất bại”, báo Nhân dân số 8828 ngày 17/11/1976
Việt Nam nhất định cũng giành được địa vị xứng đáng của mình tại tổ chức
Liên hợp quốc”12 Báo Nhân dân đã cho ta cái nhìn toàn diện hơn về việc nhìn
nhận của người dân về vấn đề giữa ta và Mỹ, bằng cách đăng tải những bài báo
như vậy thể hiện rõ ý thức của nhân dân ta lúc này, cách nhìn nhận của người
dân Việt Nam đối với hành động của đế quốc Mỹ. Qua đó, chúng ta càng có thể
thấy rõ hơn kẻ thù mang tính ý thức hệ giai đoạn này hiển nhiên không ai khác
ngoài Mỹ.
Trong các bài báo được thống kê dựa vào tiêu chí đánh giá theo ý thức hệ
vào giai đoạn 1975-1978 này, toàn bộ các bài đều chứa từ khóa “Bọn xâm
lược”, “Kẻ thù”, “Bè lũ Mỹ- Ngụy”, “Chính quyền tay sai Nguyễn Văn Thiệu”,
“Đế quốc Mỹ và tay sai”, “Tập đoàn tay sai phát xít hiếu chiến Nguyễn Văn
Thiệu”. Qua đó, báo Nhân dân đã phần nào phản ánh được hình ảnh kẻ thù
mang tính ý thức hệ giai đoạn 1975-1978. Sự phản ánh hình ảnh của kẻ thù
trong giai đoạn này trên báo Nhân dân khiến cho nhóm nghiên cứu nhận ra hai
vấn đề: thứ nhất, về góc độ thông tin sự thật được phản ánh, hình ảnh kẻ thù tập
trung vào hầu hết là Mỹ, xuyên suốt trong cả giai đoạn, Mỹ luôn nổi lên với một
hình ảnh là một tên đế quốc hiếu chiến, với dã tâm xấu xa, hành động phá hoại
đối nghịch lại với hiệp định Pari, can thiệp trắng trợn vào tình hình nước ta. Tuy
nhiên, ở góc độ thứ hai, đó là về vấn đề tuyên truyền báo chí. Báo Nhân dân đã
phản ánh quan điểm của Đảng và nhà nước ta khi nhìn nhận kẻ thù. Và không
khó để nhận ra rằng, ý thức hệ vẫn chi phối phần lớn tư duy phân định bạn thù
của chúng ta.
1.2.3. Có hay không cơ hội bình thường hóa quan hệ giữa Mỹ với Việt
Nam dựa trên thông tin của báo Nhân dân giai đoạn 1975-1978
Giai đoạn 1975-1978 là một giai đoạn quan trọng về mặt quan hệ ngoại
giao giữa Việt Nam với các nước có cùng ý thức hệ và các nước tư bản chủ
nghĩa vì trong năm 1975 Việt Nam đã đánh đuổi được đế quốc Mỹ ra khỏi bờ
cõi và ngay sau đó ba tháng là giành chính quyền từ tay Thiệu, giải phóng miền
12 “Thái độ sai trái của Mỹ”, báo Nhân dân số 8229 ngày 18/11/1976
Nam thống nhất đất nước, từ đó đem lại độc lập hoàn toàn cho nhân dân ta. Cả
trong thời kì chiến tranh của hai nước cũng như trong thời bình, nhân dân tiến
bộ Mỹ cho đến các quan chức của Mỹ vẫn luôn có những thái độ và hành động
ủng hộ Việt Nam. 13Năm 1977, Jimmy Carter lên làm Tổng thống đã có ý muốn
mở ra quan hệ với ta. Ông cứ đặc phái viên Leonard Woodcock đi Hà Nội gặp
lãnh đạo ta và Thứ trưởng ngoại giao hai nước đã ba lần gặp nhau ở Paris bàn
việc bình thường hóa quan hệ. Ngay trong cuộc gặp lần thứ nhất vào tháng
5/1977, trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ về Đông Nam Á – Thái Bình Dương
Richard Holdbrooke đã đưa ra đề nghị hai nước bình thường hóa quan hệ không
điều kiện14. Tuy nhiên trong giai đoạn này, Việt Nam đang bị chi phối sâu sắc
bởi ranh giới ý thức hệ về quan niệm một bên là Xã hội chủ nghĩa và một bên là
Tư bản chủ nghĩa, do vậy ta vẫn cho Mỹ là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất
vẫn luôn có ý đồ muốn thôn tính nước ta và không quan tâm đến việc bình
thường hóa quan hệ với Mỹ, ta luôn đòi hỏi điều kiện về việc Mỹ phải thi hành
điều 21 của hiệp định Paris về Việt Nam, thực chất là đòi Mỹ bồi thường chiến
tranh, một điều mà một siêu cường không thể nào chấp nhận được.Vì vậy ta đã
bỏ lỡ cơ hội bình thường hóa quan hệ với Mỹ năm 1977, cho đến tháng 10/1978
khi ta rút bỏ điều kiện thi hành điều 21, hai nước thỏa thuận về nguyên tắc và
chuẩn bị thiết lập quan hệ thì nhân tố Trung Quốc xen vào, từ đó quá trình đi tới
thiết lập quan hệ ngoại giao Việt – Mỹ càng trở nên phức tạp và khó khăn hơn.
Đi sâu vào vấn đề Việt Nam đã bỏ lỡ cơ hội bình thường hóa quan hệ với
Mỹ như thế nào, nhóm nghiên cứu đã dựa trên báo nhân dân Việt Nam giai
đoạn 1975-1978 để phân tích cụ thể đi lần lượt trên các bài viết tiêu biểu qua
các năm.
Ở trong cả hai giai đoạn, thời chiến và sau khi đánh đuổi Mỹ thì chúng ta
đều nhận thấy rằng nhân dân tiến bộ nước Mỹ lại ủng hộ nước ta và luôn phê
13 Chính sách đối ngoại Việt Nam tập II 1975-2006, Học viện quan hệ quốc tế, T.S Nguyễn Vũ Tùng 14 Xem Brother Enemy của Nayan Chanda và Second Chance của Frederick Z. Brown; những tin tức tôi nghe được từ những người bộ trưởng trong Bộ phù hợp những thông tin này.
phán hành động đưa quân xâm lược Việt Nam cụ thể là trong một bài viết trên
báo nhân dân có tựa đề “Giúp đỡ Việt Nam” trích “ Những người Mỹ tiến bộ
trước đây nhiệt tình ủng hộ cuộc chiến đấu của nhân dân ta chống đế quốc Mỹ
xâm lược, nay lại nhiệt tình giúp đỡ ta hàn gắn vết thương chiến tranh, xây
dựng cuộc sống mới. Dưới khẩu hiệu chúng ta đã làm đau khổ quá nhiều trong
một thời gian dài, tổ chức giúp đỡ y tế cho Việt Nam ở Mỹ đã phát truyền đơn (
ảnh dưới ) tố cáo tội ác của đế quốc Mỹ ở Việt Nam và kêu gọi nhân dân giúp
đỡ nạn nhân chiến tranh. Năm 1972, sau khi giặc Mỹ dùng máy bay B.52 ném
bom Hà Nội, hưởng ứng lời kêu gọi nhân dân giúp đỡ khẩn cấp cho bệnh viện
Bạch Mai để cứu chữa những nạn nhân của “ cuộc ném bom nhục nhã” trong
ngày lễ Noel 1972. Nhân dân ta cảm ơn những người Mỹ đã nhiệt tình giúp đỡ
Việt Nam.”15
HÌNH ẢNH TRUYỀN ĐƠN CỦA TỔ CHỨC GIÚP ĐỠ Y TẾ VỚI KHẨU
HIỆU KHẨU HIỆU CHÚNG TA ĐÃ LÀM ĐAU KHỔ QUÁ NHIỀU
15 Báo Nhân dân Việt Nam năm 1976
TRONG MỘT THỜI GIAN DÀI
Thông qua bài báo này chúng ta vẫn có thể thấy rõ được tính chất thù
địch của người Việt Nam đối với Mỹ cụ thể ta gọi Mỹ là “đế quốc xâm lược”
hay “giặc Mỹ”, tuy nhiên Việt Nam vẫn luôn tiếp nhận sự giúp đỡ của người
dân Mỹ trong mọi hoàn cảnh và không hề có sự phân biệt.
Nhân dân Mỹ vẫn luôn luôn ủng hộ Việt Nam mọi nơi trên toàn thế giới,
thậm chí còn kêu gọi chính phủ Mỹ bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, cụ
thể như trong bài viết “ Tổ chức những người Mỹ ở Pháp đòi chính phủ Mỹ
bình thường hóa quan hệ với Việt Nam”, nhân dân Mỹ tại Pháp đã lên tiếng
bằng tổ chức họp báo kêu gọi chính quyền Ca- tơ ân xá cho những thanh niên
và binh sĩ Mỹ chống chiến tranh xâm lược Việt Nam và hiện tại đang biểu tình
tại Việt Nam. Bản tuyên bố viết: “ Chúng tôi kêu gọi dư luận Mỹ và thế giới
buộc chính phủ Mỹ phải ra lệnh ân xá hoàn toàn và không điều kiện; công nhận
và góp phần xây dựng lại ba nước Đông Dương”16 thông qua sự kiện này càng
thấy rõ ý muốn bình thường hóa quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam của nhân dân
Mỹ và điều này hoàn toàn là sự thúc đẩy đối với chính phủ Mỹ dần dần đi tới
tiến trình bình thường hóa hơn mối quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ sau này.
Công dân Mỹ đã phần nào đóng góp vào sự thúc đẩy mối quan hệ Việt
Nam và Mỹ, trong giai đoạn 1975-1976 cho đến năm 1977 một bài viết trên báo
nhân dân với tiêu đề như sau “ Thượng nghị sĩ E. Ken – nơ – đi đòi bình thườn
hóa quan hệ với Việt Nam” đây là một dấu mốc vô cùng lớn đối với sự phát
triển của mối quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ trong giai đoạn này cụ thể bài báo
viết như sau: “ Theo tin từ Mỹ, phát biểu ý kiến trong phiên họp thượng viện Mỹ
ngày 25/5 thượng nghị sĩ E. Ken – nơ – đi đòi chính quyền Ca – tơ bình thường
hóa quan hệ với Việt Nam. Thượng nghị sĩ E. Ken – nơ – đi nói: “ Đã ba năm
sau khi thất bại ở Việt Nam, Mỹ vẫn chưa có quan hệ ngoại giao với nước này.
Mỹ vẫn duy trì lệnh cấm buôn bán với Việt Nam và khước từ việc giúp đỡ chính
thức Việt Nam. Tôi hy vọng hai bên sẽ có những nỗ lực mới thiết lập quan hệ
16 Thông tấn xã Việt Nam tại Paris, Báo Nhân dân Việt Nam năm 1977
bình thường bao gồm cả việc đặt các đại sứ quán ở Hà Nội và Oa – shin – ton,
bãi bỏ lệnh cấm buôn bán và đóng góp vào công cuộc xây dựng lại nhân dân
Việt Nam sau chiến tranh.”17
Bài phát biểu này là một bài phát biểu vô cùng quan trọng đối với Việt
Nam lúc bấy giờ bởi lẽ sau khi kết thúc chiến tranh Việt Nam đã bị tổn thất rất
nặng nề hơn nữa và cũng trong giai đoạn này chiến tranh biên giới xảy ra làm
cho mối quan hệ Trung Quốc, Campuchia và Việt Nam không được tốt đẹp nên
Việt Nam càng rơi vào tình trạng khó khăn hơn. Qua bài viết này, chúng ta có
thể nhận thấy rất rõ thiện chí và mong muốn từ phía Mỹ về việc bình thường
hóa quan hệ đối với Việt Nam, bãi bỏ lệnh cấm buôn bán và đóng góp vào công
cuộc xây dựng lại nhân dân Việt Nam sau chiến tranh. Đặc biệt hơn nữa, Ông E.
Ken – nơ – đi còn nhắc đến việc đặt đại sứ quán tại Hà Nội và Oa – shin – ton.
Có thể thấy người Mỹ muốn cải thiện quan hệ với Việt Nam như thế nào, tuy
nhiên sau đó phía Việt Nam không hề có động tĩnh gì cho tới cuối năm 1978. Vì
vậy có thể nhận xét rằng Việt Nam đã bỏ lỡ một cơ hội lớn trong việc thúc đẩy
mối quan hệ giữa hai nước Việt Nam và Mỹ mà nguyên nhân chủ yếu cho sự bỏ
lỡ cơ hội đáng quí này cho cùng cũng là do quan niệm ý thức hệ của Việt Nam
lúc đó quá lớn, luôn coi Mỹ là kẻ thù không có thiện chí mà chỉ có ác ý. Có thể
lời đề nghị mà ngài nghị sĩ E. Ken – nơ – đi đưa ra trong bài phát biểu phía ta
cũng sẽ đánh giá nó ẩn chứa nhiều hàm ý sâu sắc có thể gây nguy hiểm cho Việt
Nam qua lăng kính ý thức hệ. Đây là một lỗ hổng vô cùng lớn và cũng là một
điểm thiếu sót của Việt Nam lúc bấy giờ. Chính ý thức hệ đã chi phối những
hành động cũng như định hướng của ta và làm mất đi cơ hội bình thường hóa
sau này để phía Trung Quốc nhảy vào.
2. Hình ảnh kẻ thù dưới góc độ lợi ích quốc gia trên báo Nhân dân giai
đoạn 1975-1978
Khái niệm lợi ích dân tộc có nội hàm rộng, bao hàm trong đó tất cả những
gì tạo thành điều kiện cần thiết cho sự trường tồn của cộng đồng với tư cách
17 Thông tấn xã Việt Nam, Báo nhân dân 1978
quốc gia dân tộc có chủ quyền, thống nhất, độc lập, lãnh thổ toàn vẹn; cho sự
phát triển đi lên về mọi mặt của quốc gia dân tộc theo hướng làm cho đời sống
vật chất và tinh thần của cộng đồng ngày càng phong phú, tốt đẹp hơn; cho sự
nâng cao không ngừng sức mạnh tổng hợp quốc gia, năng lực cạnh tranh quốc
gia trên trường quốc tế, vị trí, vai trò, uy tín quốc tế của quốc gia dân tộc. Các
dân tộc trên thế giới đều coi lợi ích căn bản nhất của dân tộc là Tổ quốc độc lập,
thống nhất, giàu mạnh, toàn vẹn lãnh thổ (bao gồm vùng đất, vùng trời, vùng
biển, hải đảo, thềm lục địa), nhân dân làm chủ đối với Tổ quốc mình.
Lợi ích dân tộc không bất biến mà thay đổi theo hoàn cảnh cụ thể. Có
những yếu tố mang giá trị lâu dài, vĩnh cửu. Có những yếu tố chỉ tồn tại trong
giai đoạn nhất định. Trong mỗi thời kỳ tồn tại, phát triển của dân tộc, có một
hoặc một số vấn đề nổi bật lên. Trong thời kỳ đất nước bị ngoại xâm thì lợi ích
tối cao của dân tộc là giải trừ nạn ngoại xâm, đấu tranh giải phóng dân tộc.
Trong bối cảnh dân tộc đứng trước xu thế tất yếu của một cuộc cách mạng xã
hội, giải phóng nhân dân khỏi cảnh áp bức, tối tăm của chế độ xã hội đã lỗi thời,
đồng thời mở đường cho đất nước phát triển đi lên, thì lợi ích cách mạng chính
là lợi ích cao nhất, trực tiếp nhất của dân tộc. Đối với các nước đang phát triển,
chậm phát triển, lợi ích giải phóng xã hội (bao hàm giải phóng sức sản xuất) và
lợi ích giải phóng dân tộc gắn bó chặt chẽ với nhau. Nếu vấn đề giải phóng dân
tộc chưa được giải quyết căn bản thì lợi ích giải phóng dân tộc phải được đặt lên
hàng đầu. Vấn đề độc lập dân tộc đã căn bản được giải quyết thì lợi ích dân tộc
thể hiện tập trung ở nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa đi đôi với từng
bước xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Việc xác định đối tượng, đối tác là tương đối “nhạy cảm” trong quan hệ
quốc tế. Tuy nhiên, không phải vì thế mà chúng ta né tránh, để rồi rơi vào trạng
thái mơ hồ, mất cảnh giác, mất tính chiến đấu và khó có thể vạch ra chủ trương,
sách lược, chiến lược đúng đắn trong bảo vệ Tổ quốc. Thực tế, xác định đối
tượng - đối tác là một trong những nội dung căn bản nhất trong chiến lược bảo
vệ Tổ quốc. Do đó, vấn đề đối tượng, đối tác vừa qua đã được Trung ương
Đảng ta khẳng định rõ: “Vận dụng đúng đắn quan điểm về đối tác, đối tượng:
Những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị,
hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác; bất kỳ thế lực nào
có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng của chúng ta. Mặt khác, trong tình
hình diễn biến nhanh chóng và phức tạp hiện nay, cần có cách nhìn biện chứng:
trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong mỗi đối tác
có thể có mặt mâu thuẫn với lợi ích của ta cần phải đấu tranh”
Trung ương Đảng tiếp tục khẳng định: “... bất kỳ thế lực nào có âm mưu
và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc đều là đối tượng của chúng ta”. Đây là một sự khẳng định khôn
khéo, mềm dẻo của chúng ta trong quyết tâm bảo vệ các lợi ích quốc gia, dân
tộc Việt Nam và mục tiêu, con đường cách mạng mà Đảng và nhân dân ta đã
lựa chọn. Chúng ta không vạch tên, chỉ mặt đối tượng nào, không tạo ấn tượng
hiềm khích với ai, nhưng sự khẳng định trên cũng đủ để vừa quy tụ ý chí, sức
mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, vừa đề cao được lợi ích tối thượng của quốc
gia, dân tộc.
Bởi vì, “Tổ quốc Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm”, cho nên
tiếp tục đề cao mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong Chiến lược bảo vệ
Tổ quốc là hoàn toàn hợp lý, dễ hiểu. Thực tế chỉ ra rằng, xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam chính là nền tảng vững chắc nhất để xây dựng thành công xã
hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta - đó cũng chính là lợi ích quốc gia, dân tộc ta
đang hướng tới.
Biểu đồ thể hiện số chữ kẻ thù dưới góc độ lợi ích quốc gia giai đoạn 1975-1978
200 180 160 140 120 100 80 60 40 20 0
1975
1976
1977
1978
Mỹ
Trung Quốc
Cam-pu-chia
Qua nghiên cứu định lượng một cách khái quái, nhóm đã đưa ra biểu đồ
thể hiện số lượng từ ngữ mang tính chất thù địch lợi ích quốc gia giai đoạn 1975
-1978. Ta có thể thấy giai đoạn đầu những năm 1975 1976 Mỹ nắm số lượng rất
lớn những bài báo, xã luận, tin vắn, thơ…. với những luận điệu, từ ngữ phê
phán được đăng tải trên báo Nhân dân. Và cũng ở giai đoạn này thì Trung Quốc
và Campuchia chưa được coi như một kẻ thù mang tính chất lợi ích quốc gia
dân tộc. Những bài báo được đăng tải với những từ ngữ nhằm phê phán Trung
Quốc và Campuchia bắt đầu xuất hiện từ năm 1977 và tăng vọt nhanh chóng
vào năm 1978 với Trung Quốc là hơn 100 từ ngữ và hơn 50 từ ngữ đối với
Campuchia, ngược lại, những từ ngữ thù địch, phê phán Mỹ lại giảm nhanh
chóng từ gần 200 từ ngữ vào năm 1975 xuống thấp nhất vào năm 1978 với
khoảng 30 từ ngữ.
2.1. Báo nhân dân khi nói về “kẻ thù” Mỹ dưới góc độ lợi ích quốc
gia giai đoạn 1975- 1978
Sự va chạm giữa các lợi ích dân tộc, lợi ích quốc gia thực sự sẽ dẫn đến
xung đột lợi ích dân tộc, lợi ích quốc gia. Tuy nhiên, trên trường quốc tế,
nguyên nhân dẫn đến xung đột lợi ích dân tộc, lợi ích quốc gia còn là xác định
sai, xác định không đúng về lợi ích dân tộc, lợi ích quốc gia thực sự hoặc do
nhận thức sai lầm về an ninh quốc gia của mình. Việc Mỹ tiến hành chiến tranh
xâm lược Việt Nam, Khơ-me Đỏ tiến hành chiến tranh biên giới chống Việt
Nam 1977-1978 là những ví dụ về nhận thức sai lầm.18
Trong suốt 30 năm từ 1945 đến 1975, Mỹ đã liên tục tìm cách chống
nhân dân Việt Nam. Họ đã tài trợ và cung cấp vũ khí cho cuộc chiến tranh xâm
lược của Pháp ở Việt Nam và cho đến sau năm 1954, họ hất thẳng cẳng Pháp ra
khỏi miền Nam, trực tiếp tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam, một cuộc
chiến tàn bạo và khốc liệt nhất từ trước đến nay. Trong suốt 30 năm đó, ta luôn
luôn coi Mỹ là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất của dân tộc.
Đại thắng Mùa xuân năm 1975 chấm dứt chiến tranh, đem lại độc lập, tự
chủ, thống nhất hoàn toàn cho nhân dân ta. Nó cũng đem lại những thay đổi căn
bản trong tình hình khu vực Đông Nam Á. Từ một cuộc chiến tranh nóng bỏng,
quy mô lớn gây mất trật tự ổn định trong khu vực kéo dài suốt 30 năm, giờ đây
Đông Nam Á đã có hòa bình. Lợi ích quốc gia của các nước có nhiều thay đổi
và ngày càng nhận được sự quan tâm lớn hơn.
2.1.1. Tham vọng của Mỹ khi tiến hành xâm lược Việt Nam
Trong suốt quá trình dính líu ở Việt Nam và ngay cả trước quá trình đó,
Mỹ luôn xác định những lợi ích quốc gia cho riêng mình, tiêu biểu và cụ thể
nhất phải kể đến đó là: những lợi ích kinh tế trực tiếp và lợi ích chiến lược của
Mỹ trên trường quốc tế.
Trước hết, Mỹ đặt sự quan tâm đặc biệt đến những nguồn lợi ở Việt Nam:
các tài nguyên, nhất là khoáng sản; các sản phẩm chiến lược, nhất là lúa gạo và
cao su; những nguồn cung cấp nhân công; thị trường đầu tư và thị trường tiêu
thụ hàng hóa;...
Từ lâu, tài nguyên của Đông Dương đã được báo chí và các chính khách
Mỹ nhắc tới. Năm 1950, tờ New York Times viết: "Đông Dương là một miếng
18 TS. Nguyễn Vũ Tùng (Biên soạn), Chính sách đối ngoại Việt Nam, tập II, tr. 171
mồi đáng cho chúng ta đánh một ván bài lớn. Nó có thể xuất khẩu thiếc,
tungstène, manganese, than đá, gỗ, gạo, cao su, dừa, hạt tiêu và da thuộc. Cho
đến trước chiến tranh thế giới lần thứ hai II, lợi tức thu được ở Đông Dương đã
tới khoảng 300 triệu đô la hàng năm".19
Tổng thống Eisenhower trong diễn văn đọc ngày 4-8-1953 tại Seatle nói:
"Nếu chúng ta mất Đông Dương thì khối lượng thiếc và tungstène mà chúng ta
đánh giá rất cao sẽ không còn thuộc về tay chúng ta nữa. Chúng ta đang tìm
cách nào rẻ tiền nhất để ngăn chặn điều bất hạnh có thể xảy đến, đó là việc mất
khả năng lấy được những thứ gì chúng ta muốn lấy từ số tài nguyên giàu có của
Đông Dương và Đông Nam Á".20
Thứ hai, Mỹ xác định "Nam Việt Nam là một khâu then chốt trong cuộc
chiến đấu giữa chủ nghĩa cộng sản và thế giới tự do. Kết quả của cuộc chiến đấu
ở Việt Nam sẽ ảnh hưởng lớn đến diễn biến tình hình sau này ở châu Mỹ La
tinh, châu Phi và cả châu Âu nữa" (Nixon). "Mỹ phải giữ lấy miền Nam Việt
Nam, y như đã giữ ở Nam Triều Tiên và Đài Loan. Ba vùng đó có một tầm quan
trọng quyết định đến vị trí của Mỹ ở Đông Nam Á".
Như vậy, ta có thể thấy hành động dính líu chặt chẽ, lâu dài và có những
khoản đầu tư khổng lồ cho cuộc chiến tranh ở Việt Nam của Mỹ đã xâm phạm
nghiêm trọng và gây ảnh hưởng nặng nề đến lợi ích quốc gia của Việt Nam.
19 New York Times, Xã luận, ngày 12-2-1950 20 "Nghiên cứu lịch sử" Hà Nội, số 124
2.1.2. Về định lượng
BIỂU ĐỒ TỔNG QUAN SỐ BÀI BÁO XÁC ĐỊNH MỸ LÀ KẺ THÙ DỰA
TRÊN LỢI ÍCH QUỐC GIA GIAI ĐOẠN 1975-1978
Qua biểu đồ ta có thể thấy số bài viết về Mỹ trên Báo Nhân dân năm
1975 lên đến hơn 120 bài với trên 180 lần nhắc đến Mỹ như là kẻ thù gây ảnh
hưởng đến lợi ích quốc gia của Việt Nam. Tuy vậy, sau khi ta hoàn toàn giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước vào ngày 30/4/1975 thì số bài báo và số
lần nhắc về Mỹ như kẻ thù nguy hiểm nhất đã có dấu hiệu giảm còn khoảng hơn
100 bài vào năm 1976. Đến giai đoạn 1977-1978, khi Mỹ và Việt Nam bắt đầu
tiến hành đàm phán vấn đề bình thường hóa quan hệ thì các bài viết về Mỹ giảm
đáng kể, nhường chỗ cho các bài báo viết về kế hoạch phát triển kinh kế, xây
dựng đất nước hòa bình, ổn định.
2.1.3. Về định tính
❖ Giai đoạn 1975-1976
Báo Nhân dân Quý I năm 1975 liên tục cập nhật thông tin về cuộc kháng
chiến của nhân dân ta nhằm chống lại những âm mưu bá chủ bá quyền toàn cầu
của đế quốc Mỹ. Giai đoạn này, Báo Nhân dân đề cập nhiều đến Mỹ với thái độ
lên án, tố cáo những mưu đồ đen tối hòng thôn tính, đô hộ, nô dịch, ngăn cản sự
phát triển mạnh mẽ của dân tộc Việt Nam. Nhiều số báo thẳng thắn gọi Mỹ là
“địch”, “kẻ thù”, “bọn xâm lược”, “kẻ chủ mưu”, “kẻ phạm tội ác chiến tranh”,
“bọn ác ôn”, “lũ khát máu”… và xác định nhiệm vụ của ta trước tội ác của
chúng đó là: “chống Mỹ và tay sai”, “đánh đổ đế quốc Mỹ và bè lũ”, “trừng trị
đích đáng Mỹ - Thiệu”,…
Thời điểm này, Mỹ không chịu thi hành hiệp định Paris về Việt Nam như
những gì đã cam kết, tiếp tục kéo dài cuộc chiến tranh ở miền Nam; chính
quyền Pho thì không ngại rót thêm tiền cho cuộc chiến. Báo Nhân dân số 7550
ngày 3/1/1975 có bài báo: “Chính quyền Pho viện trợ 8 tỷ đô la cho ngụy quyền
Sài Gòn và bè lũ tay sai khác ở Đông Nam Á”. Bên cạnh đó, nhiều bài viết cũng
vạch trần những luận điệu sai trái của Mỹ và đòi chính quyền Pho thi hành
nghiêm chỉnh hiệp định Paris về Việt Nam. Báo Nhân dân cũng tích cực trích
dẫn và đăng những bài báo liên quan đến việc nhân dân yêu chuộng hòa bình
trên toàn thế giới, các nước xã hội chủ nghĩa, những kiều bào ở nước ngoài lên
án cuộc chiến tranh phi nghĩa của Mỹ, yêu cầu Mỹ rút quân và chấm dứt dính
líu quân sự ở Việt Nam. Trước sự ủng hộ ấy, quân dân ta đã có những cuộc
chiến anh dũng với các thế lực thù địch để bảo vệ lợi ích quốc gia của mình.
Báo Nhân dân đã tường thuật chi tiết và đầy đủ cuộc chiến vì chính nghĩa của ta
trong nhiều bài viết và truyện ngắn.
Các bài phát biểu, diễn văn trong những cuộc mít tinh trọng thể được
trích dẫn trên Báo Nhân dân cũng nêu rõ Mỹ và bọn tay sai là kẻ thù lớn nhất
của dân tộc; tố cáo những hành động bất chính, tội ác chiến tranh của Mỹ.
Song song với sử dụng các hình thức tường thuật, tin vắn, xã luận,… thì
tranh, thơ biếm họa về Mỹ và bọn tay sai cũng là một yếu tố quan trọng trong
việc xác định Mỹ với tư cách là kẻ thù gây ảnh hưởng tới lợi ích quốc gia Việt
Nam.
Ngày 31/3/1975, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã họp nhận định: Thời
cơ chiến lược tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa vào sào huyệt của địch
đã hoàn toàn chín muồi.
Ngày 30/4/1975, Quân ta thống nhất hiệp đồng các cánh, các hướng tổng
công kích vào nội thành, chiếm lĩnh các mục tiêu chiến lược. 10 giờ ngày
30/4/1975, trung đoàn 66 bộ binh, cùng với xe tăng của lữ đoàn 203 thuộc sư
đoàn 304, Quân đoàn 2 tiến công thọc sâu, đập tan toàn bộ lực lượng phòng ngự
của quân ngụy vượt qua cầu Sài Gòn. 10 giờ 45 phút, cán bộ, chiến sĩ ta bắt toàn
bộ nội các ngụy quyền Sài Gòn, buộc Dương Văn Minh phải lên đài phát thanh
Sài Gòn tuyên bố đầu hàng cách mạng không điều kiện. 11 giờ 30 phút, ngày
30/4/1975, ta kéo cờ chiến thắng trên nóc dinh Độc Lập.
Trên đà chiến thắng, từ ngày 30/4/1975, đồng bào và các chiến sĩ các tỉnh
Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long đã đồng loạt tiến công và nổi dậy
mạnh mẽ, lần lượt giải phóng các tỉnh còn lại. Ngày 1-5-1975, toàn bộ lãnh thổ
trên đất liền miền Nam Việt Nam đã hoàn toàn giải phóng.
Văn kiện Đảng nhận định: “Thắng lợi vĩ đại của cuộc Tổng tiến công
Mùa Xuân 1975, đánh bại hoàn toàn cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ, giải
phóng hoàn toàn miền Nam thân yêu, kết thúc vẻ vang cuộc chiến tranh yêu
nước lâu dài nhất, khó khăn nhất và vĩ đại nhất trong lịch sử chống ngoại xâm
của dân tộc ta”.21
Bắt đầu từ nửa sau Quý II năm 1975 trở đi, các bài báo về Mỹ đã có xu
hướng giảm dần. Sở dĩ có sự suy giảm này là vì cuộc kháng chiến chống Mỹ đã
dành thắng lợi, nhân dân ta hoàn toàn làm chủ đất nước, giặc Mỹ buộc phải cút
khỏi Việt Nam một cách ê trề. Các bài viết lúc này chủ yếu dành những lời ca
21 Văn kiện Đảng toàn tập, t.35, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2004, tr.206
ngợi của cả trong và ngoài nước cho chiến thắng anh hùng của dân tộc Việt
Nam. Các bài báo giảm đồng nghĩa với số lượng từ “địch”, “kẻ thù”,… dành
cho Mỹ cũng giảm theo.
Mặc dù chiến tranh đã kết thúc nhưng quan hệ Việt – Mỹ vẫn chưa có
tiến triển, chính quyền Pho về cơ bản vẫn tiếp tục chính sách thù địch với Việt
Nam. 30/4/1975, Mỹ phong tỏa tài sản của Việt Nam. Hai tháng sau khi giành
thắng lợi năm 1975, Tổng bí thư Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã phát biểu trên
Quốc Hội, bày tỏ mong muốn bình thường hóa quan hệ với Mỹ, và mong muốn
Mỹ sớm thực hiện những điều đã hứa trước đó dưới thời Tổng thống Nixon về
khoản hỗ trợ tái xây dựng sau khi kí hiệp định Paris. Nhưng Wasshington lúc
này đã bỏ ngoài tai cho nỗ lực của phía Việt Nam, và yêu cầu Việt Nam
phải cung cấp đầy đủ thông tin về MIA người Mỹ mất tích, cũng như trao trả
những hài cốt được tìm thấy rồi mới bắt đầu đàm phán. 15/5/1975, Mỹ cấm
vận thương mại và phủ quyết Việt Nam gia nhập Liên Hiệp Quốc.
Các bài viết trên Báo Nhân dân thời điểm này tập trung đến các vấn đề:
âm mưu tội ác của Lầu năm góc đới với những người Việt di cư, Mỹ dùng
quyền phủ quyết để ngăn cản việc gia nhập Liên hợp quốc của Việt Nam,…
Trước thắng lợi to lớn của quân và dân miền Nam Việt Nam trong cuộc
tiến công và nổi dậy trừng trị tập đoàn Nguyễn Văn Thiệu phá hoại Hiệp định
Paris về Việt Nam, chính quyền Pho ra sức giúp Thiệu thực hiện âm mưu cưỡng
ép di cư với quy mô lớn ở miền Nam Việt Nam nhằm vơ vét sức người, sức của.
Mỹ đã lập cầu hàng không, huy động tàu chiến, kể cả tàu chở máy bay đến vùng
biển miền Nam Việt Nam, tiếp tay cho bọn Thiệu cưỡng ép nhân dân theo
chúng. Cái mà chính quyền Pho gọi là “vấn đề người tị nạn” ở miền Nam Việt
Nam và kế hoặc “di tản” người Mỹ thực chất là âm mưu xảo quyệt, lừa bịp,
đánh lạc hướng và công kích dư luận, làm ảnh hưởng trầm trọng đến lợi ích
quốc gia của ta. Báo Nhân dân đã vạch trần và kịch liệt lên án những lời vu cáo,
xuyên tác, thủ đoạn lừa dối của Mỹ cốt chỉ để nhằm can thiệp vào công việc nội
bộ của miền Nam Việt Nam bằng việc trích dẫn nhiều nguồn báo khác nhau cả
trong và ngoài nước lên án hành động cưỡng ép di cư của chính quyền Pho.
Nổi bật trên báo giai đoạn này còn là thông tin của Thông tấn xã Việt
Nam về việc Mỹ ngoan cố bỏ phiếu phủ quyết. Tại Hội đồng bảo an Liên hiệp
quốc, Đại sứ Đinh Bá Thi nghiêm khắc phê phán chính sách thù địch của Mỹ
đối với Việt Nam. Các bài báo trong chuyên mục Thời sự quốc tế cũng cập nhật
dư luận từ nhiều quốc gia, tổ chức kịch liệt lên án Mỹ đã ngăn cản Việt Nam gia
nhập Liên hợp quốc. Báo Nhân dân số 8242 ngày 1/12/1976 có bài báo nêu lên
quan điểm của Thượng nghị sỹ Mắc Ga-vơn về việc Mỹ ngăn cản Việt Nam gia
nhập Liên hiệp quốc. Ngài cho rằng Mỹ đang thể hiện sự “yếu đuối và lố bịch”.
❖ Giai đoạn 1977-1978:
Các bài báo về việc xác định Mỹ như một kẻ thù xâm phạm đến lợi ích
quốc gia của Việt Nam trong hai năm 1977 và 1978 giảm đi đáng kể. Nguyên
nhân là do giai đoạn này Việt Nam và Mỹ đã bắt đầu đàm phán về vấn đề bình
thường hóa quan hệ hai nước. Tuy nhiên cuộc đàm phán không thành công. Lý
do là vì đây là giai đoạn ngay sau khi chiến tranh giữa hai nước vừa kết thúc
không lâu, một bên là người bị xâm lược một bên là kẻ đi xâm lược. Mối quan
hệ bao trùm vẫn là mối quan hệ thù địch, cô lập.
Đến tháng 10 năm 1978, khi ta rút bỏ điều kiện thi hành điều 21 của Hiệp
định Paris về Việt Nam, hai nước thỏa thuận về nguyên tắc và chuẩn bị thiết lập
quan hệ thì nhân tố Trung Quốc nhảy vào khiến Mỹ thiết lập quan hệ ngoại giao
với Trung Quốc, hoãn lập quan hệ ngoại giao với ta.
2.2. Báo Nhân dân khi nói về “kẻ thù” Trung Quốc dưới góc độ lợi
ích quốc gia giai đoạn 1975- 1978
Trong những năm đầu sau ngày giải phóng miền Nam Việt Nam (1975),
Trung Quốc là nước tiếp tục giúp đỡ, viện trợ cho Việt Nam. Theo một logic
thông thường, lý ra sự hợp tác, quan hệ truyền thống giữa hai nước càng phải
được củng cố, phát triển. Tuy nhiên, từ giữa năm 1975, do nhiều nguyên nhân
lịch sử, chính trị.... quan hệ Việt Nam - Trung Quốc rạn nứt và trở nên không
bình thường, rơi vào tình trạng thường xuyên căng thẳng dẫn đến đến đối đầu,
xung đột với sự kiện đỉnh cao là cuộc tấn công của Trung Quốc dọc theo biên
giới phía Bắc Việt Nam (2-1979).
Bắc Kinh và Hà Nội đã từng là đồng minh thân thiết kể từ cuộc chiến
tranh Đông Dương lần thứ nhất vào những năm đầu thập niên 1950. Thế thì tại
sao sau đó nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa lại đi đến quyết định tiến hành
chiến tranh với nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam vào cuối năm
1978? Theo lý lẽ của Bắc Kinh thì dường như nguyên nhân là do “giấc mộng
xưng bá” của Hà Nội ở khu vực Đông Nam Á; gây hấn ở biên giới với Trung
Quốc và xâm phạm vào lãnh thổ của Trung Quốc; ngược đãi người Hoa ở Việt
Nam; đi theo Liên Xô trong lúc nước này đang muốn mở rộng ảnh hưởng ở
Đông Nam Á. Các nhà quan sát vào thời điểm đó và nhiều nghiên cứu sau này
cho rằng mục tiêu hàng đầu của Bắc Kinh là làm giảm bớt áp lực quân sự lên
Campuchia, buộc quân đội Việt Nam phải chia lửa ở mặt trận thứ hai. Robert
Ross (học giả người Mỹ, hiện là giáo sư ở Boston College – ND) thì cho rằng
việc Trung Quốc sử dụng quân đội chống lại Việt Nam không phải là phản ứng
trước sự bành trướng của Hà Nội ở Đông Dương mà là phản ứng trước sự về
hùa của Việt Nam với Liên Xô nhằm bao vây Trung Quốc từ Đông Nam Á.
Những nghiên cứu khác lại cho rằng Trung Quốc hành động như thế để làm mất
thể diện của Liên Xô, nước đang đóng vai trò như một đồng minh tin cậy của
Hà Nội trong trường hợp xảy ra khủng hoảng.22
Trong một nghiên cứu về mối quan hệ của Bắc Kinh với Hà Nội trước
chiến thắng 1975, Trại Cường (Zhai Qiang) tác giả cuốn China and the Vietnam
Wars, 1950-1975 — ND) đã cho rằng “chính sách thực dụng không chỉ là lời
nói suông” được phát đi từ các nhà lãnh đạo Trung Quốc khi đề cập đến các mối
quan hệ quốc tế. Mặc dầu họ tuyên bố chính họ là những môn đồ của chủ nghĩa
quốc tế Mác-Lênin song họ lại kế thừa hoàn toàn cái di sản lịch sử của Trung
Hoa: quan niệm Đại Hán theo đó Trung Quốc là cái nôi của thế giới. Các quốc
gia nhỏ bé khác bên ngoài Trung Quốc, trong đó có Việt Nam, là man di và phải 22 Nhìn lại cuộc chiến Việt – Trung 1979 – Tạp chí nghiên cứu quốc tế
là những chư hầu trong vùng ảnh hưởng của Trung Quốc. Mặt khác, “niềm kiêu
hãnh lịch sử và độ nhạy cảm văn hóa” là nhân tố chính có ảnh hưởng đến thái
độ của người Việt Nam đối với Trung Quốc.
Tuy hai nước còn cố gắng kiềm chế, tránh xung đột, nhưng từ giữa những
năm 1976, quan hệ Việt - Trung đã xấu đi rất nhanh chóng với các tranh cãi liên
quan đến vấn đề biên giới, vấn đề người Việt gốc Hoa và đặc biệt về vai trò của
Liên Xô trong các vấn đề thế giới, khu vực. Trong bài phát biểu của Lê Duẩn tại
Hội nghị lần thứ 25 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (họp
từ ngày 24-9 đến 24-10-1976) xuất hiện những cụm từ nhiều hàm ý: “Ta thắng
là nhờ có sự giúp đỡ tích cực của Liên Xô, Trung Quốc, của phe ta, của thế giới,
Liên Xô và Trung Quốc giúp ta rất nhiều. Không có sự giúp đỡ của họ ta khó
lòng thắng được. Ta phải luôn luôn biết ơn Liên Xô, Trung Quốc và các nước
anh em khác đã giúp ta; ta nói cho con cháu ta mãi mãi nhớ ơn họ. Nhưng
chúng ta phải độc lập, tự chủ bởi vì trong quan hệ quốc tế, mỗi nước có lập
trường riêng do vị trí và quyền lợi mỗi nước một khác, cho nên giữa các nước
anh em, khó có sự nhất trí với nhau, có khi về những vấn đề rất quan trọng đối
với một nước trong phe, cũng không nhất trí được”. Từ đó ta đã thấy được
những khác biệt về lợi ích quốc gia giữa hai nước dẫn đến những mâu thuẫn,
thậm chí dẫn đến chiến tranh biên giới 1979.
2.2.1. Về định lượng
Với tổng số 111 bài báo, bài phát biểu, xã luận, thơ, tin vắn .. lên án
Trung Quốc như một kẻ thù mang tính ý thức hệ, số lượng bài báo tăng dần từ
quý II với 11 bài và đỉnh điểm là quý III với 54 bài và đến quý IV là 46 bài.
2.2.2. Về định tính
❖ Giai đoạn 1975-1976
Vào khoảng thời gian này, quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc đã bắt
đầu xuất hiện những rạn nứt, từ một người bạn, một người anh em thân thiết, là
sự ủng hộ, viện trợ cho chúng ta trong phong trào giải phóng dân tộc, Trung
Quốc đã dần cho chúng ta thấy những thay đổi trong mối quan hệ khi dừng việc
dừng việc trợ cấp, ủng hộ chúng ta theo nhiều mặt. Thế nhưng vào giai đoạn
này, Mỹ vẫn là kẻ thù chính mang tính nghiêm trọng, cấp thiết của dân tộc ta và
hình ảnh của Mỹ trên báo Nhân dân luôn được tô đậm nét, trong những năm
1875 1976, hình ảnh Trung Quốc trên báo Nhân dân vẫn chưa được xây dựng
thành một kẻ thù mang tính lợi ích quốc gia.
❖ Giai đoạn 1977-1978
Tháng 2-1977, Trung Quốc ngỏ ý với Việt Nam rằng, không sẵn sàng
cung cấp viện trợ cho Việt Nam trong công cuộc tái thiết đất nước sau chiến
tranh.
Cũng vào thời kỳ này, biên giới Việt Nam - Campuchia liên tục có xung
đột. Chính phủ Việt Nam không dưới một lần đề nghị Trung Quốc giúp đỡ dàn
xếp, mong muốn thông qua hợp tác với Trung Quốc tác động tới phía
Campuchia, song Trung Quốc đã im lặng. Việc Trung Quốc từ chối ủng hộ Việt
Nam trong việc tìm kiếm các phương thức giải quyết căng thẳng biên giới với
Campuchia càng cho thấy những vết nứt sâu hơn trong quan hệ hai nước. Điều
đáng chú ý là trong thời điểm phức tạp, nhạy cảm của quan hệ Việt Nam -
Campuchia, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Hoàng Hoa đã chính thức phát
biểu (30-7-1977): “Chúng tôi ủng hộ lập trường chống đế quốc xét lại Liên Xô
của Campuchia... và sẽ không thể ngồi nhìn bất cứ sự can thiệp nào đối với chủ
quyền Campuchia hoặc thèm khát lãnh thổ nào bởi đế quốc xã hội. Chúng tôi sẽ
ủng hộ Campuchia trong cuộc đấu tranh và có các hành động nhằm bảo vệ lãnh
thổ, chủ quyền quốc gia Campuchia bằng mọi sự giúp đỡ có thể”. Ngầm sau lời
tuyên bố đó, người ta dễ dàng nhận thấy ẩn ý “chống lưng” của Ban lãnh đạo
Trung Quốc đối với tập đoàn Polpot-Iêngxari.
Ngày 20-11-1977, Lê Duẩn sang thăm Trung Quốc một lần nữa. Đây
được coi như một nỗ lực nhằm hàn gắn những vết rạn nứt trong quan hệ với
Trung Quốc, thực hiện việc cố gắng cân bằng quan hệ giữa Việt Nam - Liên Xô;
Việt Nam - Trung Quốc. Tuy nhiên, giới quan sát nhận thấy rằng, người đứng
đầu Nhà nước Việt Nam Lê Duẩn đã được đón tiếp với một thái độ vừa phải
(nếu không muốn nói là lạnh nhạt), trái ngược với sự trọng thị và nồng nhiệt
được dành cho Polpot trước đó một tháng. Chuyến viếng thăm Trung Quốc lần
này của Lê Duẩn chẳng những không làm cho quan hệ hai nước ấm lên, mà bộc
lộ những bất đồng mới. Trong cuộc hội đàm giữa Lê Duẩn và Hoa Quốc Phong,
mặc dù hai bên đều tránh nói đến một vấn đề tế nhị trong quan hệ hai nước là
những tranh chấp về Hoàng Sa, Trường Sa, song sự khác biệt về quan điểm đối
với việc nhìn nhận thế giới, chiến tranh và hòa bình… đã bộc lộ ngày càng rõ.
Lê Duẩn bày tỏ quan điểm không tham gia vào cuộc tranh cãi Trung - Xô thông
qua việc "chân thành cảm ơn Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác về sự
nhiệt tình, giúp đỡ to lớn đối với Việt Nam". Không khí có vẻ căng thẳng hơn,
khi Lê Duẩn đề nghị những nhà lãnh đạo Trung Quốc yêu cầu Campuchia Dân
chủ chấp nhận một giải pháp cho cuộc xung đột trên tuyến biên giới Tây Nam,
nhưng Trung Quốc đã không mấy mặn mà. Cuối cùng, giống như chuyến thăm
Trung Quốc vào tháng 9-1975, Lê Duẩn cũng đã ra về mà không mở tiệc khoản
đãi “những người Trung Hoa anh em”.
Về phía Trung Quốc, từ cuối năm 1977, các văn kiện của Quân khu
Quảng Châu luôn nhấn mạnh tinh thần "phải chuẩn bị các mặt để đánh Việt
Nam", tuyên truyền: "Việt Nam là tay sai của Liên Xô, có tham vọng xâm lược
Campuchia, Lào, chiếm Đông Nam Á, thực hiện bá quyền khu vực, phải đánh
cho bọn xét lại Việt Nam, không đánh là không thể được và phải đánh lớn. Việt
Nam là tiểu bá ở châu Á, xâm lược Campuchia, xua đuổi người Hoa".
Nhưng vào những năm 1977, trên báo Nhân dân vẫn chưa có sự phê phán
hay lên án những hành động của Trung Quốc đối với Việt Nam một cách sâu
sắc và rõ nét.
Tháng 1-1978, Thủ tướng Phạm Văn Đồng yêu cầu các nước xã hội chủ
nghĩa giúp đỡ giải quyết cuộc xung đột Việt Nam - Campuchia. Một lần nữa
Trung Quốc không đáp ứng. Trong khi đó, tháng 1-1978, Bà Đặng Dĩnh Siêu,
Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc sang thăm Phnompenh và ký
một hiệp định xúc tiến viện trợ quân sự cho Campuchia Dân chủ, bắt đầu
chuyển vũ khí đến Campuchia. Thậm chí, trong chuyến thăm, bà Đặng Dĩnh
Siêu đã tuyên bố, Trung Quốc sẽ không tha thứ cho một cuộc tấn công nào vào
liên minh của họ (ngụ ý ám chỉ Việt Nam đã rõ, mặc dù không nêu đích danh).
Quý II năm 1978, trên Báo Nhân dân đã xuất hiện những bài báo nhằm
lên án một bộ phận kẻ xấu trong cộng đồng người Hoa đã tung ra những luận
điệu gây chia rẽ, xúi giục người Hoa ở Việt Nam, chính những luận điệu xuyên
tạc, bịa đặt này đã gây hiểu lầm và ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa hai nước
như “Về vấn đề người Hoa ở Việt Nam tự động về Trung Quốc một cách
không hợp pháp”. Những luận điệu kích động này đã được báo Nhân dân cho
rằng là một “thủ đoạn chiến tranh tâm lí mới” bởi những luận điểm xuyên tạc
kích động này đã gây ra những hậu quả khó lường và nghiêm trọng. Báo Nhân
dân cũng đã đăng rất nhiều lời nói, lời phát biểu của nước ta về thái độ và
những việc làm không đúng đắn của phía Trung Quốc như “Đại biểu các chính
đảng, đoàn thể, tôn giáo trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phê phán những việc
làm không đúng của Trung Quốc về vấn đề người Hoa ở Việt Nam”. Ngoài ra
báo Nhân dân còn cho đăng những Công hàm của chính phủ nước Cộng hoà xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam gửi Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa”,
những Công hàm này cũng nêu rõ quan điểm phê phán, lên án của nước ta đối
với những hành động, chính sách của Trung Quốc đối với Việt Nam với những
từ ngữ như “vu khống, tuyên truyền kích động”. Những hành động này của
Trung Quốc ảnh hưởng nghiêm trọng đến thanh danh, uy tín của nước ta, ảnh
hưởng sâu sắc đến lợi ích quốc gia dân tộc. Vào thời điểm này, Báo Nhân dân
cũng cho đăng tải “Tuyên bố của người phát ngôn Bộ Ngoại giao CHXNCN
Việt Nam về việc phía Trung Quốc xuyên tạc chính sách của chính phủ Việt
Nam với người Hoa ở Việt Nam” nhằm thể hiện quan điểm của Chính phủ ta
với những hành động bịa đặt, xuyên tạc sai sự thật về người Hoa ở Việt Nam,
cũng như những chính sách cưỡng ép người Hoa trở về nước.
Báo Nhân dân cũng cho đăng tải ý kiến của chính những người Hoa đang
sinh sống tại Việt Nam nhằm cho thấy sự thật về chính sách của nước ta đối với
bà con Hoa Kiều và chứng minh rằng những lời của phía Trung Quốc là bịa đặt,
xuyên tạc.
Quý III năm 1978, báo Nhân dân tiếp tục cho thấy quan điểm của Chính
phủ cũng như nhân dân Việt Nam về những hành động thù địch kéo dài của
Trung Quốc, cùng với đó cũng cho thấy sự ủng hộ của nhân dân tiến bộ quốc tế
đối với chúng ta và phê phán thái độ của Trung Quốc đối với Việt Nam. Những
phiên họp, toạ đàm giữa hai nước cũng được báo Nhân dân phân tích, làm rõ
những luận điểm, thái độ của phía Trung Quốc đối với vấn đề còn tồn tại giữa
hai nước. Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao của ta vẫn cho thấy Việt Nam giữ vững
lập trường vững chãi với những hành động tội ác mà Trung Quốc gây ra, một
mực bảo vệ hoà bình, tiếng nói chính nghĩa và lợi ích quốc gia dân tộc. Thời
điểm này, Trung Quốc cùng với Campuchia cùng kết hợp nhằm thực hiện
những hành động chống phá nước ta thể hiện qua những bài đăng tải của báo
Nhân dân như: “Bắc Kinh và bọn phản động Campuchia bàn tính hoạt động
quân sự chống Việt Nam”, “Nhà cầm quyền Bắc Kinh ráo riết tăng cường viện
trợ quân sự cho bọn tay sai ở Nông Pênh đẩy mạnh xâm lấn lãnh thổ Việt Nam”
khi phía Trung Quốc ráo riết viện trợ quân sự cho bọn tay sai ở Nông Pênh
nhằm giúp chúng tăng cường đẩy mạnh chiến tranh xâm lược biên giới nước ta,
những hành động này đã cho chúng ta kết luận “những nhà cầm quyền Bắc
Kinh không thể che dấu và lấp liếm được âm mưu đen tối và tội ác tày trời của
họ. Họ phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về những tội ác đẫm máu của họ đối với
Việt Nam”. Nước ta không chịu khuất phục trước những kẻ thù mang tính chất
lợi ích quốc gia này, Báo Nhân dân, Thông tấn xã Việt Nam – những cơ quan
truyền thông với trọng trách như tiếng nói của Đảng, Chính phủ và nhân dân đã
cho đăng tải những quan điểm, luận điểm của chúng ta như một hành động tự vệ
chính đáng và đấu tranh vì lợi ích hoàn bình, tự do, độc lập của dân tộc “Đảng
dân chủ Việt Nam lên án những hành động phản bội, thù địch của những người
cầm quyền ở Trung Quốc và Campuchia”. Trong “Công hàm của Chính phủ ta
gửi Chính phủ Trung Quốc về việc Trung Quốc chấm dứt toàn bộ viện trợ kinh
tế và kĩ thuật cho Việt Nam, rút về nước toàn bộ nhân viên kĩ thuật công trình”
ngày 6/7/1978, nước ta vẫn luôn thể hiện sự trân trọng, ngợi ca sự giúp đỡ vô
cùng quý báu của Chính phủ và nhân dân Trung Quốc đối với sự nghiệp Cách
mạng của Việt Nam và tình hữu nghị sâu nặng giữa hai nước thế nhưng cũng
đồng thời chỉ rõ rằng quan hệ hai nước rơi vào những thử thách căm go và
nghiêm trọng chưa từng có là bởi những hành động sai trái của nhà đương cục
Trung Quốc gây ra và phía Trung Quốc phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về
những hành động đó.
Trong giai đoạn cuối năm 1978, tình hình giữa hai nước ngày càng trở
nên căng thẳng, bài đăng “Giới cầm quyền Bắc Kinh đang đẩy mạnh chiến dịch
chống Việt Nam” trên báo Nhân dân ngày 15/11 đã chỉ ra rằng “những nhà cầm
quyền Bắc Kinh đẩy mạnh hơn bao giờ hết chính sách thù địch của họ đối với
Việt Nam. Bằng những lời lẽ ngày càng hung hăng, thô bỉ, và bằng những hành
động khiêu khích ngày càng trắng trợn, họ đang mở rộng chiến dịch điên cuồng
chống nước ta”, “tăng cường liên minh với các thế lực đế quốc chủ nghĩa, câu
kết với các thế lực phản động các nước chống lại các lực lượng cách mạng tiến
bộ”, Trung Quốc không ngừng đe doạ nghiêm trọng nước ta với những hành
động thù địch chống phá, ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích hoà bình, độc lập,
tự do, dân chủ cùng với quan hệ hợp tác tốt đẹp của dân tộc ta. Không chỉ vậy,
Trung Quốc còn liên tiếp cho lực lượng vũ trang xâm phạm chủ quyền lãnh thỗ
nước ta và hành động khiêu khích chiến tranh biên giới. Báo Nhân dân cũng cho
đăng tải nhiều bài báo với luận điểm sắc bén, giọng điệu đanh thép và có chút
châm biếm nhằm lên án những hành động của thù đich và phản bội của Trung
Quốc.
2.3. Báo nhân dân khi nói về “kẻ thù” Campuchia dưới góc độ lợi ích
quốc gia giai đoạn 1975- 1978
2.3.1. Quan hệ Việt Nam – Campuchia giai đoạn 1975-1978
Trước khi đi vào giai đoạn 1975-1978, cần nhắc lại những diễn biến trong
quan hệ Việt Nam - Campuchia giai đoạn chống Mỹ 1970-1975. Việt Nam,
Campuchia, Lào cùng một chiến trường đánh Mỹ nhưng quan hệ Việt Nam-
Campuchia, ngay từ lúc này khi 2 nước còn dựa vào nhau chiến đấu, đã bộc lộ
những mâu thuẫn. Sau đảo chính của Lon Nol 18/3/1970, khi quân đội ta vào
Campuchia, bọn Pol Pot đã tuyên truyền trong nhân dân Campuchia rằng “Việt
Nam là khách không mời mà đến”, không cho ta đóng quân trong làng... Tại
những cuộc hội đàm giữa Pol Pot với đồng chí Lê Duẩn vào cuối tháng 3 đầu
tháng 4/1970 về việc ta giúp Campuchia thì ngay từ lúc này khi Pol Pot còn yếu,
cần sự giúp đỡ của ta, Pol Pot đã có ý muốn hạn chế sự có mặt của ta ở
Campuchia, hạn chế lực lượng vũ trang ta ở Campuchia, ngăn cản ta trong việc
tổ chức xây dựng lực lượng chính trị, quân sự cho Campuchia…, muốn “Việt
Nam chỉ giúp vật chất, giúp vũ khí thôi”, “Việt kiều chỉ giúp vận chuyển vũ
khí”; trong chiến đấu “Việt Nam giúp súng cối và có lực lượng bao vây bên
ngoài, hỗ trợ nhân dân và lực lượng Campuchia bên trong nổi dậy, làm như thế
mới bảo đảm “sạch sẽ về chính trị”.
Trên chiến trường trong tháng 3, 4/1970, do có sự thoả thuận của Nuon
Chea và Suvanna, quân đội ta ở Campuchia đánh mạnh thắng nhanh, giải phóng
và tổ chức chính quyền ở 4-5 tỉnh.
Từ sau Hội nghị tháng 9/1970, trong thực tế, nhóm Pol Pot đã từng bước
hạn chế hoạt động của lực lượng Việt Nam trên đất Campuchia như: gây khó
khăn và hạn chế hành lang tiếp tế của ta trên đất Campuchia, hạn chế nhân dân
bán lúa gạo cho ta, hạn chế bộ đội ta hợp tác đánh Chenla I năm 1971 phối hợp
chiến dịch đường 9 Nam Lào, có nơi đã giết liên lạc, giết cán bộ Việt Nam đi lẻ
và tổ chức cướp kho tàng ta ở Campuchia nhất là khu Tây-nam Campuchia do
Ta Mok đứng đầu, có lúc lực lượng hai bên đã bắn nhau như ở các tỉnh Takéo,
Kandal… Họ giải tán lực lượng vũ trang của Việt kiều, hạn chế Việt kiều hoạt
động cách mạng, có nơi gây khó khăn và đuổi Việt kiều về nước, giết hại và
cướp tài sản Việt kiều, Lon Noi đã “cáp Duôn” nhưng Khmer Đỏ cũng kích
động hằn thù dân tộc và cũng chủ trương “cáp Duôn”. Họ hạn chế hoạt động
của số cán bộ Campuchia tập kết ở Việt Nam về, tập trung lại và diệt dần. Họ
bỏ chính sách đối với vợ con cán bộ Campuchia đang ở miền bắc Việt Nam.
Một số cán bộ Campuchia có quan điểm khác, có thái độ chống lại thì bị trấn
áp, buộc phải ly khai tổ chức.
Vào những năm 1973-1975, trong khi cuộc kháng chiến Việt Nam, Lào đi
vào giai đoạn kết thúc thì Campuchia quyết đánh đến cùng; đánh để nổi bật vai
trò cuộc kháng chiến Campuchia thật sự là Khmer chứ không phải lệ thuộc Việt
Nam. Họ chủ trương không đàm phán, cho rằng không muốn “làm cái đuôi Việt
Nam” và ngại “kiểu Gienève 1954 tái diễn”. Sau khi Mỹ đơn phương ngừng
ném bom [bằng] B-52 (8/1973), cuộc chiến đấu đã chắc chắn, nhóm Pol Pot chủ
tâm hạn chế ảnh hưởng và hoạt động của Sihanouk, kiên quyết đẩy lực lượng
Việt Nam ra khỏi đất Campuchia, phá hành lang tiếp tế, hạn chế bán lương thực
cho ta, tổ chức quần chúng làm mít tinh chống VIệt Nam, đòi lực lượng Việt
Nam rút về, đánh cướp các kho tàng và các đơn vị bộ đội ta ở CPC, thậm chí
đánh vào trại thương binh của ta… gây khó khăn cho ta trong việc di chuyển
quân trong chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975. Tính từ 1970 đến 4/1975, bọn
Pol Pot đã gây ra 174 vụ làm ta chết 301 người, 233 bị thương, 38 mất tích. Nơi
nào không chấp hành việc chống VN thì họ tàn sát khủng bố dã man, như cuối
1973 đã giết chết 1 Uỷ viên Trung ương, 11 tỉnh uỷ viên, rất nhiều cán bộ và
nhân dân ở tỉnh Koh Kong. Về mặt đối ngoại, họ dựa vào Trung Quốc là chính,
phê phán Việt Nam xét lại, nửa vời và cố đưa ra thực hiện những chủ trương
hoàn toàn khác Việt Nam; họ phê phán phương châm đấu tranh của Việt Nam
kết hợp vũ trang với đấu tranh chính trị, binh vận trong khi họ đánh đến đâu thì
di dân đến đấy, giết hết tù binh, thực hiện công xã và không dùng tiền ngay từ
năm 1974; họ không quan hệ với Liên Xô và các nước Xã hội chủ nghĩa Đông
Âu (trừ Anbani và Rumani); trong khi 3 nước Đông Dương đã có Hội nghị cấp
cao 3 nước, 4 bên (thêm Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam) thì họ
muốn họp Hội nghị 5 nước, 6 bên (thêm Trung Quốc và Bắc Triều Tiên) với ý
đồ để Trung Quốc nắm ngọn cờ.
❖ Những hành động của Campuchia đối với Việt Nam
Sau cuộc Chiến tranh Việt Nam, Việt Nam và Campuchia xuất hiện nhiều
mâu thuẫn. Tranh chấp và xung đột biên giới xảy ra liên tục trong các năm 1977
và 1978.
Sau sự kiện 30/4/1975, quân Pol Pot đã tiến hành xâm lấn biên giới Việt
Nam mà đầu tiên là đảo Phú Quốc (4/5/1975) rồi tới đảo Thổ Chu giết chết 500
thường dân. Chúng gây ra hàng loạt cuộc thảm sát nhân dân biên giới Việt -
Cam.
Tháng 4/1977, quân Pol Pot đã tiến sâu 10 km vào lãnh thổ Việt Nam,
chiếm một số vùng ở tỉnh An Giang và tàn sát một số lớn dân thường. Tới
25/9/1977, 4 sư đoàn quân Pol Pot đánh chiếm nhiều điểm ở các huyện Tân
Biên, Bến Cầu, Châu Thành (tỉnh Tây Ninh), đốt phá 471 ngôi nhà, làm gần 800
người dân bị giết, bị thương hoặc mất tích.
Tính từ tháng 5/1975 đến ngày 23/12/1978, Pol Pot đã giết hại hơn 5.000
dân thường Việt Nam, làm bị thương gần 5.000 người, bắt và đưa đi thủ tiêu
hơn 20.000 người. Chủ trương của quân Pol Pot là “Chỉ cần mỗi ngày diệt vài
chục, mỗi tháng diệt vài ngàn, mỗi năm diệt vài ba vạn thì có thể đánh 10, 15,
đến 20 năm. Thực hiện 1 diệt 30, hy sinh 2 triệu người Campuchia để tiêu diệt
50 triệu người Việt Nam”.
BẢN ĐỒ CHIẾN TRƯỜNG TÂY NAM
Trong những năm xảy ra xung đột, Việt Nam nhiều lần đề nghị đàm phán
nhằm thiết lập một vùng phi quân sự dọc biên giới, nhưng Pol Pot đều từ chối,
và giao tranh lại tiếp diễn. Từ 12/1977 đến 6/1978, hơn 30 vạn thường dân Việt
Nam phải di tản vào sâu trong nội địa.
Ngày 13/12/1978, được sự trang bị và hậu thuẫn của Trung Quốc, chính
quyền Khmer Đỏ đã huy động 19 trong 23 sư đoàn (khoảng 80.000 đến 100.000
quân) tiến công xâm lược Việt Nam trên toàn tuyến biên giới.
2.3.2. Về định lượng
Số bài báo viết Cam-pu-chia năm 1978 dưới góc nhìn lợi ích quốc gia
1.2
35
30
1
25
0.8
20
0.6
15
0.4
10
0.2
5
0
0
Qúy I
Quý II
Quý III
Quý IV
Qua số lượng thống kê, ta có thể thấy số bài báo viết về Campuchia trong
trên Báo Nhân dân năm 1978 nhìn chung là giảm. Số lượng bài đăng lên án
Campuchia trên báo Nhân dân với tổng số 68 bài thì quý I chiếm số lượng bài
lớn nhất với 31 bài đăng, sau đó là quý III với 19 bài đăng và quý IV với 12 bài
đăng, cuối cùng số lượng bài đăng ít nhất là vào quý II với 6 bài. Sở dĩ vào quý
I năm 1978, số luợng bài báo viết về Campuchia là nhiều nhất do đây là thời
điểm cực kỳ căng thẳng giữa quan hệ hai nước Việt Nam và Campuchia về vấn
đề biên giới. Các bài viết có liên quan đến Campuchia được đăng tải mỗi ngày
để cập nhật tình tình mới nhất tới nhân dân.
2.3.3. Về định tính
Vấn đề biên giới Việt Nam – Campuchia trên Báo Nhân dân năm 1978 là
vấn đề nóng và nhận được nhiều sự quan tâm. Các bài báo có liên quan đến vấn
đề xung đột biên giới giữa hai nước thời điểm này xuất hiện nhiều và liên tục
được đăng trên trang nhất.
Ngay số báo đầu tiên của năm 1978, Báo nhân dân đã bắt đầu có những
bài đăng đưa ra “Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam về vấn đề biên giới Việt Nam – Campuchia”. Về phía Việt Nam, ta luôn
coi Campuchia là láng giếng, là anh em. Tình hữu nghị giữa hai nước đã được
xây đắp và phát triển trong cuộc chiến đấu lâu dài gần một thế kỉ chống chủ
nghĩa thực dân, đặc biệt là chống đế quốc Mỹ và tay sai. Quan hệ gắn bó này
giữa hai nước từng là nhân tố quan trọng quyết định thắng lợi trọn vẹn của Cách
mạng Việt Nam và Campuchia. Vậy mà đến tháng 5 năm 1975, Campuchia lại
bắt đầu có những hành động xâm phạm lãnh thổ của Việt Nam và đặc biệt
nghiêm trọng hơn là từ tháng 4 năm 1977, Campuchia liên tục sử dụng lực
lượng vũ trang đồng loạt tấn công, cướp bóc, đốt phá, giết hại dân Việt, gây tổn
hại nặng nề đến lợi ích quốc gia Việt Nam.
Các bài báo liên tục nhắc đến vấn đề Campuchia không chỉ có những
hành động gây hằn thù dân tộc sâu rộng, trên mặt trận tuyên truyền, với dụng ý
vu khống Việt Nam, gây mơ hồ cho dư luận, báo chí và đài phát thanh
Campuchia thường xuyên đưa tin ám chỉ Việt Nam xâm lược can thiệp và có ý
định lật đổ Campuchia.
Trước vấn đề biên giới Việt Nam – Campuchia, ta chủ trương giải quyết
dựa trên cở tôn trọng chủ quyền lãnh thổ của nhau, đồng thời củng cố và tăng
cường tình đoàn kết, hợp tác anh em giữa hai nước, xây dựng đường biên giới
hữu nghị lâu dài dựa trên những nguyên tắc công bằng và hợp lý.
Đảng Cộng sản Việt Nam và Chính phủ ta kiên trì chủ trương đàm phán
với Campuchia để giải quyết nhanh chóng vấn đề giữa hai nước nhưng phía
Campuchia không chấp nhận.
Báo Nhân dân tố cáo những tội ác dã man của bọn phản động Campuchia
với nhân dân ta, lên án những hành động “thù địch” cố ý “gây hằn thù dân tộc”,
luận điệu thù địch và vu cáo thô bạo Việt Nam. Campuchia đã quay lưng lại với
truyền thống đoàn kết được xây dựng bằng máu của hai dân tộc. Họ thi hành
chính sách “biến bạn thành thù”, cố tình thổi bùng lên ngọn lửa hận thù dân tộc.
Bên cạnh đó, Báo cũng chỉ rõ ra những sai trái của phía Campuchia thông qua
các bài xã luận, bài phỏng vấn với lãnh đạo ta về sự thật cho vấn đề đề đang gây
nhức nhối giữa hai nước. Thông tấn xã Việt Nam cũng tuyên bố rằng
Campuchia đã xâm phạm chủ quyền Việt Nam một cách có hệ thống và những
tội ác mà chính quyền Campuchia gây ra với Việt Nam không gì có thể thanh
minh, tội ác ấy ngày càng chống chất và nghiêm trọng.
Nhà cầm quyền phản động Campuchia xác định Việt Nam “kẻ thù sống
chết số một đối với ta”23. Bởi vậy, lực lượng vũ trang Campuchia vẫn tiếp tục
tăng những hành động khiêu khích vũ trang chống lại Việt Nam, không chịu đáp
ứng yêu cầu giải quyết hòa bình, cự tuyệt các cuộc gặp gỡ và đàm phán với Việt
Nam.
Trong Quý I năm 1978, Báo Nhân dân cũng tích cực trích dẫn ý kiến của
các hội đồng, các tổ chức và dư luận thế giới về vấn đề biên giới Việt Nam –
Campuchia trên trang nhất và trong mục thời sự quốc tế hàng ngày. Trong số
báo 8637 ngày 3/1/1978, thông tấn xã Việt Nam đã đưa tin về tuyên bố của Hội
đồng hòa bình thế giới về vấn đề biên giới Việt Nam – Campuchia. Sau khi xem
cuốn phim giới thiệu những tôi ác dã man mà bọn phản động Campuchia gây ra
cho đồng bào ta, Hội đồng hòa bình thế giới thể hiện sự xúc động và căm phẫn
trước những sự tàn bạo của Campuchia đã gây ra trong lãnh thổ Việt Nam. Hội
đồng đã hoàn toàn ủng hộ Việt Nam và kêu gọi giải pháp đối với vấn đề này
càng nhanh càng tốt. Thêm vào đó, nhiều quốc gia khác như Liên Xô, Cu-ba,
Tiệp Khắc, Ba Lan, Cộng hòa Dân chủ Đức,… cũng lên tiếng ủng hộ lập trường
của chính phủ ta trong việc giải quyết vấn đề biên giới Việt Nam – Campuchia.
Mặc dù trong giai đoạn này, Campuchia coi Việt Nam là kẻ thù số một và
có những hành động thù địch, độc ác gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đồng bào
ta, nhưng Đảng và Chính phủ ta vẫn luôn tôn trọng mối quan hệ anh em đã được
xây đắp từ xưa và mong muốn có một giải pháp hòa bình với phía Campuchia.
Giai đoạn tiếp theo của năm 1978, Báo Nhân dân vẫn không ngừng lên án
những hành động vu cáo xấu xa của chính quyền Campuchia đối với nước ta
làm hình ảnh nước ta trở nên xấu đi trong mắt bạn bè quốc tế, không những vậy
phía Campuchia còn mạnh mẽ khiêu khích, có những hành động xâm phạm đến
chủ quyền quốc gia, lợi ích dân tộc nhân dân ta. Trước những tội ác không thể 23 Báo Nhân dân số 8658 đăng ngày 27/1/1978
dung tha của phía Campuchia, quân dân ta cũng đã có sự đáp trả. Báo Nhân dân
số 8669 ra ngày 10/2/1978 có bài viết “ Trừng trị đích đáng các lực lượng vũ
trang Campuchia xâm phạm lãnh thổ Việt Nam”. Đây là thông tin từ Thông tấn
xã Việt Nam về việc Việt Nam sẵn sàng đáp trả những hành động sai trái từ
phía Campuchia, kiên quyết bảo vệ lãnh thổ, tính mạng và tài sản của nhân dân.
Ngoài ra, chính quyền Campuchia còn kết hợp với Trung Quốc dùng mọi
cách để chống lại chúng ta với nhiều âm mưu, thủ đoạn khác nhau, phá hoại đi
mối quan hệ hữu nghị tốt đẹp giữa các nước trước đây cũng chính bởi sự cạnh
tranh về lợi ích quốc gia dân tộc, đặc biệt bởi chủ nghĩa bành trướng bá quyền
các nước lớn. Vào cuối năm 1978, Báo Nhân dân có những bài viết lên án, tố
cáo việc Trung Quốc tích cực viện trợ cho phản động Campuchia trong cuộc
chiến tranh biên giới với Việt Nam.
Qua các bài báo trên tờ Báo Nhân dân, ta có thể nhận thấy Việt Nam vẫn
luôn nhận được sự đồng tình cổ vũ của nhân dân tiến bộ, những giai cấp đấu
tranh vì chính nghĩa trên thế giới, phản đối những hành động sai trái, vô lí và
thù địch đặc biệt nghiêm trọng nhằm chống lại nước ta, ảnh hưởng đến hình
ảnh, mối quan hệ hữu nghị anh em và sự phát triển của Việt Nam, đặc biệt là lợi
ích hoà bình, tự do, độc lập và phát triển của dân tộc ta.
III. NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ
1. Giọng điệu của những bài viết trên báo nhân dân về “kẻ thù”.
Hình ảnh của Mỹ, Trung Quốc và Cam-pu-chia xuất hiện trên mặt báo
Nhân dân dưới góc nhìn là “kẻ thù” với ba hình thái thể hiện
1.1. Giọng điệu lên án, chỉ trích gay gắt:
Bằng những lời nói hay từ ngữ sâu cay để nhấn vào hành động của đối
phương. Ví dụ như: Bài báo “Thiệu phải cút đi” (Số 7572 ra ngày 25/1/1975),
“Mỹ làm bậy, nói càn” (Số 7587 ra ngày 9/2/1975), “Bọn đế quốc Mỹ vẫn tiếp
tục dính líu” (Số 7641 ra ngày 5/4/1975), “Kịch liệt phản đối phía Trung Quốc
cho máy bay xâm phạm vùng trời Việt Nam” (Số 8801 ra ngày 12/7/1978)
1.2. Giọng điệu mỉa mai, châm biếm
Điều này thể hiện ở những hình ảnh được vẽ nên, những chuyện ngắn,bài
thơ: “Bây giờ đã bươu đầu sứt trán, thì rút lui “di tản tùy nghi”, Cứu ai? Cứu
Thiệu làm gì, Cái xác hấp hối sắp đi đứt rồi”
1.3. Giọng điệu đồng tình với các nước ủng hộ Việt Nam:
Bài báo trong tờ báo Người bảo vệ (Mỹ) được đăng trên báo Nhân dân:
“Chính phủ Mỹ phải làm tròn nghĩa vụ hàn gắn vết thương chiến tranh ở Việt
Nam” (Số 8402 ra ngày 12/5/1977)
2. Đánh giá
2.1. Ưu điểm:
Với giọng điệu đầy đanh thép lên án tội ác của Mỹ, Trung Quốc và Cam-
pu-chia, phía ta sẽ nhận được sự ủng hộ, đồng tình của nhiều nước trên thế giới
thậm chí là một bộ phận người dân nước đó. Không những thế Việt Nam còn
nhận được nhiều sự viện trợ từ các nước cả về vật chất, kĩ thuật và chuyên gia
để thực hiện công cuộc tái thiết đất nước sau chiến tranh, xây dựng đất nước đi
lên Chủ nghĩa xã hội. Đồng thời còn giúp cho Việt Nam khẳng định được tiếng
nói của mình qua các bài phát biểu của đại diện Bộ Ngoại Giao về các tuyên bố
với nước “kẻ thù” làm cho đối phương phải dè chừng trước đầu bút đầy sắc bén,
chân thật, sâu cay
Những bài báo với tiêu đề rõ ràng súc tích thu hút người đọc có tác dụng
như một thông điệp tuyên truyền đi trong nhân dân về hình ảnh của kẻ thù. Cách
phân tích từ hành động đến âm mưu của kẻ thù luôn được lập luận một cách
trực quan, chính xác để không làm người đọc hiểu sai. Trong thời kì đất nước
còn chưa có nhiều sự phát triển về công nghệ thì báo chí là phương tiện duy
nhất để người đọc có thể tiếp cận gần nhất với các thông tin trong và ngoài nước
liên quan đến vấn đề chính trị, xã hội. Không những chỉ phân tích bằng chữ mà
tác giả còn sử dụng một hệ thống các hình ảnh từ thực tế hoặc hình vẽ mang
tính châm biếm để truyền tải nội dung không quá nặng nề mà vẫn đam lại sự
thoải mái cho người đọc. Báo nhân dân đăng tải những quan điểm của Đảng,
Nhà nước, nhân dân ta trước những hành động sai trái của Mỹ. Đấu tranh không
chỉ là ở trên chiến trường mà còn bằng ngòi bút của những câu chuyện, những
bài báo.
Đồng thời, ta thấy được sự quan tâm của nhiều nước trong lĩnh vực của
Việt Nam. Cụ thể là có những trang báo chính thống của Quốc tế được tin
Thông tấn xã Việt Nam dịch lại với những nội dung xoay quanh tình hình chính
trị căng thẳng của Việt Nam. Đây cũng là một cách làm kẻ thù thấy được sự ảnh
hưởng lớn của Việt Nam với thế giới. Thể hiện tinh thần đoàn kết với các nước
anh em, sự ủng hộ nhiệt thình với phong trào đấu tranh của nhân dân các nước
Á-Phi- Mỹ La-tinh và sự cổ vũ phong trào đấu tranh dân chủ của nhân dân các
nước phương Tây bao gồm chính nhân dân Mỹ. Điều này đã góp thêm sức
mạnh cho dư luận thế giới, có tác động ngăn chặn phần nào những bước đi phản
động, nguy hiểm, đe dọa đến hòa bình của chúng
2.2. Hạn chế:
Hình ảnh của kẻ thù đặc biệt là Mỹ trên báo Nhân dân giai đoạn này được
phản ánh như hình ảnh của một đế quốc to lớn, hung hãn. Nó khiến cho hình
ảnh của Mỹ cũng như Cam-pu-chia được phản ánh thiếu sự khách quan, đa
chiều. Hình ảnh những nước kẻ thù trong cái nhìn của ta hầu như là các mặt tiêu
cực, phiến diện nhưng lại không kịp thời nhận ra những thành tựu mà họ đã đạt
được trong mọi lĩnh vực như kinh tế, khoa học kĩ thuật – những thứ mà ta đang
cần phải học hỏi nhiều, cần phải tiếp thu nhiều bởi Mỹ là đế quốc lớn và phát
triển, nếu bỏ qua ý thức rằng Mỹ là kẻ thù thì đó là một quốc gia mà chúng ta
cần học theo sự phát triển logic của họ hơn là chỉ trích vào những hành động đó
mà quên đi Việt Nam vẫn còn là một nước nghèo và lạc hậu
Nếu chỉ xét riêng về phía Mỹ, báo Nhân dân viết về Mỹ với những hình
ảnh và giọng điệu không mang nhiều thiện chí thậm chí là chỉ trích nặng nề làm
ảnh hưởng không nhỏ tới thới độ của Mỹ trở lại Việt Nam. Đó là một trong
những khó khăn lớn mà do chính ta tự tạo ra trong việc hòa nhập với cộng động
quốc tế, tiến tới môi trường hòa bình ổn định, hợp tác với các nước khác.
3. Lợi ích của Việt Nam khi công khai lên án, chỉ trích kẻ thù trên báo
nhân dân giai đoạn 1975-1978
Việc lựa chọn Báo nhân dân để nghiên cứu về quan điểm của Việt Nam
khi xác định các đối tượng thù địch theo lợi ích quốc gia và ý thức hệ giúp
nhóm giải quyết được hầu hết các vấn đề thông qua quá trình đọc và chọn lọc.
Các vấn đề trên báo giai đoạn này chủ yếu xoay quanh việc lên án, tố cáo những
hành động sai trái, những tội ác mà các nước đế quốc đặc biệt là đế quốc Mỹ đã
gây ra với Việt Nam năm 1975-1976 và cho đến năm 1977-1978 là vấn đề biên
giới phía Tây Nam với Campuchia và phía Bắc với Trung Quốc. Vấn đề ấy
ngày càng trở nên gay gắt khiến mối quan hệ giữa ba nước thêm căng thẳng.
Thêm vào đó, việc lên tiếng một cách công khai nhằm phê phán những âm mưu
xấu xa, thâm độc của Mỹ và bọn tay sai phản động đã gây ảnh hưởng đến lợi ích
quốc gia không chỉ của Việt Nam mà còn của cả các quốc gia khác đã cho thấy
rõ lập trường cứng rắn, kiên quyết của Việt Nam khi đối mặt với các vấn đề an
ninh đe dọa từ bên ngoài.
Trong giai đoạn 1975 – 1978 Việt Nam đã chứng kiến từng hành động
xấu xa, động thái bỉ ổi của Mỹ và bọn tay sai khi chúng còn hiện diện trên đất
nước ta. Một vài tội ác điển hình của chúng gây ra cho dân tộc ta như: nạn
cưỡng ép di cư, những hành động can thiệp vào nội bộ các nước Xã hội chủ
nghĩa khác sau khi thất bại tại Việt Nam như Triều Tiên hay chính sách phân
biệt chủng tộc của chúng. Không chỉ vậy vào năm 1978 vấn đề biên giới giữa ta
với Campuchia và Trung Quốc cũng nổi lên khá phức tạp, những hành động
khiêu khích từ phía Trung Quốc và Campuchia là không thể chấp nhận được.
Nó gây ảnh hưởng sâu sắc đến mối quan hệ của các nước trong thời điểm đó và
để lại nhiều hậu quả tai hại sau này.
Báo Nhân dân cũng như các tờ báo chính luận khác, bên cạnh nhiệm vụ
cung cấp và truyền tải các thông tin chính xác về các vấn đề chính trị, an ninh,
kinh tế, văn hóa – xã hội của Việt Nam và thế giới, nó còn có chức năng kêu gọi
sự ủng hộ của dư luận thế giới, gây sức ép với các quốc gia có ý định thù địch
khác. Qua đây, nhóm nghiên cứu muốn đề cập tới những lợi ích của Việt Nam
khi công khai lên án, chỉ trích kẻ thù điển hình là Mỹ, Campuchia và Trung
Quốc, phản ánh hình ảnh xấu xa của chúng trên báo nhân dân giai đoạn 1975-
1978.
Trước hết, lợi ích đầu tiên cho việc phân định kẻ thù trên Báo Nhân dân
là cung cấp thông tin một cách đầy đủ, chuẩn xác và khách quan nhất nhằm kêu
gọi sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân cả trong và ngoài nước. Nhân
dân Việt Nam có thể xác định được chính xác kẻ thù của dân tộc, những hành
động của chúng nhằm chống phá nước ta từ đó nêu cao tinh thần yêu nước,
đoàn kết dân tộc, cảnh giác trước những âm mưu thù địch.
Trong năm 1975 khi đế quốc Mỹ không chịu thi hành những gì đã cam
kết trong hiệp định Paris về Việt Nam và luôn cố gắng tìm mọi cách cản trở việc
Việt Nam gia nhập Liên Hợp Quốc, Báo Nhân dân đã định hướng dư luận trong
nước nhận thấy rõ bản chất xấu xa, thâm độc của đế quốc Mỹ nói riêng và chủ
nghĩa đế quốc bá chủ bá quyền chung. Báo đã vạch trần bộ mặt hiếu chiến xâm
lược của bọn đế quốc, thực dân và các thủ đoạn tàn bạo của chúng, vạch trần bộ
mặt phản dân, phản nước của bè lũ tay sai Nguyễn Văn Thiệu. Nhân dân ta từ
đó có nhận thức đúng đắn về những hành động tội ác của Mỹ trong chiến tranh,
những luận điệu xảo trá của Mỹ khi vu khống Việt Nam trong vấn đề người di
cư hay những hành động chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa của ta.
Không chỉ có Mỹ, Trung Quốc và Campuchia trong năm 1978 cũng luôn
có ý khiêu khích Việt Nam bằng việc quấy rối ở các vùng biên giới phía Tây
Nam và phía Bắc. Trung Quốc còn gây ra vấn đề “nạn kiều” khiến nhân dân hai
nước đều phải gánh chịu những hậu quả nghiêm trọng. Tuy nhiên, nhờ có các
bài báo trên Báo Nhân dân Việt Nam mà người dân trong nước nhận thức được
những việc làm sai trái của kẻ thù, tránh bị lung lay bởi những tin đồn không
chính xác từ bọn phản động. Nhân dân ta đã cùng với toàn thể nhân dân yêu
chuộng hòa bình trên thế giới ủng hộ những chính sách của Đảng và Nhà nước
trong mọi hoàn cảnh. Điều đó góp phần tạo ra sức ép dư luận lớn đối với kẻ thù
của chúng ta.
Tác động tích cực thứ hai của việc phân định kẻ thù trên Báo Nhân dân
đó là giúp đỡ vào việc khẳng định lập trường quan điểm của Đảng và nhà nước
ta trước những âm mưu phá hoại của kẻ thù nhằm giữ vững và ổn định độc lập
dân tộc. Mặc dù luôn có những hành động, động thái gây khó khăn cho ta từ
phía các nước đế quốc điển hình là Mỹ nhưng Đảng ta luôn tỏ thái độ bình tĩnh
sử dụng đấu tranh từ sức ép dư luận qua Báo Nhân dân để chống lại những thế
lực thù địch, kêu gọi sự ủng hộ của bạn bè quốc tế. Trong tình hình khó khăn
như vậy, việc nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của dư luận thế giới, đặc biệt là từ
phía các nước xã hội chủ nghĩa là điều có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với Việt
Nam. Và trên thực tế, Báo Nhân dân đã có nhiều bài viết về việc nhiều quốc gia,
tổ chức trên thế giới đã tuyên bố ủng hộ lập trường đúng đắn của chính phủ Việt
Nam từ vấn đề yêu cầu Mỹ thi hành hiệp định Paris đến vấn đề biên giới Việt
Nam – Campuchia và đến cuối năm 1978 là vấn đề chiến tranh biên giới phía
Bắc với Trung Quốc.
Phân tích kẻ thù cơ bản, lâu dài và trước mắt, kẻ thù nguy hiểm đầu sỏ và
trực tiếp giúp nhân dân và quân đội ta vừa quán triệt thống nhất nhận thức vừa
có chủ trương, đường lối, chiến lược, biện pháp và sách lược đấu tranh đúng
đắn, cương quyết giữ vững mục tiêu, lý tưởng “Độc lập, tự do và xã hội chủ
nghĩa”. “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào” thể hiện đỉnh cao về nghệ
thuật đánh giặc, phản ánh tư tưởng chiến lược cách mạng và chiến lược quân sự
của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước.
Trong cuộc chiến tranh biên giới với Campuchia, được sự viện trợ của
Trung quốc, bọn phản động Campuchia ngày càng gây ra nhiều tội ác tàn bạo
ảnh hưởng nặng nề đến lợi ích quốc gia của Việt Nam. Báo Nhân giai đoạn này
đã đăng nhiều bài viết về sự ủng hộ của dư luận thế giới với chính sách đúng
đắn của chính phủ ta trong quan hệ Việt Nam – Campuchia. Chính phủ ta luôn
chủ trương giải quyết vấn đề biên giới với Campuchia bằng đàm phán dựa trên
nguyên tắc tôn trọng chủ quyền, lãnh thổ của nhau. Chính sách ấy là hoàn toàn
hợp lý bởi mối quan hệ giữa Việt Nam và Campuchia vốn là mối quan hệ anh
em thân thiết, đã được xây đắp từ trong cuộc chiến tranh chống đế quốc xâm
lược.
Như vậy, việc xác định kẻ thù trên Báo Nhân dân đã đem lại hai lợi ích
chính đó là: cung cấp thông tin đến độc giả là nhân dân cả nước một cách đầy
đủ, chính xác và nhanh chóng nhất để quân dân ta luôn cảnh giác cao độ, luôn
có tinh thần chiến đấu trước mọi thế lực thù địch; khẳng định lập trường đúng
đắn của Chính phủ ta nhằm kêu gọi sự ủng hộ đông đảo hơn từ dư luận trong và
ngoài nước, nhân lên sức mạnh dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình
thế giới, chống lại chủ nghĩa bá quyền của các nước lớn.
KẾT LUẬN
Có thể nói giai đoạn 1975-1978 là một trong những giai đoạn khó khăn
nhất trong lịch sử Việt Nam. Mặc dù Mỹ đã để lại hậu quả hơn 30 năm chiến
tranh vô cùng khốc liệt cho nhân dân Việt Nam, song quá khứ đã khép lại, con
đường tương lai quan hệ hai nước còn cả một chằng đường dài phát triển.
Palmerston Ngoại trưởng Anh giữa thể kỷ 19 có một câu nói rất nổi tiếng:
“Chúng ta không có đồng minh vĩnh viễn, cũng không có kẻ thù vĩnh viễn.
Chúng ta chỉ có lợi ích vĩnh viễn mà chúng ta cần phải theo đuổi”. Qua đó, ta
rút ra được nhiều bài học sâu sắc trong đường lối chính sách đối với các nước
một cách vững vàng, tỉnh táo, đúng đắn. Mỗi hoạt động đối ngoại phải là sự kết
hợp nhuần nhuyễn nguyên tắc và sách lược, mang lại hiệu quả cho mục tiêu đề
ra.
Qua hình ảnh “kẻ thù” được phân tích qua nhiều cái nhìn, ta một lần được
nhìn lại lịch sử dân tộc một cách rõ nét, chân thực để từ đó chúng ta càng biết
trân trọng hơn những gì của hiện tại và nỗ lực phấn đấu cho công cuộc đổi mới
mà Đảng đề ra để nước nhà có thể sánh vai với các cường quốc năm châu như
Bác từng trông mong.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 43, Nxb
Chính trị Quốc gia, 2006
2. Văn kiện Đảng toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội
2004.
3. Nguyễn Đình Bin (chủ biên), Ngoại giao Việt Nam 1945-2000, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội 2005.
4. TS. Nguyễn Vũ Tùng (biên soạn), Chính sách đối ngoại Việt Nam, tập
II, Nxb Thế giới, Hà Nội 2007.
5. PGS.TS. Nguyễn Văn Lan, Bảy mươi năm đối ngoại Việt Nam: Thành
tựu và những bài học kinh nghiệm, Tạp chí Cộng sản
6. Nghiên cứu quốc tế, Nhìn lại cuộc chiến Việt-Trung năm 1979
http://nghiencuuquocte.org/2015/11/04/nhin-lai-cuoc-chien-viet-trung-
nam-1979/
7. Nghiên cứu quốc tế, Quan hệ Việt Nam – Campuchia: Bài học quá khứ
cho tương lai
http://nghiencuuquocte.org/forums/topic/quan-viet-nam-campuchia-bai-
hoc-qua-khu-cho-tuong-lai/
8. Nguyễn Thị Mai Hoa, Mâu thuẫn, xung đột trong quan hệ Việt - Trung
và chiến tranh biên giới tháng 2 – 1979
http://www.vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-
goc-nhin-van-hoa/mau-thuan,-xung-dot-trong-quan-he-viet-trung-va-chien-
tranh-bien-gioi-thang-2-1979
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 8
STT Họ và tên Mã sinh viên
1 Quản Thị Vân Anh CT43A-003-1620
2 Hoàng Triệu Thanh Hằng CT43A-009-1620
3 Trần Thanh Hằng CT43A-011-1620
4 Trần Thị Thúy Hằng * CT43A-012-1620
5 Nguyễn Thị Thu Trang CT43A-037-1620
6 Bounthieng Xayyasan CT43A-093-1620
7 Naly Bounmany CT43A-098-1620