BỘ NGOẠI GIAO

HỌC VIỆN NGOẠI GIAO VIỆT NAM



KHOA KINH TẾ QUỐC TẾ

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN

MÔN: CÔNG TÁC NGOẠI GIAO Đề tài: Chiến lược ngoại giao văn hóa của Việt Nam

và so sánh với Nhật Bản, Hàn Quốc trong thế kỷ XXI

:T.S. Doãn Mai Linh Giảng viên hướng dẫn

:Trần Phương Thanh Sinh viên thực hiện

:KT46B Lớp

:KT46B-072-1923 Mã sinh viên

Hà Nội, năm 2021.

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN ......................................................................... 1

1.1 Khái niệm về ngoại giao văn hóa (cultural diplomacy): ............................ 1

1.2 Các loại hình chính của ngoại giao văn hóa .............................................. 2

CHƯƠNG 2: CHIẾN LƯỢC NGOẠI GIAO VĂN HÓA CỦA VIỆT NAM .... 3

2.1 Quan điểm ngoại giao văn hóa của Việt Nam ........................................... 3

2.2 Chiến lược ngoại giao văn hóa của Việt Nam ........................................... 4

2.1.1 Biện pháp chính sách ........................................................................... 4

2.1.2 Các biện pháp cụ thể ........................................................................... 5

2.3 Công tác triển khai ngoại giao văn hóa trong thực tế và một số thành tựu

đạt được .................................................................................................................. 7

CHƯƠNG 3: CHIẾN LƯỢC NGOẠI GIAO VĂN HÓA CỦA CÁC NƯỚC

KHÁC ......................................................................................................................11

3.1 Chiến lược ngoại giao văn hóa của Nhật Bản ..........................................11

3.2 Chiến lược ngoại giao văn hóa của Hàn Quốc ........................................13

3.3 Một số bài học kinh nghiệm rút ra cho ngoại giao văn hóa Việt Nam ....14

LỜI KẾT

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Lời mở đầu

Trong thế kỷ XXI, Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng với khu vực và thế

giới về các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa. Để đạt được những thành công trong

hoạt động hội nhập, sự giúp ích của ngoại giao là vô cùng quan trọng. Trong Hội

nghị Ngoại giao lần thứ 25, Bộ Ngoại giao đã xác định ba trụ cột chính của ngoại

giao toàn diện Việt Nam đó là ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hóa và ngoại giao

chính trị. Tuy ngoại giao văn hóa là một khái niệm còn khá mới mẻ nhưng đã chứng

minh được vai trò quan trọng của mình trong quá trình xây dựng và phát triển đất

nước, vừa tham gia hỗ trợ cho các hoạt động kinh tế, chính trị, vừa giúp quảng bá

hình ảnh, nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế.

Nhận thấy tầm quan trọng của ngoại giao văn hóa, Chính phủ ta đã ban hành

Chiến lược về Ngoại giao văn hóa giai đoạn 2011-2020 để xác định rõ ràng các mục

tiêu, quan điểm, biện pháp triển khai thực hiện của ngoại giao văn hóa. Bài tiểu luận

này với chủ đề : “Chiến lược ngoại giao văn hóa của Việt Nam và so sánh với Nhật

Bản, Hàn Quốc trong thế kỷ XXI” sẽ làm sáng tỏ về việc thực hiện triển khai chiến

lược này. Bài tiểu luận gồm ba phần chính: Phần thứ nhất sẽ trình bày về một số cơ

sở lý thuyết của ngoại giao văn hóa; phần thứ hai viết về chiến lược ngoại giao văn

hóa của Việt Nam, việc triển khai và những thành tựu đạt được trong thế kỉ XXI;

phần thứ ba là so sánh chiến lược ngoại giao văn hóa của Việt Nam với nước Nhật

Bản và Hàn Quốc.

Trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu tiểu luận, do trình độ còn hạn chế nên

không thể tránh khỏi những sai sót, em mong nhận được sự nhận xét, đóng góp của

cô để bài tiểu luận của em được hoàn thiện hơn.

Em xin chân thành cảm ơn cô.

1

1.1 Khái niệm về ngoại giao văn hóa (cultural diplomacy):

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN

Có rất nhiều nhận định hoặc khái niệm khác nhau về ngoại giao văn hóa ở Việt

Nam cũng như trên thế giới. Theo như Tạp chí Công tác ngoại giao của Đại học

Quan hệ Quốc tế Moscow (Nga) thì: “Ngoại giao văn hoá là lĩnh vực đặc biệt của

hoạt động ngoại giao, liên quan đến việc sử dụng văn hoá như là đối tượng và phương

tiện nhằm đạt những mục tiêu cơ bản của chính sách đối ngoại của quốc gia, tạo hình

ảnh tốt đẹp của đất nước, quảng bá văn hoá và ngôn ngữ quốc gia”1. Hay một nhận

định khác của nhà nghiên cứu Nhật Bản O. Ka-du-ô lại cho rằng: “Mục tiêu chủ chốt

của ngoại giao văn hóa là tăng cường, cải thiện hình ảnh và uy tín của quốc gia thông

. Vụ Văn hóa Đối ngoại và UNESCO của Bộ Ngoại giao

qua các khía cạnh văn hóa”2

Việt Nam định nghĩa: “Ngoại giao văn hóa là một hoạt động đối ngoại, được nhà

nước tổ chức, ủng hộ hoặc bảo trợ. Hoạt động này được triển khai trong một thời

gian nhất định nhằm đạt được những mục tiêu chính trị, đối ngoại xác định, bằng

các hình thức văn hóa như: nghệ thuật, lịch sử, tư tưởng, truyền thống, ẩm thực,

phim, ấn phẩm, văn học”3.

Các khái niệm và nhận định trên về ngoại giao văn hóa tuy có sự khác nhau

nhưng đều có những điểm chung cơ bản, có thể hiểu ngoại giao văn hóa cũng là một

lĩnh vực của ngoại giao mà sử dụng công cụ văn hóa chủ đạo để thực hiện các mục

tiêu, nhiệm vụ góp phần hỗ trợ cho việc xây dựng và phát triển đất nước về mọi lĩnh

vực như kinh tế, chính trị, an ninh; đặc biệt ngoại giao văn hóa cũng đóng vai trò

cầu nối để vừa giúp quảng bá, nâng cao uy tín, vị thế quốc gia, vừa tiếp thu tinh hoa

1Bộ Ngoại giao: Ngoại giao văn hóa vì một bản sắc Việt Nam trên trường quốc tế, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2008,

tr.123

2O. Ka-du-ô: Japan’s Postwar Cultural Diplomacy, Center for Area Studies, 2008, tr. 2 3Bộ Ngoại giao: Hội nhập quốc tế và giữ vững bản sắc, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.18

văn hóa nhân loại, làm giàu thêm cho nền văn hóa nước nhà.

2

1.2 Các loại hình chính của ngoại giao văn hóa

- Thông tin, tuyên truyền

Bao gồm các sách, tài liệu và các phương tiện thông tin đại chúng; kênh truyền

hình VTV4, Đài Tiếng nói Việt Nam VOV, các báo điện tử như báo Nhân dân điện

tử, các tài liệu của Tổng cục Du lịch, Hàng không Việt Nam; Các hội nghị, hội thảo,

nói chuyện, triển lãm, các ngày lễ, ngày kỷ niệm...

- Giao lưu, trao đổi đoàn văn hoá, nghệ thuật

Tổ chức giao lưu, trao đổi đoàn văn hoá, nghệ thuật là một trong những hoạt

động của ngoại giao văn hóa. Việt Nam thường cử các đoàn văn hoá, văn nghệ đi

nước ngoài tham gia các hoạt động giới thiệu về đất nước, con người Việt Nam nhân

dịp các ngày lễ lớn của dân tộc. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng tổ chức các chương

trình hợp tác, trao đổi văn hóa, giáo dục, công nghệ giúp cho Việt Nam quảng bá

được những nét đặc trưng văn hoá của mình tới thế giới, đồng thời học hỏi, trao đổi

kinh nghiệm với các nước khác và tranh thủ sự hỗ trợ nguồn lực, trang thiết bị để

nâng cao trình độ biểu diễn văn hoá, nghệ thuật của Việt Nam.

- Xây dựng các cơ sở, công trình văn hoá, lịch sử ở nước ngoài

Việt Nam đã xây dựng một số công trình văn hoá, lịch sử, các trung tâm văn hóa

ở nước ngoài, giúp giới thiệu, quảng bá văn hoá Việt Nam tới thế giới hiệu quả hơn.

- Hợp tác tổ chức các sự kiện văn hóa chung

- Tham gia các hoạt động hợp tác quốc tế về văn hoá như các đợt liên hoan

phim, âm nhạc, nghệ thuật quốc tế, triển lãm sách, tranh ảnh nghệ thuật tại các

nước, qua kênh hợp tác UNESCO, Diễn đàn hợp tác Á - Âu, ASEAN,...

- Tham gia các hoạt động liên ngành

- Tham gia cơ chế hợp tác quốc tế như UNESCO, WTO,...

- Các hoạt động tổ chức trong nước: các lễ hội, cuộc thi về văn hóa, festival,…

3

2.1 Quan điểm ngoại giao văn hóa của Việt Nam

CHƯƠNG 2: CHIẾN LƯỢC NGOẠI GIAO VĂN HÓA CỦA VIỆT NAM

Từ khi nhà nước cổ đại ra đời cho đến một nhà nước hiện đại Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam ngày nay, lịch sử ngoại giao luôn in đậm dấu ấn của văn hóa.

Điều này có thể được thấy rõ trong chiến lược “ngoại giao tâm công” của ông cha ta

khi dùng sức mạnh thơ ca để giành chiến thắng trong đối ngoại. Tuy vậy, khái niệm

“ngoại giao văn hóa” vẫn là một khái niệm hiện đại, mới mẻ và mới chỉ được quan

tâm đặc biệt hơn từ đầu thế kỉ XXI tới nay.

Bắt đầu từ những năm 2000, các chuyên gia tại Bộ Ngoại giao đã khởi xuất vấn

đề ngoại giao văn hóa, sau đó tổ chức nhiều cuộc hội thảo để bàn luận, tham khảo ý

kiến từ các nhà nghiên cứu, nhà ngoại giao. Sau nhiều lần được đưa ra bàn thảo trong

các kỳ hội nghị ngoại giao của Bộ Ngoại giao, lần đầu tiên tại Hội nghị Ngoại giao

lần thứ 25 năm 2006, ngoại giao văn hóa được xác định là trụ cột trong chính sách

ngoại giao toàn diện của Việt Nam, cùng với ngoại giao chính trị và ngoại giao kinh

tế. Theo đó, ngoại giao văn hóa sẽ tạo nền tảng tinh thần, đóng vai trò mở đường cho

ngoại giao chính trị và kinh tế. Năm 2008, Bộ Ngoại giao ban hành chỉ thị số

4252/2008/CT-BNG, ngày 23-12-2008: “Về tăng cường công tác ngoại giao văn hóa

tạo động lực mới cho Ngoại giao Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế”. Điều

này thể hiện vai trò của ngoại giao văn hóa đã từng bước khẳng định trong công tác

đối ngoại thời kỳ mới. Một điểm nhấn đặc biệt quan trọng là năm 2009, Nguyên Phó

Thủ tướng Bộ trưởng Phạm Gia Khiêm đã lựa chọn chủ đề công tác năm là “Năm

Ngoại giao Văn hóa”. Thành tựu nổi bật của năm này là đã tạo được bước chuyển

biến rõ nét trong nhận thức cũng như hành động của các cấp, các ngành và địa

phương về tầm quan trọng của ngoại giao văn hóa cũng như tạo động lực mạnh mẽ

cho việc triển khai các chiến lược, hội thảo thiết thực về ngoại giao văn hóa trong

các năm tiếp theo. Ngoại giao văn hóa tiếp tục được nâng tầm, khi được đề cập đến

4

trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (năm 2011): “Phối hợp chặt

chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và ngoại giao nhân dân;

giữa ngoại giao chính trị với ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hoá; giữa đối ngoại

với quốc phòng, an ninh.”4. Sau nhiều nỗ lực, Bộ Ngoại giao đã hình thành và trình

Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược về Ngoại giao văn hóa giai đoạn 2011-

2020. Nhờ có chiến lược này, nội hàm, quan điểm, mục tiêu và các biện pháp của

ngoại giao văn hóa được xác định rõ ràng, bài bản tạo điều kiện thuận lợi cho các

đơn vị, cơ quan, tổ chức thực hiện công tác ngoại giao văn hóa, đồng thời khẳng

định một lần nữa ý nghĩa, vai trò của ngoại giao văn hóa đối với sự phát triển của

đất nước.

Như vậy, có thể thấy Đảng và các cơ quan chính quyền ngày càng nhấn mạnh

tầm quan trọng của ngoại giao văn hóa, không ngừng bổ sung các chiến lược, chỉ thị

đầy đủ, toàn diện hơn để xây dựng và phát triển ngoại giao văn hóa phù hợp với tình

2.2 Chiến lược ngoại giao văn hóa của Việt Nam

hình trong nước và bối cảnh thế giới.

Trong suốt 10 năm, công tác ngoại giao văn hóa Việt Nam đã được thực hiện

theo một quy trình bài bản trong Chiến lược về Ngoại giao văn hóa giai đoạn 2011-

2020 do Thủ tướng Chính phủ đã ban hành. Để hoàn thành các mục tiêu đề ra, cần

thực hiện các biện pháp chiến lược về ngoại giao văn hóa:

2.1.1 Biện pháp chính sách

4 Cổng thông tin điện tử Chính phủ nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Truy cập ngày 14/06/2021. Từ

http://chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/NuocCHXHCNVietNam/ThongTinTongHop/noidungvankiendaihoi dang?categoryId=10000716&articleId=10038382

a) Tăng cường lý luận và nhận thức về ngoại giao văn hóa

5

Cần phải hoàn thiện hệ thống lý luận và xác định rõ vai trò, vị trí của ngoại giao

văn hóa trong tổng thể nền ngoại giao để qua đó tạo nhận thức chung cho lãnh đạo

các cấp, ngành, địa phương, nhằm đưa công tác này trở thành một nhiệm vụ thường

xuyên của toàn xã hội. Đồng thời, công tác nghiên cứu, dự báo văn hóa, ngoại giao

phải được đẩy mạnh qua các hội thảo, tọa đàm cấp quốc gia, khu vực, quốc tế.

b) Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách về ngoại giao văn hóa

Các cơ chế, chính sách về ngoại giao phải được hoàn thiện toàn diện, phù hợp

với pháp luật và đường lối đối ngoại của Đảng, điều chỉnh, bổ sung phù hợp với sự

phát triển của đất nước và cam kết quốc tế; gắn kết công tác ngoại giao văn hóa với

các kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa, du lịch để tạo tính cộng hưởng trong mục

tiêu phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương. Bên cạnh đó, cơ chế phối hợp

phải được xây dựng giữa các Bộ, ngành, địa phương nhằm xác định rõ chức năng,

nhiệm vụ của các đơn vị trong việc chủ trì, phối hợp tổ chức các chương trình văn

hóa có yếu tố nước ngoài ở trong và ngoài nước.

2.1.2 Các biện pháp cụ thể

a) Đẩy mạnh các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho công tác

ngoại giao văn hóa

Đội ngũ cán bộ trong lĩnh vực ngoại giao văn hóa cần được xây dựng vững chắc

thông qua các hoạt động bồi dưỡng kiến thức về ngoại giao văn hóa như mở các lớp

bồi dưỡng, đưa nội dung ngoại giao văn hóa vào giảng dạy tại một số trường Đại

học chuyên ngành như Học viện Ngoại giao, Học viện Báo chí và tuyên truyền, đồng

thời tăng cường giao lưu văn hóa giữa học sinh, sinh viên với các nước trong khu

vực và quốc tế.

b) Bảo đảm nguồn lực cho ngoại giao văn hóa

6

Bảo đảm sự vững chắc về tài chính, vật chất cho các hoạt động của công tác

ngoại giao văn hóa bằng nguồn kinh phí từ ngân sách nhà nước hoặc thu hút các

doanh nghiệp tư nhân tài trợ, đóng góp phù hợp với quy định của pháp luật.

c) Gắn kết các hoạt động ngoại giao văn hóa với công tác về cộng đồng người

Việt Nam ở nước ngoài

d) Gắn kết ngoại giao văn hóa với ngoại giao chính trị và ngoại giao kinh tế

Tổ chức các chương trình Ngày Việt Nam ở nước ngoài, các sự kiện văn hóa

nhân dịp quan trọng như ngày thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và các

nước, ngày Quốc khánh, giúp cho tình hữu nghị, tin cậy, giữa nhân dân các nước với

Việt Nam được tăng cường và thu hút đầu tư nước ngoài, đẩy mạnh trao đổi thương

mại, phát triển du lịch.

đ) Đẩy mạnh quảng bá hình ảnh Việt Nam

Triển khai các hoạt động quảng bá hình ảnh đất nước, con người và văn hóa Việt

Nam như tổ chức du lịch sinh thái, lễ hội, làng nghề truyền thống; tổ chức các

festival, cuộc thi vẽ tranh, sáng tác phim, viết sách sử dụng các phương tiện truyền

thông hiện đại để quảng bá bằng nhiều ngôn ngữ. Những hoạt động này sẽ giúp bạn

bè quốc tế có nhiều cơ hội tiếp cận và hiểu hơn về Việt Nam. Bên cạnh đó, tăng

cường hợp tác trên lĩnh vực ngoại giao văn hóa tại các diễn đàn song phương và đa

phương để thúc đẩy quảng bá hình ảnh Việt Nam với các nước, giúp các mối quan

hệ này thêm sâu sắc, ổn định và bền vững.

e) Đa dạng hóa các loại hình vận động danh hiệu quốc tế

Các di sản văn hóa của đất nước cần phải được bảo tồn, gìn giữ, đồng thời xây

dựng lộ trình cụ thể để đẩy mạnh việc vận động các tổ chức quốc tế công nhận mới

các danh hiệu văn hóa quốc tế cho đối tượng và loại hình văn hóa của Việt Nam.

7

g) Tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại có chọn lọc

Như vậy, các biện pháp chiến lược về ngoại giao văn hóa của Việt Nam được

xây dựng một cách đầy đủ, toàn diện. Việc hoàn thiện cơ sở lý luận, chính sách là

vô cùng cần thiết để tạo nên sự thống nhất, đoàn kết trong cả nước khi triển khai các

hoạt động ngoại giao văn hóa. Trong khi, các biện pháp cụ thể sẽ là cơ sở cho việc

lên các kế hoạch triển khai chi tiết của cơ quan, ban ngành sao cho phù hợp với đặc

2.3 Công tác triển khai ngoại giao văn hóa trong thực tế và một số thành

tựu đạt được

điểm kinh tế, chính trị, văn hóa của mỗi địa phương trong cả nước.

Kể từ khi có chiến lược rõ ràng, ngoại giao văn hóa đã được triển khai một cách

hiệu quả, bài bản ở trong và ngoài nước với sự tham gia của các cơ quan, ban, ngành,

địa phương và đã đạt nhiều thành tựu nổi bật, tạo điều kiện phát triển đất nước:

Thứ nhất, công tác ngoại giao văn hóa đã được gắn kết trong các hoạt động ngoại

giao chính trị, kinh tế. Trong các chuyến thăm của lãnh đạo cấp cao Việt Nam ra

nước ngoài, hay trong các buổi tiếp đón các vị lãnh đạo nước ngoài đến Việt Nam,

mục tiêu quảng bá hình ảnh Việt Nam đã được chú trọng và thực hiện thành công

song hành các mục tiêu về chính trị và kinh tế. Một ví dụ điển hình là trong chuyến

thăm chính thức Liên bang Nga năm 2019, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã cùng

với Thủ tướng Dmitry Medvedev và phu nhân đến thăm triển lãm “Ngày Việt Nam

tại Nga” ở Moscow và đồng thời Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã trao tặng bức

tranh dân gian Đông Hồ có tên “Vinh hoa” cho Thủ tướng Nga. Việc tặng một món

quà gắn với ý nghĩa phong tục, văn hóa của Việt Nam như thế này vừa giúp thể hiện

tình cảm, thông điệp mà người tặng muốn gửi gắm, vừa là cơ hội quảng bá đến nước

bạn dòng tranh dân gian nổi tiếng của Việt Nam. Hay trong chuyến thăm và làm việc

chính thức của Công chúa Thuỵ Điển Victoria tới Việt Nam năm 2019, bà đã được

tặng một chiếc khăn lụa tơ tằm dài 2m, vẽ phong cảnh đặc trưng của Thụy Điển bởi

8

Nguyên Phó chủ tịch nước Đặng Thị Ngọc Thịnh. Món quà này cũng đã góp phần

giới thiệu về nghề dệt lụa tơ tằm truyền thống của Việt Nam. Ngoài ra, sự thành công

của các chương trình biểu diễn văn hóa, nghệ thuật trong các chuyến thăm, hội nghị

cấp cao cũng đã chứng minh việc lồng ghép các hoạt động ngoại giao văn hóa với

hoạt động kinh tế, chính trị là rất hiệu quả.

Thứ hai, các hoạt động nhằm tăng cường hợp tác trên lĩnh vực ngoại giao văn

hóa tại các diễn đàn song phương và đa phương cũng đã được triển khai mạnh mẽ.

Việt Nam luôn cố gắng là đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm của cộng đồng

quốc tế như ASEAN, WTO; luôn tham gia tích cực trong các diễn đàn hợp tác kinh

tế liên khu vực như ASEM, APEC và tham gia ký kết các hiệp định thương mại quan

trọng như CPTPP, EVFTA, RCEP, là những điều kiện thuận lợi cho việc quảng bá

hình ảnh Việt Nam với các nước, khu vực khác. Trong năm 2019, Việt Nam đã tổ

chức thành công Hội nghị Thượng đỉnh Mỹ - Triều Tiên lần thứ hai diễn ra tại Hà

Nội với công tác chuẩn bị chu đáo chỉ trong một thời gian ngắn. Đây là một cơ hội

rất tốt để các công tác ngoại giao văn hóa thể hiện vai trò của mình trong việc quảng

bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới thông qua những thông tin và hình ảnh đẹp về một

Hà Nội, một Việt Nam đầy uy tín, thân thiện, luôn chủ động, tích cực đóng góp vào

công việc chung của khu vực và thế giới. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đảm nhiệm

cương vị Chủ tịch ASEAN năm 2020 trong tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn biến

phức tạp ở trong nước và trên thế giới. Nhưng nhờ sự kiểm soát, chống dịch hiệu

quả, các công tác ngoại giao văn hóa vẫn được duy trì, triển khai góp phần giới thiệu

hình ảnh đất nước, con người Việt Nam đến bạn bè trong khu vực và thế giới.

Thứ ba, các hoạt động ngoại giao văn hóa tại diễn đàn văn hóa đa phương lớn

nhất thế giới UNESCO ngày càng được triển khai một cách bài bản, chuyên nghiệp.

Quan hệ hợp tác của Việt Nam với UNESCO trên mọi lĩnh vực thuộc thẩm quyền

được tăng cường. Việt Nam và UNESCO đã ký kết Bản ghi nhớ (MOU) hợp tác

9

giữa hai bên giai đoạn 2016 – 2020; đảm nhiệm vị trí Phó Chủ tịch Chương trình Ký

ức thế giới khu vực châu Á - Thái Bình Dương (MOWCAP). Bên cạnh đó, Việt Nam

cũng chủ động xây dựng, triển khai kế hoạch ứng cử vào 3 cơ quan quan trọng của

UNESCO là Hội đồng Chấp hành UNESCO nhiệm kỳ 2021-2025, Ủy ban Di sản

Thế giới nhiệm kỳ 2023-2027, Ủy ban liên Chính phủ Công ước 2003 về bảo vệ di

sản văn hóa phi vật thể nhiệm kỳ 2022-2026. Đặc biệt, Việt Nam rất nỗ lực để triển

khai các kế hoạch ngoại giao văn hóa vận động UNESCO công nhận các di sản văn

hóa vật thể, phi vật thể của Việt Nam là di sản văn hóa của nhân loại và đã đạt được

một số thành tựu nhất định.

Việt Nam đã vận động UNESCO công nhận 28 di sản tại Việt Nam gồm: 2 di

sản thiên nhiên (Vịnh Hạ Long, Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng); 5 di sản văn

hóa (quần thể di tích Cố đô Huế, Đô thị Hội An, Khu đền tháp Mỹ Sơn, Khu di tích

trung tâm Hoàng thành Thăng Long, Thành nhà Hồ); 13 di sản văn hóa phi vật thể

(Nhã nhạc cung đình Huế, Dân ca quan họ Bắc Ninh, Hát ca trù, Hội Gióng,...) và

các di sản văn hóa khác5. Năm 2020, Việt Nam đạt được số lượng hồ sơ được thông

qua và số lượng hồ sơ đệ trình tổ chức UNESCO nhiều nhất từ trước tới nay với 1

Công viên địa chất toàn cầu Đắk Nông được công nhận, 2 thành phố Vinh và thành

phố Sa Đéc được vào mạng lưới các thành phố học tập của UNESCO6. Nhờ có các

danh hiệu quốc tế mà UNESCO dành cho Việt Nam, bạn bè quốc tế có thêm một

cách thức hữu hiệu để hiểu rõ hơn về đất nước, con người, lịch sử của nước ta. Như

vậy, các hoạt động ngoại giao văn hóa của Việt Nam đã góp phần nâng cao hình ảnh,

5 Yến, L. T. H. & Hương, T. T. (2020) Ngoại giao văn hóa Việt Nam: Một thập niên nhìn lại. Từ https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-/2018/35898/ngoai-giao-van-hoa-viet-nam--hoi-nhap-quoc-te-va- loi-ich-quoc-gia.aspx?fbclid=IwAR31D5dtZyO_7QQ0sGFowC508tQoZw8eomi1Mt2ud0Iyp6Ah1otZJPwdnvM

6 Trung, L. H. (2021). Ngoại giao Văn hóa góp phần phát huy sức mạnh mềm của Việt Nam. Từ

https://dangcongsan.vn/thoi-su/ngoai-giao-van-hoa-gop-phan-phat-huy-suc-manh-mem-cua-viet-nam-573751.html

uy tín Việt Nam trên thế giới.

10

Thứ tư, ở trong nước, ngoại giao văn hóa được triển khai thông qua việc tổ chức

các hội nghị, hội thảo quốc tế, các sự kiện có yếu tố nước ngoài như lễ hội, festival,

hội chợ quảng bá. Điển hình, Việt Nam rất tích cực tổ chức các lễ hội, sự kiện hàng

năm như Lễ hội hoa anh đào Nhật Bản - Hà Nội từ năm 2016; Lễ hội ẩm thực văn

hóa Việt Nam - Hàn Quốc từ năm 2017; Lễ hội Ném còn ba nước Việt Nam - Lào -

Trung Quốc từ năm 2014. Hoạt động ngoại giao văn hóa này không chỉ giúp tăng

cường hơn nữa sự hiểu biết, tin cậy và gắn kết giữa người dân Việt Nam và người

dân các nước mà còn giúp thúc đẩy quan hệ hữu nghị với các nước đối tác. Đồng

thời, công tác ngoại giao văn hóa cũng đóng góp thiết thực trong quá trình xây dựng

thông điệp quốc gia và thương hiệu địa phương thông qua việc tổ chức các sự kiện

như Lễ hội pháo hoa Đà Nẵng, Lễ hội hoa Đà Lạt, Festival Huế. Một số chương trình

ngoại giao văn hóa quy tụ các diễn giả hàng đầu của khu vực và thế giới cũng để lại

những dấu ấn đặc biệt trong cộng đồng quốc tế. Đặc biệt là chuỗi các hội thảo Biển

Đông được tổ chức bởi Học viện Ngoại giao qua các năm đã góp phần xây dựng

nhận thức đúng đắn về vấn đề chủ quyền biển, đảo của Việt Nam trong khu vực. Bên

cạnh đó, nhiều cuộc thi về các lĩnh vực văn hóa cũng được triển khai mạnh mẽ như

Cuộc thi và triển lãm ảnh Di sản văn hóa toàn quốc, Cuộc thi truyện tranh Manga

Quốc tế Nhật Bản,...

Thứ năm, ở nước ngoài, tất cả Cơ quan đại diện Việt Nam đã nỗ lực phối hợp

với chính quyền, các đơn vị trong nước, người dân sở tại tích cực để tổ chức nhiều

hoạt động ngoại giao văn hóa với nội dung, hình thức đa dạng, sáng tạo. Nổi bật là

các hoạt động giới thiệu, quảng bá các triết lý, tư tưởng của người Việt Nam thông

qua hình thức tôn vinh các cá nhân tiêu biểu như danh nhân văn hóa Nguyễn Trãi,

đại thi hào Nguyễn Du,... và đặc biệt là Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc triển khai đề

án “Tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt

xuất của Việt Nam ở nước ngoài 2010 - 2020” đã mang lại kết quả hết sức tốt đẹp

11

trong những năm qua. Hoạt động tôn vinh Bác Hồ ở nước ngoài được chính quyền,

người dân sở tại tích cực hưởng ứng qua các hình thức như xây dựng công trình

tượng đài, công viên, bảo tàng,... mang tên Bác hay tổ chức các cuộc triển lãm, hội

thảo quốc tế, xuất bản phim ảnh về cuộc đời, sự nghiệp của Người. Ngoài ra, sự ổn

định hoạt động của các trung tâm văn hóa Việt Nam ở nước ngoài cũng là điều kiện

thuận lợi để Việt Nam giới thiệu và giao lưu văn hóa tại các nước khác trên thế giới.

CHƯƠNG 3: CHIẾN LƯỢC NGOẠI GIAO VĂN HÓA CỦA CÁC

3.1 Chiến lược ngoại giao văn hóa của Nhật Bản

NƯỚC KHÁC

Nhật Bản được đánh giá là cường quốc kinh tế của Châu Á. Bên cạnh những

thành công vượt trội về kinh tế, văn hóa, ngoại giao của Nhật Bản cũng đạt được rất

nhiều thành tựu to lớn. Đặc biệt, các hoạt động ngoại giao văn hóa rất được Nhật

Bản chú trọng phát triển. Đây chính là một trong những lí do chủ yếu góp phần tạo

dựng, quảng bá, lan truyền hình ảnh, vị thế của Nhật Bản ra khắp thế giới. Ngay từ

sau chiến tranh thế giới thứ hai, khái niệm về ngoại giao văn hóa ở Nhật Bản đã được

hình thành tạo tiền đề cho việc xây dựng các chính sách, chiến lược sau này. Năm

2005, Chính phủ Nhật Bản công bố Chiến lược ngoại giao văn hóa thế kỷ XXI đã

xác định được mục tiêu đồng thời đưa ra được các phương thức chính để triển khai

cho công tác ngoại giao văn hóa:

Thứ nhất, Nhật Bản rất coi trọng hoạt động truyền bá văn hóa của mình trong

đất nước cũng như trên thế giới. Trong đó, Nhật Bản xác định các công cụ truyền bá

văn hóa chủ chốt là sự phổ cập tiếng Nhật, giao lưu văn hóa, tác phẩm văn học, tranh

ảnh, hoạt hình, âm nhạc, điện ảnh. Đặc biệt, trong thời đại toàn cầu hóa và sự phát

triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ, Nhật Bản rất chú trọng quảng bá văn hóa

thông qua Internet, tập trung vào các đối tượng cụ thể đặc biệt là giới trẻ. Một trong

những đặc sản điện ảnh Nhật mà có thể dễ dàng tìm kiếm trên mạng đó là các bộ

12

phim hoạt hình gắn với tuổi thơ trẻ em trên toàn thế giới như Doremon, Pokemon,

Naruto,…Thông qua nội dung của các bộ phim, những nét đẹp biểu tượng của đất

nước mặt trời mọc có thể được tái hiện như hình tượng võ sĩ Samurai, núi Phú Sĩ,

hoa anh đào,…Hay Nhật Bản cũng rất chú trọng giới thiệu những nét ẩm thực đặc

trưng như trà đạo, Sushi, Sashimi đến khắp nơi trên thế giới. Nhờ đẩy mạnh việc

truyền bá văn hóa mạnh mẽ, Nhật Bản đã để lại những ấn tượng tốt đẹp trong mắt

bạn bè quốc tế về hình ảnh một đất nước phát triển, thân thiện, con người chăm chỉ,

kỷ luật. Đây cũng chính là một trong những thành công tiêu biểu trong chiến lược

ngoại giao văn hóa của Nhật Bản.

Thứ hai, Nhật Bản là một quốc gia có lịch sử tiếp nhận văn minh từ nhiều nền

văn minh khác nhau như văn minh Trung Hoa, văn minh phương Tây, văn minh hiện

đại Mỹ. Do đó, chắc chắn Nhật Bản đã tiếp thu được không chỉ tri thức, kinh nghiệm,

khoa học tiên tiến mà còn cả tinh hoa văn hóa. Và thực tế trải qua nhiều năm phát

triển chứng minh rằng Nhật Bản đã có một sự chuyển mình ấn tượng về kinh tế, văn

hóa, ngoại giao nhờ vào các hoạt động tiếp thu tinh hoa nhân loại. Do đó, trong chiến

lược ngoại giao văn hóa của mình, Nhật Bản cũng đề cao biện pháp “hấp thu” tinh

hoa văn hóa từ các nền văn hóa khác nhau và coi đó là công cụ đắc lực để thúc đẩy

văn hóa phát triển. Đồng thời, Nhật Bản cũng có những thay đổi trong chính sách

của mình từ “hấp thu có sáng tạo” thành “sáng tạo văn hóa” cho phù hợp với các

chiến lược ngoại giao văn hóa được xây dựng trong thế kỉ XXI. Có thể thấy chiến

lược ngoại giao văn hóa này của Nhật Bản cũng giống như Việt Nam, là cần phải

tăng cường công tác nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa, tri thức, kinh

nghiệm tiên tiến thế giới vào Việt Nam để hoàn thiện và làm phong phú kho tàng

văn hóa, tri thức của đất nước.

Thứ ba, Nhật Bản khẳng định công tác ngoại giao văn hóa có sự liên kết chặt

chẽ với ngoại giao kinh tế. Ngoại giao văn hóa không chỉ phục vụ cho việc quảng

13

bá hình ảnh đất nước, con người mà đồng thời cũng phải hỗ trợ, đảm nhiệm vai trò

của ngoại giao kinh tế. Trong lịch sử phát triển của Nhật Bản, nền ngoại giao văn

hóa thực sự đã đóng góp, mang lại lợi nhuận kinh tế cho đất nước. Cụ thể, nhờ các

hoạt động truyền bá mạnh mẽ, văn hóa của Nhật Bản đã và đang ngày càng thu hút

được sự quan tâm của các đối tác, bạn bè quốc tế. Do đó, các bộ phim được sản xuất

bởi Nhật Bản hay các hàng hóa mang nhãn mác Nhật Bản đều rất được ưa chuộng

và đón nhận trên thị trường thế giới và việc xuất khẩu các bộ phim, hàng hóa này

đều mang về doanh thu rất cao cho nền kinh tế. Vì vậy, chính phủ Nhật Bản luôn cố

gắng phải tạo một môi trường thuận tiện cho xuất khẩu hàng hóa văn hóa của Nhật

Bản tại thị trường nước ngoài. Chiến lược này của Nhật Bản khẳng định lại một lần

nữa sự đúng đắn trong chiến lược của Việt Nam khi gắn kết ngoại giao văn hóa với

3.2 Chiến lược ngoại giao văn hóa của Hàn Quốc

ngoại giao chính trị và ngoại giao kinh tế.

Hàn Quốc là một quốc gia có công tác ngoại giao văn hóa phát triển mạnh mẽ ở

khu vực châu Á. Chiến lược ngoại giao văn hóa chủ chốt mà Hàn Quốc đưa ra là đẩy

mạnh phát triển ngành công nghiệp văn hóa gắn với các yếu tố quốc tế để qua đó

quảng bá hình ảnh đất nước, con người tới thế giới.

Điện ảnh: Chính phủ Hàn Quốc đã tuyển chọn những nhân tài điện ảnh gửi sang

Mỹ để học hỏi tinh hoa nghệ thuật của Hollywood là điều kiện để khởi động bước

nhảy thần kỳ cho điện ảnh Hàn. Các hãng phim Hàn Quốc sản xuất phim ở mọi đề

tài phù hợp với thị hiếu của khán giả trong nước cũng như quốc tế. Điển hình như

các bộ phim khai thác lịch sử, văn hóa, lòng tự hào dân tộc của Hàn Quốc không chỉ

giúp cho người dân trong nước quan tâm đến lịch sử nước nhà nhiều hơn mà còn

góp phần giới thiệu đến bạn bè quốc tế về lịch sử của đất nước mình. Bên cạnh đó,

thông qua nội dung các bộ phim, các nét đặc trưng về văn hóa, ẩm thực cũng được

quảng bá như kimchi, rượu soju, trang phục truyền thống Hanbok,…Bên canh đó,

14

sự thành công trong hoạt động xuất khẩu phim ảnh đã góp phần giúp cho kinh tế của

Hàn Quốc có những bước phát triển vượt bậc. Chỉ tính riêng năm 2018, thu nhập từ

xuất khẩu phim ảnh của nước này đã đạt 2 tỷ USD7.

Truyền thông: Hàn Quốc đầu tư và sử dụng rất nhiều các phương tiện truyền

thông như Internet; các trang mạng xã hội Youtube, Facebook; truyền hình KBS,

SBS, MBC,… để quảng bá các chương trình giải trí âm nhạc, gameshow, talkshow

với sự tham gia của các diễn viên, idol đang rất được các bạn trẻ hâm mộ. Truyền

thông Hàn Quốc cũng đóng góp giúp cho ngành công nghiệp thần tượng (K-pop)

được phát triển mạnh mẽ. Theo báo cáo năm 2017 của Cục Nội dung Sáng tạo Hàn

Quốc, quy mô ngành công nghiệp này đã lên tới 5 tỷ USD.

Thời trang và mỹ phẩm: thời trang Hàn đang trở thành xu hướng ưa chuộng

của giới trẻ trong đó có cả giới trẻ Việt Nam. Các mỹ phẩm Hàn Quốc cũng được

săn đón nhờ được quảng bá bởi các ca sĩ, diễn viên tên tuổi của Hàn Quốc.

Như vậy có thể thấy với các chiến lược đúng đắn, bước sang thế kỷ XXI, Hàn

Quốc đã xây dựng được làn sóng hallyu - bao gồm phim kịch Hàn Quốc và âm nhạc

K-pop, lan tới mọi ngõ ngách của châu Á cũng như trên thế giới, góp phần nâng cao

hình ảnh Hàn Quốc đối với bạn bè quốc tế và khuếch trương kinh tế của quốc gia

3.3 Một số bài học kinh nghiệm rút ra cho ngoại giao văn hóa Việt Nam

này.

Nhìn chung các chiến lược ngoại giao văn hóa của Việt Nam, Nhật Bản, Hàn

Quốc đều có điểm chung là tận dụng các thế mạnh, tiềm lực văn hóa của mình để

phát huy, quảng bá hình ảnh, nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế. Trong

7 Thủy, N. T. T. (2020). Chiến lược phát huy “sức mạnh mềm” của Hàn Quốc và ý nghĩa tham chiếu đối với Việt Nam. Từ https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/the-gioi-van-de-su-kien/-/2018/816904/chien-luoc-phat-huy- %E2%80%9Csuc-manh-mem%E2%80%9D-cua-han-quoc-va-y-nghia-tham-chieu-doi-voi-viet-nam.aspx

đó, Nhật Bản và Hàn Quốc tập trung tích hợp các hoạt động ngoại giao văn hóa trong

15

các hoạt động của nền công nghiệp phim ảnh, âm nhạc, trong khi Việt Nam thì gắn

kết công tác ngoại giao văn hóa với các hoạt động chính trị, lịch sử, văn hóa của đất

nước. Thông qua các chiến lược ngoại giao văn hóa của Nhật Bản, Hàn Quốc, một

số bài học kinh nghiệm có thể được rút ra cho Việt Nam:

Thứ nhất, việc Nhật Bản có nhận thức về ngoại giao văn hóa ngay sau chiến

tranh thế giới thứ II đã tạo điều kiện cho việc xây dựng các chiến lược hoạt động từ

rất sớm. Do đó, Việt Nam cũng cần phải sớm hoàn thiện các cơ sở lý luận về ngoại

giao văn hóa, bao gồm khái niệm, nội hàm, xác định rõ vai trò, vị trí của ngoại giao

văn hóa trong tổng thể nền ngoại giao hiện đại.

Thứ hai, những thành tựu trong việc gắn kết ngoại giao văn hóa với ngoại giao

kinh tế của Nhật Bản cũng mang lại bài học cho Việt Nam là cần tăng cường sử dụng

công cụ ngoại giao văn hóa làm chất xúc tác, chất keo gắn kết về tinh thần để thúc

đẩy các hoạt động ngoại giao chính trị và ngoại giao kinh tế; đồng thời coi ngoại

giao văn hóa cũng có vai trò quan trọng ngang hàng với ngoại giao chính trị và ngoại

giao kinh tế.

Thứ ba, cần xác định rõ các giá trị văn hóa nổi bật của đất nước để quảng bá với

bạn bè quốc tế. Dân tộc Việt Nam có bề dày văn hóa đặc sắc, lịch sử hào hùng, người

dân cần cù, sáng tạo, thân thiện, yêu chuộng hòa bình. Đây chính là những nét đẹp

văn hóa ấn tượng mà Việt Nam cần đẩy mạnh giới thiệu, quảng bá ra khắp thế giới.

Thứ tư, tinh thần tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại của Nhật Bản cũng là bài

học quý giá mà Việt Nam cần phải học hỏi. Việt Nam cần nỗ lực hơn nữa trong việc

nghiên cứu và tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa, tri thức, khoa học tiên tiến từ

bên ngoài, kết hợp với giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc để hoàn thiện và

làm giàu thêm cho kho tàng văn hóa, tri thức của Việt Nam.

Lời kết

Như vậy, trải qua 20 năm đầu của thế kỷ XXI, Đảng và nhà nước Việt Nam ngày

càng xây dựng đầy đủ, hoàn thiện hơn về khái niệm ngoại giao văn hóa cũng như

khẳng định vai trò trụ cột quan trọng của ngoại giao văn hóa trong tổng thể nền ngoại

giao nước nhà. Bên cạnh đó, chiến lược về ngoại giao văn hóa của Việt Nam đã được

triển khai rất bài bản, hiệu quả với sự phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ, ngành, địa

phương ở cả trong và ngoài nước thông qua việc gắn kết các hoạt động giao văn hóa

với các hoạt động kinh tế, chính trị; tham gia các diễn đàn song phương, đa phương;

tổ chức các hội nghị, hội thảo quốc tế, các sự kiện có yếu tố nước ngoài,...

Việc phân tích chiến lược ngoại giao văn hóa của Nhật Bản và Hàn Quốc đã

cho thấy tầm quan trọng trong việc đánh giá các chính sách, chiến lược ngoại giao

của các nước trên thế giới. Thông qua hoạt động này, Việt Nam sẽ học hỏi thêm

được những bài học, kinh nghiệm ngoại giao văn hóa quý giá từ các chiến lược của

các nước khác, đồng thời là chuẩn bị các tài liệu hữu ích cho quá trình xây dựng

chính sách, chiến lược ngoại giao văn hóa của Việt Nam trong các thời kỳ sau này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Anh, P. N. (2015). Ngoại giao văn hóa Việt Nam: Hội nhập quốc tế và lợi ích quốc gia.

Từ https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-/2018/35898/ngoai-giao-van-hoa-

viet-nam--hoi-nhap-quoc-te-va-loi-ich-quoc-

gia.aspx?fbclid=IwAR31D5dtZyO_7QQ0sGFowC508tQoZw8eomi1Mt2ud0Iyp6Ah1otZ

JPwdnvM

2. Chiến lược Ngoại giao Văn hóa đến năm 2020. (n.d). Truy cập ngày 13/6/2021. Từ

https://www.quangbinh.gov.vn/3cms/chien-luoc-ngoai-giao-van-hoa-den-nam-2020.htm

3. Dũng, P. M. (2020). Ngoại giao văn hóa - Con đường thành công mới của đối ngoại

Việt Nam. Từ https://baoquocte.vn/ngoai-giao-van-hoa-con-duong-thanh-cong-moi-cua-

doi-ngoai-viet-nam-122538.html

4. Hà, P. T. T. (2021). Chính sách ngoại giao văn hóa của Nhật Bản và một số bài học

kinh nghiệm cho Việt Nam. Từ https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/chinh-sach-ngoai-

giao-van-hoa-cua-nhat-ban-va-mot-so-bai-hoc-kinh-nghiem-cho-viet-nam-79436.htm

5. Hạnh, B. (2020). Món quà Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc mang đến Nhà Trắng tặng

ông Trump. Từ https://viettimes.vn/mon-qua-thu-tuong-nguyen-xuan-phuc-mang-den-

nha-trang-tang-ong-trump-post129565.html

6. Huân, V. D. (2018). Ngoại giao và công tác Ngoại giao, Hà Nội: Nxb Chính Trị Quốc

Gia Sự Thật.

7. Hùng, M. (2018). Ngoại giao văn hóa: Trụ cột của nền ngoại giao toàn diện Việt Nam.

Từ https://dangcongsan.vn/thoi-su/ngoai-giao-van-hoa-tru-cot-cua-nen-ngoai-giao-toan-

dien-viet-nam-492431.html

8. Lan, Đ.T. (2018). Chiến lược ngoại giao văn hóa của Hàn Quốc và bài học cho Việt

Nam. Từ https://prezi.com/--662xi4knos/chien-luoc-ngoai-giao-van-hoa-cua-han-quoc-

va-bai-hoc-cho-viet-nam/

9. Phương, H. Y. (2014). Ngoại giao văn hóa: kinh nghiệm quốc tế và ứng dụng cho Việt

Nam. Từ

https://www.academia.edu/8811883/Vu_Hoang_Ph%C6%B0%C6%A1ng_TT38A_Ti%E

1%BB%83u_lu%E1%BA%ADn_Cac_chuyen_d%E1%BB%81_Ngo%E1%BA%A1i_gi

ao_van_hoa

10. Thủy, N. T. G. (2020). Ngoại giao văn hóa trong chính sách đối ngoại Việt Nam. Từ

http://thanhdiavietnamhoc.com/ngoai-giao-van-hoa-trong-chinh-sach-doi-ngoai-viet-

nam-2/

11. Thủy, N. T. T. (2020). Chiến lược phát huy “sức mạnh mềm” của Hàn Quốc và ý

nghĩa tham chiếu đối với Việt Nam. Từ https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/the-

gioi-van-de-su-kien/-/2018/816904/chien-luoc-phat-huy-%E2%80%9Csuc-manh-

mem%E2%80%9D-cua-han-quoc-va-y-nghia-tham-chieu-doi-voi-viet-nam.aspx

12. Trung, L. H. (2021). Ngoại giao Văn hóa góp phần phát huy sức mạnh mềm của Việt

Nam. Từ https://dangcongsan.vn/thoi-su/ngoai-giao-van-hoa-gop-phan-phat-huy-suc-

manh-mem-cua-viet-nam-573751.html

13. Yến, L. T. H. & Hương, T. T. (2020) Ngoại giao văn hóa Việt Nam: Một thập niên

nhìn lại. Từ https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-/2018/35898/ngoai-giao-

van-hoa-viet-nam--hoi-nhap-quoc-te-va-loi-ich-quoc-

gia.aspx?fbclid=IwAR31D5dtZyO_7QQ0sGFowC508tQoZw8eomi1Mt2ud0Iyp6Ah1otZ

JPwdnvM