1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm gần đây, nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng điện, nhà nước đã
quy hoạch và triển khai nhiều công trình thủy điện trên cả nước. Các công trình thủy
điện được xây dựng trên vùng cao, gần khu vực sông lớn và thủy điện Đắk Đrinh
cũng không ngoại lệ.
Việc triển khai xây dựng công trình thủy điện Đắk Đrinh đã và đang nảy sinh
một số vấn đề bất cập về môi trường, văn hóa và đặc biệt là đời sống của cộng đồng
tộc người Xơ Đăng ở vùng lòng hồ thủy điện. Công tác đền bù và tái định cư tuy
cũng được Chính phủ quan tâm nhưng vẫn còn tồn tại nhiều bất cập cần được giải
quyết, trong đó vấn đề đảm bảo sinh kế cho nhân dân chưa được quan tâm đúng
mức.Việc đảm bảo sinh kế đóng vai trò rất quan trọng nhằm giảm thiểu rủi ro cho
người dân phải tái định cư bắt buộc, giảm thiểu tối đa những tác động không mong
muốn đối với người dân phải tái định cư thông qua việc tạo lập một phương thức
sinh kế bền vững, ổn định phát triển sản xuất, đảm bảo phát triển kinh tế, xã hội và
bảo vệ . Với những lí do trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Phƣơng thức
sinh kế của ngƣời Ca Dong tại khu tái định cƣ thủy điện Đắk Đrinh – Quảng
Ngãi”
2. Mục tiêu nghiên cứu
Tổng quan tình hình tái định cư (nơi ở mới, việc hỗ trợ và đền bù) của người
dân bị ảnh hưởng.
Tìm hiểu về phương thức sinh kế của cộng đồng người Ca Dong thuộc thủy
điện Đắk Đrinh – tỉnh Quảng Ngãi.
Góp phần phong phú tài liệu viết về phương thức sinh kế của người dân ở các
khu tái định cư thủy điện.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Các hoạt động sinh kế của các hộ gia đình tái định cư
thủy điện Đăk Đrinh.
2
Phạm vi nghiên cứu: khu tái định cư Nước Vương (xã Sơn Liên), khu tái định
cư Nước Lang (xã Sơn Dung).
4. Lịch sử nghiên cứu
Đề cập đến lịch sử nghiên cứu sinh kế của người Ca Dong tại khu tái định cư
của dự án thủy điện Đắk Đrinh không có. Nhưng chúng ta có thể tìm hiểu qua “Báo
cáo chuyên đề tái định cư” của Ban quản lý dự án thủy điện (2005). Báo cáo kế
hoạch bồi thường và tái định cư xác định được các ảnh hưởng về đất đai, nhà cửa và
các công trình kiến trúc khác của các hộ gia đình. Ngoài ra, cho thấy tổng quát khá
toàn diện về địa điểm tái định cư cũng như thuận lợi và khó khăn tại nơi ở mới đó
với việc ổn định sinh kế của người dân. Hơn thế nữa, một số chính sách hỗ trợ cho
việc bồi thường và tái định cư dành cho các hộ gia đình và địa phương bị ảnh hưởng
bởi dự án. Theo báo cáo thì người bị ảnh hưởng hầu hết là người dân tộc (chủ yếu là
dân tộc Ca Dong chiếm 89,1%, người Kinh là 10,9%). Chính vì thế đối tượng là
người Ca Dong cũng cần phải tìm hiểu để có những chính sách phù hợp để giúp họ
ổn định đời sống và duy trì văn hóa, phong tục. Qua cuốn sách “Một số nét về văn
hóa Ca Dong” của tác giả Đinh Long Ta, Sở văn hóa thông tin tỉnh Quảng Ngãi
(1999). Đầu tiên, về địa bàn cư trú của người Ca Dong tập trung chủ yếu ở địa bàn
giáp ranh của 3 tỉnh từ huyện Trà My (Quảng Nam) qua Sơn Tây , Sơn Hà, Trà
Bồng (Quảng Ngãi) đến Đắc Tô, Sa Thầy, Đắc Giây, Kon Plong, Kon Tum (tỉnh
Kon Tum). Bên cạnh đó, tác giả đã phác họa khá rõ nét về phương thức sinh hoạt
của người Ca Dong từ cách làm nhà, đến phương thức sinh hoạt kinh tế. Ngoài ra,
những phong tục tập quán văn hóa của người Ca Dong được tác giả truyền đạt một
cách chính xác nhất đến với độc giả. Những mẩu chuyện về người Ca Dong giúp
cho chúng ta hiểu hơn về nguồn gốc xuất thân và cách sinh hoạt hàng ngày của
người Ca Dong.
Hay đề cập đến công trình nghiên cứu “Đánh giá sự thay đổi nguồn sinh kế
cảu các hộ di dân tái định cư thuộc dự án thủy điện Hủa Na: trường hợp nghiên cứu
tại xã Tiền Phong, huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An” của hai tác giả Nguyễn Văn
Sang, Đậu Thị Bích Hoài. Qua công trình này, tác giả một lần nữa nhận định sự thay
3
đổi nguồn sinh kế của các hộ di dân tái định cư dự trên lý luận và thực tiễn. Tác giả
tập trung đo lường sự thay đổi nguồn sinh kế của các hộ dân là sự thay đổi các
nguồn lực tự nhiên, nguồn nhân lực, nguồn lực vật chất, nguồn lực tài chính, nguồn
lực xã hội. Thông qua kết quả nghiên cứu khảo sát tác giả cho rằng khi các hộ tái
định cư di dân đến nơi ở mới thì sự co hẹp nguồn lực tự nhiên kéo theo sự thay đổi
các nguồn lực còn lại. Những sự thay đổi của các nguồn lực đều được đánh giá theo
hai chiều hướng tích cực và tiêu cực, cũng như các nguồn lực ảnh hưởng đến quyết
định thay đổi chiến lược sinh kế của các hộ di dân. Hai tác giả cho ta cái nhìn tổng
quát về sự thay đổi này đều có xu hướng kém bền vững hơn so với thời điểm trước
tái định cư. Qua kết quả điều tra nổi bật lên 83,33% số hộ dân cho rằng cuộc sống
của họ ở nơi ở mới kém hơn trước, 70% hộ dân không hài lòng về công tác đền bù,
bồi thường. Từ việc tìm hiểu sự thay đổi sinh kế, tác giả cũng đưa ra một số giải
pháp về các nguồn lực phù hợp với thực tế và tiềm lực của các hộ dân. Bên cạnh đó
“Sinh kế của các hộ dân tái định cư vùng bán ngập huyện Thuận Châu tỉnh Sơn La”
của tác giả Phạm Minh Hạnh (2009), luận văn Thạc sĩ Kinh Tế, Trường Đại học
Nông nghiệp Hà Nội. Trong bài nghiên cứu này, tác giả đã tiến hành khảo sát về các
nguồn lực sinh kế ảnh hưởng đến ổn định đời sống của người dân tại nơi ở mới. Mặc
dù đây không phải là khu tái định cư thủy điện nhưng cho chúng ta cái nhìn khá toàn
diện về sự khó khăn mà hộ dân gặp phải tại khu tái định cư. Bên cạnh đó, tác giả đã
cho chúng ta thấy sự tác động của việc thay đổi sinh kế đến mức sống thu nhậ của
người dân. Sau đó, những thành tựu và hạn chế cũng đã được đề cập trong bài
nghiên cứu này. Những giải pháp cụ thể và chi tiết được đề nghị để cải thiện tình
hình sinh kế giúp người dân ổn định lâu dài cuộc sống.
Ngoài ra còn có các bài viết trên các báo, tạp chí đề cập đến vấn đề chính
sách tái định cư, nguồn sinh kế của các hộ dân có thể kể đến là các bài viết của các
tác giả Đặng Nguyên Anh với “Tái định cư cho các công trình thủy điện ở Việt
Nam”, Tạp chí Cộng sản, (số 8/2007) và “Chính sách di dân tái định cư các công
trình thuỷ điện ở việt nam từ góc độ nghiên cứu xã hội”Tạp chí DS&PT (số 6/2007).
Có thể nói các công trình nghiên cứu, bài viết trên đều nói đến việc tái định cư,
4
chính sách tái định cư nhằm ổn định nguồn sinh kế cho các hộ dân bị ảnh hưởng.
Nhưng mỗi dự án thủy điện và đối tượng đồng bào bị ảnh hưởng là khác nhau, vì thế
chưa có một đề tài nào đề cập đến nguồn sinh kế của người Ca Dong tại khu tái định
cư thủy điện Đắk Đrinh. Vì thế chúng tôi thực hiện đề tài này là về tái định cư thủy
điện Đắk Đrinh của người Ca Dong.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Thời gian đi thực địa: 24/11 – 05/12/2013.
Nghiên cứu sử dụng các tài liệu thứ cấp được thu thập từ Ban quản lý dự án
thủy điện Đắk Đrinh, Ủy ban nhân dân huyện Sơn Tây – tỉnh Quảng Ngãi, Ủy ban
nhân dân các xã Sơn Liên và Sơn Dung. Tài liệu bao gồm báo cáo về dự án thủy
điện Đắk Đrinh, báo cáo chuyên đề tái định cư của thủy điện, báo cáo tình hình kinh
tế xã hội của huyện Sơn Tây. Ngoài ra có sự tham khảo thêm thông tin từ các bài
báo, công trình đã công bố và một số văn bản có liên quan.
Nguồn số liệu sơ cấp được sử dụng qua thu thập từ 28 hộ dân tại hai khu tái
định cư của xã Sơn Liên và Sơn Dung. Ngoài ra còn tiếp xúc với cán bộ phòng tài
nguyên môi trường của huyện Sơn Tây, chủ tịch xã, trưởng thôn và phỏng vấn sâu 5
hộ dân tại 2 vùng tái định cư. Qua đây nhằm làm rõ những vấn đề chưa hiểu từ bảng
hỏi được làm rõ hơn từ việc phỏng vấn sâu.
6. Bố cục đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo. Đề tài được kết
cấu thành 3 chương:
Chương 1. Tổng quan
Trong chương này, chúng tôi đề cập một số khái niệm liên quan đến
đề tài. Giới thiệu khái quát về địa bàn nghiên cứu huyện miền núi Sơn Tây, một
vài nét về người Ca Dong ở các khu tái định cư và công trình thủy điện Đắk
Đrinh.
5
Chương 2. Thực trạng tái định cư và phương thức sinh kế của người Xơ Đăng tại
các khu tái định cư
Tìm hiểu thực trạng tái định cư của người Ca Dong tại hai khu tái định
cư Nước Vương xã Sơn Liên và Nước Lang xã Sơn Dung. Và qua đó tìm hiểu
thực trạng sinh kế và những hạn chế đang tồn tại ở hai khu tái định cư trên.
Chương 3. Một số giải pháp nhằm đảm bảo sinh kế cho người dân ở các khu tái
định cư thủy điện Đắk Đrinh.
Từ việc tìm ra những hạn chế về sinh kế của người Ca Dong tại hai
khu tái định cư Nước Vương và Nước Lang, đưa ra một số giải pháp và kiến
nghị nhằm góp phần ổn định đời sống người dân ở hai khu tái định cư trên.
6
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Các khái niệm liên quan đến đề tài
1.1.1. Sinh kế và khung sinh kế
Theo Bùi Đình Toái (2004), “sinh kế là một tập hợp của các nguồn lực và khả
năng của con người kết hợp với những quyết định và những hoạt động mà họ sẽ
thực hiện để không những kiếm sống mà còn đạt đến mục tiêu đa dạng hơn. Hay nói
cách khác, sinh kế của hộ gia đình hay một cộng đồng còn được gọi là kế sinh nhai
của hộ gia đình hay cộng đồng đó”[8, tr.15]. Để duy trình sinh kế, mỗi hộ gia đình
thường có các kế sinh nhai khác nhau. Kế sách sinh nhai của hộ hay chiến lược sinh
kế của hộ là quá trình ra quyết định về các vấn đề cấp hộ. Bao gồm những vấn đề
như thành phần của hộ, tính gắn bó giữa các thành viên, phân bổ các nguồn lực vật
chất và chi phí vật chất của hộ. Chiến lược sinh kế của hộ phải dựa vào năm loại
nguồn lực cơ bản sau:
Con người: bao gồm kỹ năng, kiến thức, khả năng lao động và sức khỏe con
người. Các yếu tố đó giúp cho con người có thể theo đuổi những chiến lược tìm
kiếm thu nhập khác nhau và đạt những mục tiêu kế sinh nhai của họ. Ở mức độ gia
đình nguồn nhân lực được xem là số lượng và chất lượng nhân lực có sẵn.
Xã hội: là những nguồn lực định tính dựa trên những gì mà con người đặt ra
để theo đuổi mục tiêu kế sinh nhai của họ. Chúng bao gồm uy tín của hộ, các mối
quan hệ xã hội của hộ.
Tự nhiên: là cơ sở các tài nguyên thiên nhiên của hộ hay của cộng đồng, được
trông cậy vào để sự dụng cho mục đích sinh kế như đất đai, nguồn nước, cây trồng,
vật nuôi, mùa màng…Trong thực tế, sinh kế của người dân thường bị tác động của
nguồn lực tự nhiên. Trong các chương trình di dân tái định cư, việc di chuyển dân đã
làm thay đổi nguồn lực tự nhiên của người dân và qua đó đã làm thay đổi sinh kế
của họ.
7
Vật chất: bao gồm tài sản gia đình hỗ trợ cho sinh kế như nhà ở, phương triện
sản xuất, đi lại, thông tin…
Tài chính: là những gì liên quan đến tài chính mà con người có được như:
nguồn thu nhập tiền mặt, tiền tiết kiệm, tín dụng và các nguồn khác như lương bổng,
nguồn hỗ trợ, viện trợ từ bên ngoài cho hộ gia đình và cho cộng đồng.
Mỗi hộ dân là một bộ phận cấu thành nên cộng đồng họ đang sống, các tài
sản và nguồn lực của họ cũng là một phần tài sản và nguồn lực của cộng đồng đó, vì
vậy chiến lược sinh kế của mội hộ đều có sự tương đồng và phù hợp với nhau cũng
như phù hợp với chiến lược sinh kế của cộng đồng.[8, trang 6]
Chiến lược sinh kế cộng đồng cũng dựa trên năm loại nguồn lực trên mang ý
nghĩa rộng hơn cho cả cộng đồng, đó là số lượng và chất lượng nguồn nhân lực của
cộng đồng: thể chế chính trị, phong tục, tập quán, uy tín của cả cộng đồng; điều kiện
tự nhiên địa bàn cộng đồng sinh sống; các cơ sở hạ tần xã hội hỗ trợ cho sinh kế như
giao thông, hệ thống cấp nước, hệ thống ngăn, tiêu nước và cung cấp năng lượng,
thông tin.
Theo Ủy ban phát triển quốc tế (DFIA – Anh, 1998), sinh kế được hiểu là:
tập hợp tất cả những nguồn lực và khả năng mà con người có được, kết hợp với
những quyết định và hoạt động mà họ thực thi nhằm để kiếm sống, cũng như để đạt
được các mục tiêu và ước nguyện của họ.[9]
Các nguồn lực mà con người có được bao gồm: vốn con người; vốn vật chất;
vốn tự nhiên; vốn tài chính và vốn xã hội.
Khung sinh kế bền vững do DFID và một số tổ chức xây dựng, là một
phương tiện hữu ích để phân tích và tư duy về sinh kế. Nó cũng được tổ chức và xác
định, thiết kế các hoạt động hỗ trợ. Các hộ gia đình đều có phương thức kiếm sống
dựa vào những nguồn sinh kế sẵn có trong bối cảnh chính sách và thể chế nhất định
ở địa phương. Những nhân tố này cũng chịu ảnh hưởng của rủi ro do bảo lụt, các
khuynh hướng và tác động theo thời vụ. [18]
8
Chiến lược sinh kế cách mà gia đình sử dụng các tài sản sẵn có để đáp ứng
những nhu cầu của cuộc sống. Để làm được điều này, hộ gia đình cần sử dụng một
số nguồn lực sinh kế như: nguồn lực vật chất, nhân lực – tri thức và kinh nghiệm,
nguồn lực xã hội, tài nguyên thiên nhiên, nguồn tài chính.
1.1.2. Dân tộc
Ở Việt Nam, các khái niệm tộc người và dân tộc đều tồn tại song song. Khái
niệm dân tộc được dùng để chỉ Dân tộc Việt Nam (tất cả những người là công dân
Việt Nam, sinh sống trên đất Việt Nam và Việt kiều ở nước ngoài). Tuy thế, dân tộc
cũng được dùng để chỉ các cộng đồng tộc người cụ thể như dân tộc Chăm, dân tộc
Tày, dân tộc Kinh, dân tộc Xơ Đăng…Như vậy trong thực tiễn Việt Nam, dân tộc
bao gồm: dân tộc ở cấp độ quốc gia (dân tộc Việt Nam), cộng đồng tộc người cụ thể
(dân tộc Chăm, Kinh…) [6].
Vì vậy, “Khái niệm dân tộc thực chất phải được hiểu là tộc người. Tộc người
là hình thái đặc biệt của một tập đoàn xã hội xuất hiện không phải là do ý nguyện
của con người mà là trong kết quả của quá trình tự nhiên – lịch sử”[7, tr.8].
Trong quá trình phát triển của các tộc người, do địa bàn cư trú phân tán trên
một vùng rừng núi hiểm trở, việc giao lưu giữa các vùng rất khó khăn, hạn chế, đã
phân chia cư dân ra rất nhiều nhóm địa phương. Nhưng vẫn được gọi với một tên
chung.
1.1.3. Khái niệm di dân
Biến động dân số bao gồm hai cấu thành cơ bản là tăng tự nhiên và tăng cơ
học. Tăng trưởng tự nhiên của dân số gắn liền với quá trình sinh học sinh ra, tồn tại
và mất đi của con người theo thời gian. Quá trình này thông qua hiện tượng sinh và
chết. Biến động dân cư còn do tác động cơ học của quá trình di dân. Trong mọi quốc
gia, những luồng di cư tạo nên sự phân bố lại dân cư, đồng thời làm tăng giảm mật
độ dân cư giữa các vùng miền địa lý. Di dân về bản chất không phải là hiện tượng
sinh học như sinh, chết. Di dân có thể diễn ra nhiều lần, lặp đi lặp lại trong cuộc đời
của một cá nhân, trong khi sinh đẻ và tử vong chỉ diễn ra một lần.[1, tr. 35]
9
Di dân là quá trình phân bố lại lực lượng lao động, dân cư và là nhân tố quan
trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Di dân và quá trình tập trung dân số ở địa
bàn nơi đến luôn đặt ra những thách thức mới cho sự phát triển kinh tế - xã hội bền
vững, đặc biệt trong mối quan hệ với các nguồn lực tự nhiên, môi trường của các
vùng miền đất nước. [1, tr.37]
Theo nghĩa rộng, di dân là sự chuyển dịch bất kỳ của con người trong một
không gian, thời gian nhất định kèm theo sự thay đổi nơi cư trú tạm thời hay vĩnh
viễn. Với khái niệm này, di dân kèm theo sự thay đổi nơi cư trú tạm thời hay vĩnh
viễn. Với khái niệm này, di dân đồng nhất với sự di động dân cư. Theo nghĩa hẹp, di
dân là sự di chuyển dân, dân cư từ một đơn vị lãnh thổ này đến một đơn vị lãnh thổ
khác nhằm thiết lập một nơi cư trú mới trong một khoảng thời gian nhất định.[1,
tr.36].
Tóm lại, khái niệm di dân có thể được tóm tắt chung theo các điểm chung
sau:
Người di dân chuyển ra khỏi một địa dư nào đó đến nơi khác sinh sống.
Người di dân chuyển bao giờ cũng có mục đích, họ đến một nơi nào đó và
định cư tại đó trong một thời gian để thực hiện mục đích đó.
Di dân gắn liền với sự thay đổi công việc, nơi làm việc, công việc nghề
nghiệp, sở thích, lối sống,…
1.1.4. Tái định cư
Tái định cư là việc phải di chuyển đến một nơi khác để sinh sống, đây là
thuật ngữ chung liên quan tới bị thu hồi đất, mất đất, mất chỗ ở, mất tài sản, mất
nguồn thu nhập hay mất những phương tiện kiếm sống khác[8,tr.10].
Theo khái niệm của Ngân hàng Phát triển châu Á năm 1995, tái định cư được
phân loại dự trên thiệt hại của người tái định cư. Các loại thiệt hại bao gồm: tài sản
sản xuất: đất đai, thu nhập và đời sống, thiệt hại về nhà ở: toàn bộ cộng đồng và các
hệ thống dịch vụ kèm theo, thiệt hại về các tài sản khác, thiệt hại tài sản khác, thiệt
10
hại về các nguồn tài nguyên của cộng đồng như môi trường sinh sống, văn hóa và
hàng hóa[9, tr.12]
Tái định cư được hiểu là con người tạo dựng cuộc sống ở nơi cư trú mới sau
khi rời khỏi nơi cư trú cũ của họ. Có nhiều lý do mà người dân phải tái định cư và có
thể chia làm hai loại: tái định cư bắt buộc và tái định cư tự nguyện.
Thực tế tại nước ta có nhiều hình thức tái định cư được phổ biến như sau:
Tái định cư tập trung theo quy hoạch, kế hoạch chung, có tổ chức (gọi là tái
định cư bắt buộc). Tái định cư bắt buộc là việc tái định cư do người dân bị trưng
dụng đất để xây dựng dự án vì lợi ích chung của cộng đồng. Việc tái định cư bắt
buộc liên quan đến tất cả lứa tuổi và giới, những mong muốn của một số người bị
ảnh hưởng có thể không được đáp ứng. Rất nhiều người có thể gặp rủi ro và thiếu
động lực sáng tạo để di chuyển và tái lập nơi ở mới và thực hiện những định hướng
mới. Phụ nữ và những hộ gia đình do họ đứng đầu thường chịu nhiều thiệt thòi vì
đền bù lại thường chỉ dành cho nam giới, những hộ phụ nữ đứng đầu lại thường
trong kinh tế mong manh, hơn nữa phụ nữ thường bị hạn chế trong tiếp cận các dịch
vụ hỗ trợ. Nếu tái định cư bắt buộc là điều không thể tránh khỏi thì nó cần được
hoạch định và thực thi một cách chu đáo để kinh tế có thể được tăng trưởng và giảm
được nghèo đói, nhất là những người dễ bị tổn thương [10, tr.8].
Những người tái định cư tự nguyện được tự quyết định lựa chọn. Họ thường
là nam giới ở lứa tuổi trẻ hoặc trung niên vì vậy họ khá năng động, sáng tạo và chấp
nhận rủi ro. Chính phủ sẽ tổ chức các chương trình tái định cư được quy hoạch
trước, các chương trình này không chỉ quy hoạch nơi ở mới mà còn quy hoạch điều
kiện sống tại nơi ở mới, cung cấp các dịch vụ xã hội và thậm chí phục vụ cả nhu cầu
văn hóa và tôn giáo[11, tr.9].
Di dân tái định cư trong các công trình thủy điện thường là di dân bắt buộc để
giải phóng mặt bằng, thi công công trình thủy điện. Các công trình thủy điện đều
mang tính quan trong quyết định đến sự phát triển của địa phương, khu vực và quốc
gia.
11
1.2. Giới thiệu khái quát Sơn Tây – Quảng Ngãi
1.2.1. Vị trí địa lý huyện Sơn Tây
Sơn Tây là huyện miền núi, nằm về phía Tây tỉnh Quảng Ngãi; phía Đông và
Đông Nam giáp huyện Sơn Hà, phía Tây Nam giáp với huyện Kon Plông (tỉnh
Kontum), phía Bắc giáp huyện Nam Trà My (tỉnh Quảng Nam) và huyện Tây Trà.
Huyện có diện tích 38.221,68 ha, trong đó diện tích đất Lâm nghiệp 25.676,2ha, chiếm 67,17%. (theo thống kê năm 2010). Dân số là 17.475 người . Huyện lỵ đặt tại
xã Sơn Dung nằm cách thành phố Quảng Ngãi 75 km về hướng tây. Ngoài ra còn 8
xã khác là Sơn Bua, Sơn Lập, Sơn Liên, Sơn Long, Sơn Màu, Sơn Mùa, Sơn Tân,
Sơn Tinh.
Huyện được thành lập ngày 6 tháng 8 năm 1994 trên cơ sở tách 4 xã: Sơn
0 – 46’ độ vĩ bắc; từ 108
0 – 22’ đến 108
0 – 14’ đến 14
Tinh, Sơn Dung, Sơn Mùa, Sơn Tân thuộc huyện Sơn Hà. Huyện Sơn Tây nằm từ 0 – 24’ độ kinh đông, có 14
độ cao từ 400m đến 1.900m so với mặt nước biển. Về khí hậu, Sơn Tây nằm trong
vùng gió mùa á nhiệt đới, có 2 mùa rõ rệt: mùa khô và mùa mưa. Mùa khô từ tháng
0 C; cao nhất là 36- 2
01 đến tháng 8; mùa mưa từ cuối tháng 8 đến tháng 12, sớm hơn hai, ba tháng so với
đồng bằng. Lượng mưa trung bình hằng năm là 2.700mm. Nhiệt độ thường thấp hơn 0 C (vào 1- 20 C so với đồng bằng, trung bình hằng năm là 23,5 tháng 4,5,6 ); thấp nhất là 14 - 150 C (vào các tháng 11, 12). Nói chung khí hậu Sơn
Tây thích hợp cho nhiều loại cây, vật nuôi phát triển. Nhưng cũng có những năm
Sơn Tây phải chịu những đợt hạn hán, lụt bão khắc nghiệt, ảnh hưởng đến sản xuất
và đời sống của nhân dân.
Địa hình Sơn Tây gắn liền với bắc Kon Tum, là một khối đá biến chất rất cổ,
có nhiều mạch ganit cắt ngang. Các khối núi ganit này tuy không bị ảnh hưởng của
đợt vận động địa chất ở đại tân sinh, nhưng bị nhiều nứt gãy, làm bazan trào ra bao
phủ một số vùng. Rừng núi Sơn Tây lại nối liền với dãy Ngọc An, Ngọc Linh ở bắc
Kon Tum, tạo thành thế liên hoàn hiểm trở nên có vị trí chiến lược quan trọng về
mặt Quốc phòng.
12
Rừng núi Sơn Tây có nhiều loại gỗ quý như Lim, Sến, Sơn, Chò, Hương,
Gõ…có nhiều loại thú quý như Hổ, Gấu, Sơn Dương, Trăn, Dộc, Khỉ….trước đây
có cả Voi; có nhiều dược liệu, lâm đặc sản quý như mật ong, trầm hương, trầm
kỳ…Sơn Mùa có mỏ đá vôi có thể sử dụng làm nguyên liệu xây dựng. Đất đồi, rừng
và triền núi Sơn Tây thích hợp cho phát triển nhiều loại cây công nghiệp. Đây còn là
địa bàn tốt để phát triển chăn nuôi Trâu, Bò, Dê, Heo, Gà…
Sơn Tây có 2 con sông lớn bắt nguồn từ Kon Tum: Sông Rinh (Đắc K’rin) và
sông Xà Lò (Đắc XêLo). Sông Rinh chảy qua Sơn Dung, Sơn Mùa và Sơn Tân có
hai hai phụ lưu ở phía bắc: Suối nước Bua và suối nước Lác; bốn phụ lưu ở phía
Nam: Sông Ra Manh, suối Ra Pân, suối Huy Măng và suối nước Màu. Sông Xà Lò
cùng với nước Xà Ruông bắc nguồn từ núi Adin ở Sơn Tinh đổ dọc xuống địa giới
Đông Nam Sơn Tây, chảy xuống huyện Sơn Hà, sông Rinh và sông Xà Lò góp phần
tạo nên đầu nguồn của sông Trà Khúc – con sông lớn nhất tỉnh Quảng Ngãi. Sông
suối Sơn Tây thường cắt sâu vào lớp đất bazan vụn bỡ, luồn qua các khe núi tạo nên
những bờ dốc đứng và mực nước thấp hàng chục mét so với những vùng đất tương
đối bằng trong huyện; thời gian có nước lớn chỉ một vài tháng (tháng 10,11) còn các
tháng khác nước cạn đến tận đáy. Ở sông, suối Sơn Tây có loại cá niêng rất ngon,
một số nơi có vàng sa khoáng, nhiều đoạn có độ dốc cao, nước chảy mạnh nên có
điều kiện tận dụng nguồn nước để làm thuỷ lợi, thuỷ điện. Về mùa mưa lũ, nước
chảy xiết thường gây xói mòn, sạt lỡ đôi bờ. Từ địa thế tự nhiện, rừng núi và sông
suối Sơn Tây có nhiều tài nguyên quý giá, nhưng vì là vùng đất hiểm trở, dân cư
thưa thớt nên chưa khai thác được nhiều.
1.2.2. Kinh tế
Trong điều kiện Đảng bộ và Chính quyền mới được thành lập, điều kiện kinh
tế - xã hội còn nghèo nàn, lạc hậu, trình độ dân trí thấp. Tỷ lệ trên 92% dân số còn
đói nghèo. Mục tiêu tại các kì họp Đại hội của Huyện là Tập trung phát triển sản
xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng, từng bước ổn định và cải thiện đời sống nhân dân,
thực hiện xóa đói giảm nghèo, giữ vững An ninh - Quốc phòng, xây dựng Đảng bộ
trong sạch vững mạnh, nâng cao hiệu lực hoạt động của các cấp chính quyền, cũng
13
cố vai trò Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, tạo tiền đề phát triển cho những năm
tiếp theo .
Sau hơn 17 năm xây dựng và phát triển (1994 - 2011), huyện Sơn Tây đã
từng bước vững chắc đi lên; các chỉ tiêu kinh tế - xã hội qua các kỳ đại hội đều đạt
và vượt Nghị quyết đã đề ra; điển hình (giai đoạn 2005 - 2010) giá trị sản xuất tăng
bình quân 16,6%; trong đó Nông - Lâm nghiệp 15,9%, Công nghiệp - xây dựng
27,7%, Thương mại - Dịch vụ 17,3%...Về cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng
tích cực, tỷ trọng Nông - Lâm nghiệp chiếm 75,1%,, Công nghiệp - xây dựng chiếm
5,7%, Thương mại - dịch vụ chiếm 19,2%; lương thực bình quân đầu người 332,5
kg/người/năm. Về kết cấu hạ tầng thuộc ngân sách nhà nước (giai đoạn 2005 - 2010)
450 tỷ đồng, tăng gấp 3 lần so với giai đoạn (2001 - 2005); tập trung chủ yếu trên
các lĩnh vực Giao thông, thủy lợi, diện, nước sinh hoạt, trường học, trạm y tế.... [17].
Về giao thông: Nhiều công trình dự án được Nhà nước đầu tư xây dựng như
đường Đông Trường Sơn đi qua 04 xã có chiều dài trên 33 km đã tạo điều kiện giao
thông với các huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam và huyện Konplong, tỉnh Kon
Tum. Thực hiện quy hoạch mạng lưới giao thông của huyện, tính đến thời điểm này
toàn huyện có 27/99 km đường được cứng hóa, 32 km đường huyện với quy mô
đường cấp VI miền núi, mặt đường thấm nhập nhựa; 52,5 km đường xã, mặt đường
thâm nhập nhựa 11 km; trên 145 km đương liên thôn, xóm do dân tự làm.
Về thủy lợi, thủy điện: Đầu tư xây dựng 24 công trình phục vụ tưới trên 292
ha ruộng và hoa màu các loại. Dựa vào điều kiện tự nhiên, nhà nước đã tiến hành
đầu tư xây dựng các công trình thủy điện có quy mô vừa và nhỏ, đặc biệt có công
trình Thủy điện Đăk Drinh với tổng công suất thiết kế trên 100 megawatt.
Tổng giá trị sản xuất các ngành kinh tế năm 2010 là 70,2 tỷ đồng, tăng 37,63
tỷ đồng so với năm 2005. Thu nhập bình quân đầu người từ 2,1 triệu đồng năm
2005 lên 4,08 triệu đồng năm 2010. [17]
14
1.2.3. Văn hóa – xã hội
Cộng đồng cư dân ở Sơn Tây bao gồm các tộc người Ca Dong, Cor, Hrê,
Kinh. Cư trú lâu đời nhất là tộc người Ca Dong, một chi của dân tộc Xơ – Đăng ở
bắc Tây Nguyên [12, trang 2].Tính đến cuối năm 2010 tổng số hộ gia đình được
bình xét đạt tiêu chẩn gia đình văn hóa là 2.717 hộ, đạt 57,15%/ tổng số hộ đăng ký;
tổng số thôn đạt tiêu chuẩn thôn văn hóa là 13/42 thôn, chiếm 30,95% số thôn trên
địa bàn huyện; tổng số cơ quan đạt tiêu chuẩn cơ quan văn hóa năm 2010 là 46 cơ
quan; số cơ quan đạt tiêu chuẩn 3 năm liên tục có 12 cơ quan, số cơ quan đạt tiêu
chuẩn 5 năm liên tục có 25 cơ quan [17].
Các công trình văn hóa thể thao từ huyện đến xã từng bước được quan tâm
đầu tư, tại trung tâm huyện có Nhà văn hóa huyện, hội trường Nhà văn hóa được đầu
tư khang trang, có sức chứa tối đa là 350 người; tổng kinh phí đầu tư trên 04 tỷ
đồng, ngoài ra đối với các công trình văn hóa ở cơ sở đước các địa phương quan tâm
đầu tư xây dựng; tính đến thời điểm này có 02/9 Nhà văn hóa xã, 12/42 Nhà sinh
hoạt văn hóa thôn, 02 khu sinh hoạt văn hóa thể thao cơ sở [17].
Công tác giáo dục và đào tạo có bước chuyển biến tích cực; tổng số học sinh
các bậc học trong toàn huyện có 5.253 học sinh, cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ
dạy và học được đầu tư hiệu quả. Đến nay, toàn huyện có 27 đơn vị trường học,
trong đó có 01 trường trung học phổ thông, 08 trường trung học cơ sở, 09 trường
tiểu học, 09 trường mẫu giáo, trong đó 01 trường đạt chuẩn Quốc gia; chất lượng
dạy và học ngày một nâng cao. Công tác phổ cập giáo dục Tiểu học, trung học cơ
sở, chống tái mù chữ trong độ tuổi được quan tâm đúng mức; đến cuối năm 2008
huyện được công nhận đạt chuẩn về phổ cập trung học cơ sở. Đội ngũ giáo viên
từng bước đã được bổ sung đủ số lượng và từng bước được chuẩn hóa [17].
1.3. Khái quát về tộc ngƣời Xơ Đăng ở huyện Sơn Tây – Quảng Ngãi
Dân tộc Xơ – Đăng có năm nhóm địa phương: Xơ – Teng, Tơ Đrá, Mơ Nâm,
Ca Dong, Hà Lăng, Chi Ca Dong cư trú chủ yếu ở huyện Đắc Hà, Đắc Tô, Kon
15
Plông (tỉnh Kon Tum), huyện Trà My (tỉnh Quảng Nam), vùng Manh Xinh huyện
Tây Trà và huyện Sơn Tây (tỉnh Quảng Ngãi). [12, tr.1]
Người Ca Dong trước kia chủ yếu sinh sống bằng sản xuất ở nương rẫy, săn
bắn, hái lượm, chăn nuôi gia súc, gia cầm. Đồng bào sống theo lối du canh du cư.
Đất đai thuộc sở hữu tập thể nhỏ (theo plây) tồn tại trong nhiều thời kỳ. Khi chọn
được đất, làng làm dấu chiếm dụng hình chữ thập (+) gọi là “kíp”. Mọi người tôn
trọng triệt để dấu đó. Khi có sự vi phạm đất đai giữa hai làng thì thương lượng hoặc
phạt bằng vật quý (chiêng, ché, trâu) hoặc dùng vũ lực.
Người Ca Dong sống theo làng từng (Plây) ở những sườn đồi thoáng đãng, có
nguồn nước suối. Mỗi làng của người Ca Dong là một cộng đồng người cùng hoặc
không cùng huyết thống. Tất cả chủ nhà họp thành hội đồng già làng, đứng đầu là
người có uy tín nhất gọi là “chủ làng” (Ka rá – Plây). Tên chủ làng cũng thường trở
thành tên của làng. Chủ làng là người đại diện cho cả làng, thể hiện nguyện vọng
của toàn dân, chăm nom bảo vệ làng khi có giặc, giao thiệp với khách, tiếp xúc với
các làng buôn hay thương lái, tổ chức các đoàn buôn của làng, giữ gìn phong tục, tập
quán, đôn đốc việc sản xuất, chủ trì các lễ thức tín ngưỡng trong làng, xử lý các vụ
tranh chấp, kiện tụng, vi phạm luật tục…Ngày nay, vai trò của chủ làng đang giảm
dần. Chủ làng là cầu nối giao tiếp giữa người dân của làng với chính quyền địa
phương, đề bạt những tâm tư nguyện vọng đến chính quyền. [12, tr.20]
Ruộng, rẫy được người dân tự khai phá. Rẫy ở đây chỉ có một loại gọi là
“diếc” hay “dếc” được khai phá theo chu kỳ, trồng tỉa một hoặc hai, ba vụ rồi bỏ
hoang 10, 12 năm mới phát đốt, trồng tỉa lại. Công cụ phát nương, làm rẫy chủ yếu
là rìu, rựa. Khi trồng tỉa đàn ông dùng gậy nhọn chọc lỗ, đàn bà theo sau bỏ hạt.
Trên các rẫy lúa, mảnh vườn đồng bào thường trồng xen bầu, bí, rau, đậu, cây có củ,
bón phân cho cây trồng, trừ việc phát đốt rẫy thành tro để nuôi cấy lúa và hoa màu.
Đồng bào thường bảo vệ hoa màu ở rẫy bằng cách rào rẫy, săn bắn, đặt bẫy, chông,
thò…để chống thú rừng phá hoặc dùng những giàn ống nứa, ống lồ ô đặt dưới suối,
treo trên nương, nhờ sức nước, sức gió đẩy tạo nên âm thanh xua đuổi thú rừng. Khi
16
thu hoạch lúa thì đồng bào dùng hai bàn tay để gặt vì lúa rẫy dễ rụng và còn do mê
tín, sợ dùng liềm cắt thì “hồn lúa bị đau” và “chạy mất”, mùa sau thu hoạch sẽ kém.
Từ sau năm 1945, đồng bào ở dọc sông Rin và các suối lớn nhờ học tập kinh
nghiệm các trại sản xuất của cách mạng đã biết canh tác số đất ít ỏi ở hai bên bờ
sông, suối để sản xuất lúa nước. Công trình thuỷ lợi lúc bấy giờ còn rất thô sơ.
Đồng bào biết dùng cày, bừa do trâu kéo và cuốc lưỡi bằng sắt để làm ruộng lúa
nước. Cùng với làm rẫy, lúa nước, người Ca Dong còn trồng một số loài cây công
nghiệp; đó là các đồi quế lâu đời, nhiều vườn cau, thuốc lá, gai quanh các làng. Sản
phẩm từ cây quế cau, thuốc lá tại Sơn Tây là những mặt hàng có giá. Đi đôi với
trồng trọt, đồng bào Sơn Tây còn nuôi trâu, bò, dê, heo, gà. Đàn gia súc, gia cầm
cùng với thịt thú rừng săn bắn được là nguồn thực phẩm chủ yếu để làm vật trao đổi
và cúng thần trong lễ hội ăn Trâu (Ká Kapơ).
Để tự cấp tự túc và có sản phẩm trao đổi, đồng bào Ca Dong còn làm các
nghề đan lát, dệt, rèn... Hàng đan lát của đồng bào thường bền, đẹp, thể hiện sắc thái
riêng của dân tộc mình, nhất là các gùi lúa có hình chuông đặt ngửa, các léc đựng
tên, các nong, nia tinh xảo. Nghề dệt do phụ nữ đảm nhiệm; hầu hết được kế thừa
nghề dệt cổ truyền từ xưa, biết dùng chỉ gai dệt những tà muồng, xà bôn, pel, cà
tu…, biết dùng lá, rễ, vỏ cây, củ rừng làm thuốc nhuộm chỉ, có màu sắc rực rỡ để
dệt nên những tấm vải với các kiểu hoa văn đẹp. Các hoa văn được dệt cùng một
lúc, hay có thể nói họ vừa là thợ dệt vừa là thợ thêu. Người Ca Dong ưa thích màu
đỏ, màu xanh, màu vàng. Theo đồng bào thì màu đỏ biểu hiện cho sự vươn lên, cho
khát khao tình yêu, màu xanh biểu hiện cho sông núi, màu vàng biểu hiện cho ánh
sáng. Kết hợp hài hoà giữa con người và thiên nhiên. [12, tr.4]
Để thoả mãn nhu cầu cuộc sống, hình thức kinh tế chiếm đoạt còn chiếm một
vị trí nhất định như khai thác lâm sản, hái lượm rau quả, săn bắn thú rừng, đánh bắt
cá. Trong săn bắn, đồng bào hay dùng tên, nỏ, giáo, mác và các loại bẫy để bắt thú
rừng, chim muông. Đồng bào dọc sông, suối thì dùng lưới, dao phóng, đơm hoặc
ngăn bờ tát cạn để bắt cá.
17
Xưa kia, hàng năm mùa thu hoạch, đồng bào các làng thường mang sản phảm
dư thừa sang các làng khác, vùng khác để trao đổi, mua về những nhu yếu phẩm
thiết yếu như vải, muối, cá khô, mắm, nông cụ, rượu... Ngược lại đồng bào các làng
cũng đón tiếp trao đổi hàng với những thương lái, người bán hàng từ nơi khác đến.
Đồng bào Ca dong mua rượu ít vì chủ yếu là uống rượu cần, rượu đoát tự làm, tuyệt
đối không xuất lúa gạo ra ngoài, không nhập heo, gà, vịt. Trong việc trao đổi, đồng
bào đã dùng một số sản phẩm làm vật quy ước ngang giá như ché, chiêng, nồi
đồng…mà giá trị của nó dường như thống nhất trong vùng và cả khu vực bắc Tây
Nguyên. Ngày nay, khi người Ca Dong thu hoạch các loại sản phẩm, họ mang đến
các thương buôn người Kinh để trau đổi mua bán.
Hiện nay, người Ca Dong chưa có chữ viết nhưng có tiếng nói. Ngôn ngữ của
người Ca Dong theo ngữ hệ Môn – Khơ me. Họ có phong tục tập quán, tín ngưỡng,
lễ hội, nhạc khí mang bản sắc dân tộc của mình. Từ sau cách mạng tháng tám 1945,
người Kinh đến vùng Ca Dong ngày càng nhiều. Tính cách, phong tục, tập quán
người Kinh ở Sơn Tây cũng giống như người Kinh ở vùng đồng tỉnh Quảng Ngãi.
Giữa hai tộc người Ca Dong và Kinh ngày càng học được nhiều tiếng nói của nhau,
ngày càng hiểu biết nhau hơn và việc giao lưu kinh tế văn hoá ngày càng phát triển.
Ngày nay, người Ca Dong được học và viết được tiếng quốc ngữ.
Người Ca Dong xưa kia nặng về chế độ mẫu hệ, vai trò người phụ nữ được
đề cao. Phụ nữ là người chủ gia đình, là người duy nhất được làm các lễ thức liên
quan đến hồn lúa. Ngày nay quan hệ nam, nữ trong gia đình và xã hội là bình đẳng,
không còn nặng mẫu hệ và cũng không quá nặng phụ hệ như một số dân tộc khác.
Tộc người Ca dong có đời sống văn hoá tinh thần đa dạng, phong phú. Đồng
bào có tính cần cù, nhẫn nại, thật thà, chất phác, từ xưa có phong tục “gác chòi để
chứa thóc gạo. Để của ở ven khe, không lấy trộm của nhau; dẫu nghèo cực vẫn
không ăn xin. Đồng bào có tinh thần thượng võ, có ý chí chiến đấu cao, trọng danh
dự, tự tôn, tự lập, phổ biến tục kết nghĩa anh em; tính cách thuần phác, trung thực,
trọng danh dự của người Ca Dong biểu hiện rõ nhất là nói như “thắt gút”, như “rựa
chém cột”, đã tin là theo, đã ưng cái bụng là làm, đã không ưng là chống đến cùng.
18
Ngoài lễ tết, người Ca Dong còn có lễ hội ăn Trâu (Ká Kapơ) nhằm tạ ơn
thần linh, tổ tiên đồng thời cũng là dịp để gia đình khoản đãi bà con họ hàng, người
cùng làng; khi gia đình mình tai qua nạn khỏi, người ốm hết bệnh, làm ăn khấm khá.
Tuy là lễ của gia đình, nhưng cả làng góp chung sức chăm lo. Mọi người giúp gia
chủ ủ rượu cần, hái rau, bắt cá, dựng nêu, tìm hoa rừng. Riêng Klung để trang trí cây
Nêu và sừng Trâu. Cây nêu và lễ hội ăn Trâu của người Ca dong có nhiều chi tiết
khá độc đáo, mang đậm bản sắc dân tộc. Cùng với thịt trâu, rượu cần, chủ nhà còn
mổ heo, gà để đãi mọi người no say, tận hưởng niềm vui, đánh chiêng, múa hát tâm
tình thâu đêm suốt sáng hai ba ngày liền. Lễ tết và lễ hội ăn Trâu của người Ca dong
ngày trước thường tốn nhiều lương thực, gia súc. Thời gian gần đây, ngày lễ hội ăn
trâu được giảm bớt thủ tục, thu nhỏ khoản chi dùng dần dần khắc phục tệ lãng phí.
Trong lễ tết, lễ hội ăn trâu, lễ tạ thần, cầu an hoặc những lúc nhàn rỗi, người
Ca Dong thường đánh chiêng, túc chinh, đánh đàn, múa hát, kể chuyện đến tận đêm
khuya. Dàn chiêng Ca dong có 2 loại: loại sáu chiếc gọi là chinh kan, loại 12 chiếc gọi là chinh h’linh. Trống thì có hơ – gâr. Đàn thì có broocjiêng hai dây, broóctru ba dây, broócgoong tám dây, broóckrâu từ tám đến mười sáu dây... có đàn kéo r’doong, rơ úk, đàn môi r’ngoi, đàn gõ trên nứa t’rưng, đàn nứa đặt dưới suối a’khung. Kèn thì có a’ben, klang h’lôm. Dân ca thì có hát đối đáp, ra nghé, hát trữ tình Hoi, hát tự do
Plét.
Quan hệ hôn nhân của người Ca Dong theo nguyên tắc nam nữ tự do tìm hiểu
kết hôn, một vợ một chồng. Quan hệ tính giao trước hôn nhân bị cấm chặt. Tội hủ
hoá bị phạt vạ nặng, thậm chí vợ chồng sinh con năm đầu mới cưới cũng bị xem như
ngoại tình. Người Ca dong không chấp nhận hôn nhân giữa những người huyết
thống trong phạm vi ba đời cả phía cha lẫn phía mẹ.
Là cư dân nông nghiệp ở vùng cao, tộc người Ca dong có những lễ thức tín
ngưỡng theo thuyết “vạn vật hữu linh”, thường thờ thần mặt trời, thần núi, thần
sông, hồn ma, hồn lúa…nhất là thờ thần mặt trăng (y cổ, y cả), cầu mong các siêu
linh phù hộ che chở cho cuộc sống yên lành, mùa màng tốt tươi. Cây đa được người
19
Ca dong cho là thần linh trú ngụ, tượng trưng cho sự trường sinh bất tử. Họ lấy lá đa
treo vào tóc, mong đựơc sống vĩnh hằng.
Thu hoạch xong mùa màng, đồng bào tổ chức sửa chữa lại máng nước, dựng
nêu, làm lễ cúng máng nước, cầu mong một năm mới thịnh vượng hơn. Máng nước
tượng trưng cho cả làng. Cúng máng nước là hình thức có kết cộng đồng.. Chủ làng
đứng ra cúng thần làng và các siêu nhân khác, cầu xin cho dân làng khoẻ mạnh, mùa
màng tốt tươi, đàn gia súc phát triển. Cả làng góp đồ đến cúng và ăn chung ở máng
nước rồi về tổ chức ăn uống ở từng nhà.
Điểm qua một vài nét về đời sống văn hoá tinh thần đa dạng phong phú như
trên để khẳng định dân tộc Ca Dong chẳng những cần cù lao động sản xuất trong
điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt để tự túc kinh tế mà còn sáng tạo trong văn hoá
văn nghệ. Đó là những lễ hội, nhạc khí dân tộc, hoạt động ca múa nhạc dân gian,
nhiều chuyện cổ tích…khá độc đáo, mạng đậm bản sắc dân tộc, góp phần làm cho
dân tộc trường tồn và ngày càng hoàn thiện mình.
1.4. Giới thiệu khái quát công trình thủy điện Đắk Đrinh
Công trình thủy điện Đắk Đrinh nằm trên sông Đắk Đrinh là nhánh sông cấp 1 của hệ thống sông Trà Khúc. Diện tích lưu vực sông Trà Khúc là 3240km2, tới tuyến công trình là 420km2. Chiều dài toàn bộ sông từ nguồn tới cửa sông là 135km,
tới tuyến công trình là 20,9km. Tuyến đầu mối công trình được bố trí trên nhánh
Đắk Đrinh, cách ngã 3 sông khoảng 1,5km. Toàn bộ vùng hồ công trình và các công
trình phụ trợ khác chủ yếu nằm trên hai huyện Kon Plong thuộc tỉnh Kon Tum và
huyện Sơn Tây của tỉnh Quảng Ngãi. Các xã trong huyện Kon Plong bị ảnh hưởng
hai xã Dak Rin và Dak Nin. Các xã bị ảnh hưởng bởi công trình trong huyện Sơn
Tây tỉnh Quảng Ngãi là Sơn Dung, Sơn Mùa. Đây là các xã nằm trong vùng lòng hồ
và các công trình đầu mối. Các xã Sơn Dung và Sơn Tân là các xã bị ảnh hưởng bởi
tuyến đường ống áp lực, tháp điều áp và nhà máy. Chủ đầu tư của dự án là công ty
cổ phần thủy điện Đắk Đrinh. Khu vực công trình là một vùng sâu và vùng xa của
hai tỉnh Quãng Ngãi và Kon Tum, nơi có nhiều đồng bào Ca Dong sinh sống. Việc
20
xây dựng dự án tại địa phương sẽ là một đòn bẩy, kích thích kinh tế phát triển, nâng
cao môi trường và mức sống hiện nay [5,tr.4].
21
CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG TÁI ĐỊNH CƢ VÀ PHƢƠNG THỨC SINH KẾ CỦA NGƢỜI XƠ ĐĂNG TẠI CÁC KHU VỰC TÁI ĐỊNH CƢ
2.1 Khái quát tình hình sinh kế của cộng đồng ngƣời Xơ Đăng
2.1.1 Một vài nét về điểm tái định cư
Thực hiện Công văn số 2775/UBND-CNXD của UBND tỉnh Quảng Ngãi về
việc quy hoạch tổng thể và chi tiết di dân, tái định cư và tổ chức sản xuất vùng tái
định cư dự án thủy điện Đak Đrinh; UBND huyện Sơn Tây đã phê duyệt quy hoạch
4 khu tái định cư trên địa bàn ba xã: Sơn Long, Sơn Dung và Sơn Liên; tổng số hộ
trong khu vực lòng hồ phải thực hiện di dân, tái định cư là 195 hộ.
Tại khu vực nhà máy có 12 hộ di chuyển vào khu tái định cư. Hiện nay các
hộ đã di dời và ổn định cuộc sống. Tại khu vực lòng hồ có 182 hộ bao gồm tại xã
Sơn Liên có 33 hộ tái định cư đã di chuyển lên nơi ở mới 33 hộ, trong đó có 25 hộ
vào điểm tái định cư tập trung và tám hộ tự lo chổ ở. Tại xã Sơn Dung có 60 hộ tái
định cư, đã chuyển lên nơi ở mới 38 hộ vào điểm tái định cư tập trung và 22 hộ tự
lo. Tại địa bàn xã Sơn Long có 89 hộ tái định cư và chuyển lên nơi ở mới là 33 hộ,
56 hộ tự lo. Tính đến ngày 15/08/2013 có tất cả 182 hộ dân trong khu vực lòng hồ
đã di dời ra khỏi công trình, trong đó có 25 hộ đã được xây dựng nhà tái định cư ổn
định cuộc sống; 71 hộ đang xây nhà tái định cư và 86 hộ tái định cư tự do. Tại khu
tái định cư Nước Vương (xã Sơn Liên) đã hoàn thiện các cơ sở hạ tầng và đưa vào
sử dụng 25 nhà. Tại khu tái định cư Nước Lang (xã Sơn Dung), Anh Nhoi đang triển
khai xây dựng nhà ở, điện đường, nhà văn hóa và trường mầm non [4, tr.34]. Tại các
khu tái định cư định canh có độ cao trung bình từ 460 đến 500m, địa hình trong khu
vực là các quả đồi có độ dốc lớn. Đây cũng là đặc trưng của địa hình khu vực bị phân cắt mạnh. Địa hình đồi núi khá dốc nghiêng sườn từ 15 đến 20o. Qua khảo sát
thực tế, chúng tôi nhận thấy tại khu tái định cư đất dốc có thể xảy ra sạt lở nếu trời
mưa. Điều này sẽ gây ảnh hưởng đến sự an toàn của người dân vùng tái định cư.
Gần khu vực tái định cư không có đất để dùng cho canh tác các loại cây hay lúa,
22
chính vì thế người dân sẽ gặp nhiều khó khăn trong ổn định đời sống tại chỗ mới. Ở
đây đất chủ yếu là đất đỏ vàng trên phiến cát và đất mùn vàng. Hai loại đất này
không thích hợp cho việc trồng cây lúa, nhưng lại phù hợp cho các loại cây ngắn
ngày. Tại khu tái định cư có hệ thống sông suối cung cấp nước cho sinh hoạt và sản
xuất. Người dân được đưa tập trung sống tại các khu vực gần cánh rừng nhiệt đới
nghèo. Nhưng rừng chủ yếu là các cây bụi, xen kẽ là các cây trồng hoa màu của
người dân. Giá trị kinh tế của các cánh rừng không cao. Những cánh rừng chủ yếu là
cây bụi và do đất vàng nên khả năng giữ đất không cao. Chính vì điều này, đường
vào khu tái định cư nhiều chỗ do đất sạt lở tình trạng nghiêm trọng, người dân khó
mà di chuyển đến những nơi khác.
2.1.2 Thiệt hại kinh tế vùng bị ảnh hưởng từ dự án
Theo kết quả điều tra được thực hiện trong dự án thủy điện Đắk Đrinh cho
một số kết quả điều tra về thiệt hại kinh tế. Tại vùng lòng hồ, tổng 533 hộ (tính luôn
xã Đắk Nên huyện KonPlong) với số lao động 1064, tổng nhân khẩu: 2272 người.
Đây là số hộ bị ảnh hưởng và cần phải tái định cư cho các hộ này [4,tr.23].
Bảng 1: Số hộ ảnh hƣởng cần tái định cƣ của dự án
Đơn vị: hộ
Dân tộc Sơn Dung Sơn Mùa Tổng số
Kinh 47 0 47
Ca Dong 241 90 331
Tổng số hộ 288 90 378
Số liệu năm 2005 [4, trang 23]
Qua đây ta thấy số hộ bị ảnh hưởng hầu hết là dân tộc Ca Dong với 331 hộ/
378 hộ chiếm 87,57%. Một số cơ sở hạ tầng của các xã bị ảnh hưởng bởi dự án gồm
trường học, trụ sở y tế, trụ sở Ủy ban, hệ thống cấp nước sạch, đường dây diện. Như
23
vậy ta thấy rằng công trình thủy điện làm ảnh hưởng đến đời sống, văn hóa và phong
tục tập quán của người Ca Dong. Vấn đề quan tâm là sau khi tái định cư cần có
những chính sách phù hợp để hổ trợ giúp đỡ người dân nhanh chóng ổn định cuộc
sống. Nếu không có biện pháp hợp lý thì gây ra nhiều khó khăn cho đồng bào người
Ca Dong, bên cạnh đó, có thể có nhiều vấn đề tiêu cực khi đưa người Ca Dong vào
khu tái định cư.
Bảng 2: Thống kê thiệt hại dự án thủy điện
Số hộ bị ảnh hƣởng Nhà ở (đơn vị: m2)
Xã Dân tộc Số hộ Số lao Tổng nhân Tôn Tranh Ngói Nhà cấp
động khẩu 4
Sơn Kinh 47 81 160
Dung Ca dong 241 493 995 658 7874 160 5575
Sơn Kinh 0 0 0
Mùa Ca dong 90 147 416 0 2030 198
Số liệu năm 2005 [4, tr. 29]
Qua số liệu trên bảng thống kê, cho ta thấy mức độ bị ảnh hưởng từ dự án
thủy điện Đắk Đrinh đến số hộ và số lao động của người Ca Dong tại hai xã rất lớn.
Khi dự án di dời người Ca Dong thì đồng thời cũng làm mất đi những hoạt động
kinh tế hàng ngày gắn liền với nơi họ sinh sống. Vấn đề đặt ra ở đây làm như thế
nào để có thể hỗ trợ giải quyết việc làm cho một lượng lao động lớn. Bên cạnh đó,
người lao động trong hộ người Ca Dong mất việc làm sẽ ảnh hưởng đến kinh tế của
hộ dân. Đối với người Ca Dong sản xuất nông lâm nghiệp vẫn đóng vai trò quan
trọng đặc biệt là trồng lúa. Đây là nguồn lương thực chính cho địa phương. Do đặc
điểm của địa hình, diện tích cho trồng lúa địa phương rất giới hạn. Các diện tích này
tập trung ở ven sông lại là nơi lòng hồ tương lai của dự án. Chính vì vậy, chúng tôi
24
nhận thấy rằng ban quản lý dự án và chính quyền địa phương cần phải tìm ra một
giải pháp thay thế và chuyển đổi cơ cấu cây trồng là một việc quan trọng. Năng suất
lúa cả năm 2003 trong các xã bị ảnh hưởng đạt được từ 21,0 – 24,0 tạ/ha. Rừng hiện
nay, cũng là nguồn thu nhập của người dân địa phương. Diện tích rừng chiếm một
diện tích lớn[4, tr.14]. Diện tích rừng và giá trị sản phẩm lâm nghiệp trên địa bàn
như sau:
Bảng 3: Diện tích rừng tại huyện Sơn Tây thuộc dự án
Loại rừng Diện tích (ha) %
Đất dùng vào lâm nghiệp 14.617,5 50,0 %
Rừng tự nhiên 11.350,2 38,8 %
Rừng trồng 3267,2 11,2%
Tổng 29234,9 100%
Số liệu năm 2005 [4, tr.14]
Bảng 4: Giá trị sản xuất lâm nghiệp trên địa bàn
Đơn vị: 10 triệu đồng
Khai thác Trồng rừng và nuôi Giá trị Tổng số % gỗ và lâm % rừng sản
H.Sơn Tây 3.246,1 2.436,2 75% 809,9 25%
Số liệu năm 2005 [4, tr.14]
Dựa vào bảng số liệu, số lượng 29234,9 ha rừng bị ảnh hưởng bởi dự án.
Trong đó, rừng dùng vào lâm nghiệp chiếm 50%, rừng tự nhiên là 38,8%. Vậy một
phần lớn diện tích đất dùng để sản xuất lâm nghiệp của người dân bị mất đi. Điều
25
này sẻ làm ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng sản xuất của các hộ dân. Họ bị co
hẹp về nguồn lực tự nhiên ở đây là đất dùng cho lâm nghiệp. Qua bảng (4) cho ta
thấy giá trị sản phẩm của sản xuất lâm nghiệp của người dân vùng bị ảnh hưởng bởi
dự án.
Ngoài trồng trọt thì ngành chăn nuôi của địa phương cũng mang tính chất tự
cung tự cấp cho sinh hoạt. Tập quán thả rông các loại động vật nuôi trong hộ gia
đình như: lợn, bò, gà phổ biến. Do hệ thống giao thông đi lại còn khó khăn nên việc
trao đổi và buôn bán vật nuôi cho mục đích kinh tế hầu như chưa phát triển.
Bảng 5: Hiện trạng chăn nuôi của vùng dự án.
STT Loại con H.Sơn Tây
1 Trâu 1.174
2 Bò 3.650
3 Lợn 4.622
4 Gia cầm 19.895
Số liệu năm 2005 [4, tr.14]
Hiện nay, diện tích mặt nước cho nuôi trồng thủy sản là rất ít do điều kiện địa
hình của khu vực. Phần lớn là nuôi cá nước ngọt tại những nơi có điều kiện thành
ao, nhưng diện tích không lớn. Giá trị sản xuất của ngành thủy sản rất nhỏ không
đáng kể và chỉ cho mục đích tiêu thụ hộ gia đình, không có giá trị buôn bán. Giá trị
thủy sản sản lượng năm 2003 là 8,385 tấn. Giá trị nuôi trồng thủy sản so với kinh tế
chung là rất ít không đáng kể.
Tại ba xã bị ảnh hưởng từ dự án từ trung tâm xã tới khu vực các thôn xóm
trong khu vực lòng hồ chỉ thực hiện được bằng đi bộ hoặc xe ôm kết hợp. Tình trạng
đường sá quá xấu, nhất là vào mùa mưa. Việc hệ thống đường giao thông khó khăn
đã ảnh hưởng rất lớn tới phát triển kinh tế và giao lưu của địa phương. Đây là một
26
vùng địa hình bị chia cắt mạnh, nhiều sông suối do đó việc phát triển hệ thống giao
thông cũng rất khó khăn vì đòi hỏi kinh phí quá lớn. Người Ca Dong tại vùng ảnh
hưởng của dự án bị mất đi chủ yếu về nguồn lực tự nhiên. Trong khi đó, người Ca
Dong hoạt động kinh tế dựa vào môi trường tự nhiên là chủ yếu. Chính điều này,
Ban quản lý dự án và chính quyền cần lưu ý khi đưa dân vào vùng tái định cư.
Chính quyền phải có những chính sách để hổ trợ người dân khi không còn đất canh
tác như trước nơi ở cũ.
2.1.3. Tình hình bồi thường hỗ trợ cho các hộ tái định cư
Chính sách bồi thường của dự án được xây dựng trên quy định tại Nghị định
197 của Chính phủ, tuy nhiên do đặc thù khác nhau của mỗi dự án, có thể có những
chính sách riêng để phù hợp, nhưng những khác biệt này phải được đa số những
người bị ảnh hưởng chấp nhận và chính quyền địa phương thông qua. Với mục tiêu
là đền bù đất đai, tài sàn và hỗ trợ kinh phí để họ có thể tái lập cuộc sống mới bằng
hoặc tốt hơn nơi ở cũ. Đối với những hộ thuộc diện nhận đất trong khu tái định cư sẽ được nhận 400m2 đất đã san ủi và phân lô theo đúng tiêu chuẩn đất thổ cư với đầy
đủ cơ sở hạ tầng. Hộ trong khu tái định cư được nhận tối thiểu 1ha đất nương rẫy
hoặc 0,5ha đất ruộng lúa nước 1 vụ hoặc 0,3 ha ruộng lúa nước 2 vụ. Đối với hộ
nhận đất trong khu tái định cư sẽ được nhận một căn nhà cấp 4 có diện tích tính theo nhân khẩu cụ thể: 6 nhân khẩu trở lên được xây dựng 9m2/ khẩu, 3 đến 5 nhân khẩu được xây dựng 10m2/ khẩu, 2 nhân khẩu được xây dựng nhà có diện tích 25m2/ khẩu
hộ [4, tr.52].
27
Bảng 6: Khoản chi phí chính sách hỗ trợ:
STT Nội dung Số tiền (triệu đồng / hộ)
1 Hỗ trợ việc di chuyển
Trong phạm vi huyện 1.000.000
Huyện này sang huyện khác 2.000.000
2 Ổn định đời sống 150.000
3 Hộ sản xuất nông nghiệp 2.000.000
4 Hộ làm công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp 1.500.000
5 Hộ kinh doanh 1.000.000
6 Gia đình chính sách 1.500.000
7 Ổn định sản xuất 2.000.000
8 Hỗ trợ tưới sản xuất nông nghiệp 3.000.000
Số liệu năm 2005 [4, tr.35]
Dự án cũng đã triển khai thi công các hạng mục ở khu tái định cư, thu hồi đất, cấp đất cho dân tái định cư theo định mức 400m2 đất ở, 600m2 đất vườn, 01 ha đất
sản xuất cho 1 một tái định cư. Nhà tái định cư cho hộ dưới 5 khẩu có diện tích 65m2, trong đó nhà chính 45m2, nhà vệ sinh, nhà bếp 20m2; nhà cho hộ có 5 khẩu trở lên có diện tích 85m2, trong đó có nhà chính 65m2, nhà vệ sinh, nhà bếp 20m2.
Tại khu vực bị ảnh hưởng nhiều nhất là khu vực hồ chứa có diện tích đất thu
hồi 460,28 ha; đã kiểm đếm cây cối, hoa màu và phê duyệt phương án bồi thường
cây cối hoa màu, tổng kinh phí bồi thường đã chi trả cho dân là 33.346,513 triệu
28
đồng; phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư hạng mục lòng hồ, địa
điểm Sơn Liên, tổng kinh phí là 45.192.767.325 đồng đã chi trả cho dân. [14, tr.8]
Bảng 7: Phƣơng án bồi thƣờng đang lập tại hai xã
Xã Sơn Long Xã Sơn Dung
114,4 ha 220,08 ha Diện tích
164 hộ 272 hộ Số hộ
69.592 triệu đồng 82.026 triệu đồng Số tiền bồi thƣờng
Số liệu năm 2005 [15, tr. 8]
Bảng 8: Phƣơng án bồi thƣờng, giải phóng mặt bằng tại các khu tái định cƣ
Nước Vương Nước Lang Anh Nhoi 2
Diện tích 15,3 ha 12,4 ha 11,7 ha
Số hộ 56 hộ 75 hộ 60 hộ
Số tiền bồi thường 8.404 triệu đồng 7.708 triệu đồng 8.500 triệu đồng
Số liệu năm 2005 [15, tr.9]
2.2 Sự thay đổi nguồn sinh kế của các hộ dân khu vực tái định cƣ
Sinh kế của mỗi hộ dân được cấu thành bởi năm nguồn lực: nguồn nhân lực
(kỹ năng, kiến thức, khả năng lao động, sức khỏe), nguồn lực xã hội (uy tín của hộ,
các mối quan hệ xã hội), nguồn lực tự nhiên (các tài nguyên thiên nhiên: đất, nước.
khí hậu, cây trồng), nguồn lực vật chất (nhà ở, phương tiện đi lại, thông tin) và
nguồn lực tài chính (tiền, tín dụng, các nguồn hỗ trợ khác)[18]. Tại nơi ở mới, các
nguồn lực của các hộ dân có nhiều thay đổi, nhất là nguồn lực tự nhiên, bởi hộ dân
phải di chuyển từ nơi cũ sang vùng đất mới.
29
2.2.1 Nguồn lực con người
Con người là vốn quan trọng nhất của các nguồn lực sinh kế của hộ gia đình,
của cộng đồng, trong đó học vấn là một trong những chỉ tiêu phản ánh chất lượng
nguồn nhân lực và thay đổi chất lượng cuộc sống của hộ dân. Thực tế cho thấy học
vấn của lao động trong các hộ điều tra mới chỉ dừng lại ở trình độ tiểu học, trung
học, điều này phản ánh đúng với thực tế trình độ văn hóa dân trí của người dân khu
tái định cư. Tại xã Sơn Liên “trong thời gian qua các cấp học từ mầm non đến trung
học cơ sở, trường lớp từng bước kiên cố hóa; cơ sở vật chất trang thiết bị phục vụ
dạy và học được tăng cường. Học sinh đi học đều hơn so với các năm trước, phổ cập
giáo dụng tiểu học đúng độ tuổi và chống mù chữ. Năm học 2013 – 2014 có 3 cấp
học gồm THCS với 109 HS/2 lớp/16 CBNV, tiểu học với 193HS/22 lớp/29 CBNV
và mầm non với 94 cháu/7 lớp/10 CBNV [14, tr.7].
Bên cạnh đó, tại khu tái định cư của xã Sơn Liên cũng có điểm trường học
THCS cách 1km. Đường di chuyển gặp nhiều khó khăn vào mùa mưa do tình trạng
sạt lở ảnh hưởng đến việc học của học sinh nơi đây. Đối với xã Sơn Dung tình hình
dạy và học trên địa bàn còn gặp nhiều khó khăn do tình trạng bỏ học và học giã gạo.
Đặc biệt trong tháng 02, 3, 4 là mùa đót, mùa đâm trâu…nên các em thường xuyên
nghỉ học. Trong năm 2013, tình hình ra lớp và nhập học vào các lớp mầm non, tiểu
học và THCS của các trường tương đối đảm bảo; tỉ lệ học sinh 5 tuổi vào mẫu giáo,
6 tuổi vào lớp 1 và học sinh hoàn thành chương trình tiểu học vào lớp 6 đạt 100%.
Cụ thể: tỉ lệ học sinh ra lớp đối với bậc học: mầm non đạt 100% (132/132), tiểu học
97,3% (360/360), THCS 85% (152/197) [13, tr.8].
Hầu hết các hộ đều làm nghề nông nghiệp, nguồn sống dựa vào sản xuất nông
nghiệp. Trước khi tái định cư có 195 hộ và đến thời điểm hiện tại (sau tái định cư)
dân số các hộ là 108 hộ tập trung vào khu tái định cư. Tất cả các lao động đều tham
gia sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên diện tích đất nông nghiệp đã bị thu hẹp, nhưng
nguồn lao động vẫn chưa chuyển sang lĩnh vực phi nông nghiệp, nên xảy ra tình
trạng dư thừa lao động. Trình độ dân trí thấp kém và hiểu biết kinh tế kĩ thuật còn
30
lạc hậu, phụ thuộc nhiều vào tự nhiên, năng suất kém, còn thiếu ăn ở nhiều hộ gia
đình.
Qua khảo sát thực địa, chúng tôi nhận thấy rằng khó khăn hiện tại là việc
được đi học của các em. Các em ở khu tái định cư phải đi bộ đến trường, vì thế hầu
như chỉ học đến hết THCS (vì THPT cách các khu tái định cư đến 8km, đường đi lại
khó khăn vào mùa mưa). Số lượng, trình độ lao động của các hộ không có nhiều
khác biệt. Chúng tôi nhận thấy dự án chưa trang bị thêm về kiến thức, kĩ năng nhằm
tạo thêm việc làm mới cho người dân. Các nguồn sinh kế của họ bị co hẹp lại (do
mất đất) nhưng lại không được bổ sung hoạt động khác thay cho nông nghiệp. Nếu
người dân trang bị thêm nhiều kiến thức và kĩ năng sẽ giúp họ có điều kiện ổn định
hoạt động kinh tế lâu dài. Mặt khác, nâng cao trình độ văn hóa sẽ giúp các hộ lao
động tiếp cận nhanh với những phương pháp sản xuất mới.
2.2.2 Nguồn lực xã hội
Liên quan đến mối quan hệ xã hội của cộng đồng người Ca Dong tại khu tái
định cư rất thân thiết, họ vẫn giữ được mối quan hệ từ trước khi chuyển về nơi ở
mới. Họ vẫn thường tổ chức những lễ hội văn hóa nhằm liên kết các thành viên
trong cộng đồng lại với nhau. Bên cạnh đó, tại khu tái định cư có xây dựng nhà họp
thôn là nơi sinh hoạt không thể thiếu của người Ca Dong. Các mối quan hệ trong
cộng đồng vẫn được duy trì, ngoài ra, họ cũng dần có mối quan hệ gần gũi với người
Kinh, họ cũng biết nói tiếng Kinh. Theo lời kể của cô Đinh Thị Truyền, trưởng
phòng Dân tộc huyện Sơn Tây, “vào các mùa lễ hội người Ca Dong mời những
người Kinh ở trung tâm cùng tham dự lễ hội”. Tại nơi ở mới, nhà văn hóa được xây UBND Xã Sơn Dung dựng hiện đại, khang trang và rộng lớn hơn để tạo điều kiện cho người dân duy trì
hoạt động văn hóa của cộng đồng tại đây.
2.2.3 Nguồn lực vật chất
Mỗi hộ dân phát triển kinh tế phải phụ thuộc vào nhiều yếu tố như phương
tiện đi lại, nhà ở.... Ở phần nghiên cứu này chúng tôi tìm hiểu về nhà ở, phương tiện
đi lại và thông tin của các hộ dân tại khu tái định cư. Khi di dời người dân thì ban
31
quan lý dự án và chính quyền đã có những quy định về mức độ đền bù nhà ở. Nhà tái định cư là kiểu nhà cấp 4 dành cho hộ dưới 5 khẩu có diện tích 65m2, trong đó nhà chính 45 m2, nhà vệ sinh, nhà bếp 20m2; nhà cho hộ có 5 khẩu trở lên có diện tích 85m2, trong đó nhà chính 65 m2, nhà vệ sinh, nhà bếp 20m2 [4, tr. 54].
Mẫu nhà xây dựng trong khu tái định cư phải được các hộ gia đình chấp
thuận, phù hợp với tập quán sinh hoạt của người dân. Mặc dù để thực hiện dự án
này, chính quyền đã cho lấy ý kiến của người dân về kiểu nhà mới. Theo kết quả
điều tra của chúng tôi “Khi được hỏi là nhà ở hiện tại có phù hợp” nhận được ý kiến
có 6 hộ (21,4%) cho là rất phù hợp, 11 hộ (39,3%) phù hợp và 11 hộ (39,3%) không
phù hợp. Bên cạnh đó, chúng tôi nhận thấy một điểm đáng chú ý bên cạnh nhà mới
còn xây dựng nhà theo kiểu cũ. Vậy phải chăng nhà mới không đáp ứng được những
nhu cầu sinh hoạt cũng như tập quán của người dân. Nhà mới được dùng để ngủ và
chứa những đồ dùng. Đối với nhà sàn, người dân dùng để sinh hoạt, nấu ăn, tiếp
khách, sinh hoạt gia đình.
32
Bảng 9 : Ý kiến đánh giá về hai nơi ở
Diện tích nhà ở Chất lƣợng nhà ở
Kém hơn nơi ở cũ 19 hộ 67,9% 0 hộ 0%
Bằng nơi cũ 9 hộ 32,1% 6 hộ 21,4%
Tốt hơn nơi cũ 0 hộ 0% 22 hộ 78,6%
Tổng 28 hộ 100% 28 hộ 100%
Số liệu kết quả thực địa sinh viên tháng 11/2013
Khi được hỏi ý kiến về ở nhà mới có thuận tiện cho việc sinh hoạt hay
không? Nhận được trả lời 4 hộ (14,3%) cho rằng thuận tiện, 15 hộ (53,6%) cho rằng
không thuận tiện, 9 hộ (32,15) có ý kiến bình thường. Theo kết quả điều tra cho
chúng tôi cái nhìn mặc dù đồng ý với chất lượng nhà tốt hơn nhưng họ cho rằng nhà
mới không thuận tiện cho họ. Chính vì điều này, mà nhiều hộ dân tái định cư di
chuyển nhà sàn của mình bên cạnh nhà để sử dụng cho sinh hoạt. Diện tích đất cấp
cho người dân có hạn, nên không có khu vực chăn nuôi, đặc biệt là diện tích làm
vườn. Theo ý kiến của người dân, họ không hài lòng về cách bố trí nhà mới (theo
kiểu thị trấn) vì nhà trước của họ bố trí xung quanh nhà văn hóa của thôn.
Theo kết quả điều tra “Khi được hỏi anh chị có hài lòng về trạm y tế” nhận
được 17 hộ hài lòng chiếm 60,7% ý kiến, 6 hộ bình thường chiếm 21,4% ý kiến,
17,9% ý kiến về việc không hài lòng. Chăm sóc y tế dành cho người dân đã được
quan tâm từ chính quyền. Đối với xã Sơn Liên tại khu tái định cư có trạm y tế để
người dân có thể chăm sóc sức khỏe. Khả năng tiếp cận dịch vụ y tế của người dân
được cải thiện đáng kể so với nơi ở cũ.
Hệ thống cung cấp điện tại hai khu được xây dựng hoàn thiện, cả hai nơi
chúng tôi đến đều có mạng lưới điện. Tiêu chuẩn cấp điện cho tất cả các hộ tiêu
chuẩn là 0,75KVA/ hộ. Tại khu tái định cư xã Sơn Liên đường dây điện đã đến
33
UBND xã, điện được lấy từ mỏ đá khu thi công gần tuyến đập chính. Tại xã Sơn
Dung đã có tuyến đường điện từ UBND huyện tới. Vấn đề cung cấp điện được cải
thiện đáng kể so với nơi ở trước.
Người dân có tập quán sử dụng củi làm nhiên liệu để đun nấu. Tuy nhiên diện
tích đất rừng không còn nhiều nên việc kiếm nguyên liệu làm chất đốt cho đun nấu
gặp nhiều khó khăn. Chương trình đã hỗ trợ nguyên liệu khác như dầu nhưng do tập
quán sinh hoạt của người dân lúc đầu gây nên khó khăn.
Giao thông là huyết mạch để giúp phát triển sản xuất của một vùng. Hệ thống
đường tại nơi tái định cư chưa được hoàn thiện, hiện nay đường vào khu tái định cư
xã Sơn Dung còn là đường đất. Giao thông vào khu vực tái định cư đang trở thành
trở ngại giao lưu, đi lại của người dân và phát triển kinh tế địa phương. Các xã Sơn
Dung và Sơn Liên có đường xe ô tô đi đến UBND nhưng vào khu tái định cư thì vẫn
chưa có đường, chủ yếu đi bộ và bằng xe máy. Giao thông thuận lợi sẽ giúp cho
người dân dễ dàng trau đổi, mua bán hàng hóa. Và vấn đề cấp bách vào mỗi mùa
mưa, đất sạt lở ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc di chuyển của người dân. Mặc dù
chính quyền đã có những biện pháp khắc phục tình trạng sạt lở đất vào mùa mưa,
nhưng chúng tôi nhận thấy nó chưa lâu dài. Ở đây, biện pháp không phải chỉ là từ
phía chính quyền mà cần có sự đồng lòng từ phía người dân, hạn chế chặt phá cây
rừng, trồng cây để giữ đất ở vùng sạt lở là một biện pháp cấp thiết. Nguồn nước dồi
dào giúp người dân ổn định cho việc sản xuất. Trước đó người dân sống vùng thấp
gần sông nên lượng nước dồi dào cho sinh hoạt và sản xuất. Sau khi di chuyển nên
mới, họ tích nước trong hồ ở khuôn viên nhà mới và dùng máy bơm để có nước sinh
hoạt. Tại nơi tái định cư hệ thống cấp nước đã được xây dựng hoàn thiện, nhưng vẫn
chưa có cung cấp đầy đủ cho sinh hoạt của người dân.
Tóm lại ta nhận thấy rằng, người dân vẫn chưa được thụ hưởng những chính
sách để hỗ trợ đảm bảo về an sinh xã hội. Chính quyền và ban quản lý chưa có chính
sách phù hợp để người Ca Dong thật sự đảm bảo về nguồn lực vật chất. Vấn đề quan
trọng là nhà ở chưa thuận tiện cho sinh hoạt, phong tục tập quán của người Ca
Dong. Điều này ảnh hưởng đến việc giữ gìn những bản sắc trong mỗi hộ gia đình.
34
Bên cạnh đó, người Ca Dong sẽ dễ dàng rời khỏi ngôi nhà mới và tìm lại chỗ ở
trước đây. Chính vì thế, chúng tôi nhận thấy chính quyền nên có những chính sách
phù hợp để cho người dân có thể ổn định lâu dài tại ngôi nhà mới được nhà nước chi
trả đền bù.
2.2.4 Nguồn lực tài chính
Tại các xã nằm trong vùng dự án thủy điện Đắk Đrinh, “Hầu hết các hộ có
thu nhập thấp, có một số gia đình đói nghèo, thiếu ăn trong thời gian giáp hạt. Kinh
tế của các hộ bị ảnh hưởng đặc biệt là các hộ dân tộc Ca Dong phụ thuộc vào sản
xuất lương thực và khai thác rừng. Trình độ dân trí còn thấp, đặc biệt là nhận thức
và vận dụng các tiến bộ kĩ thuật vào sản xuất và đời sống của người dân [4, tr.25].
Theo báo cáo của huyện Sơn Tây, các gia đình được nhận tiền đền bù hỗ trợ
và nhà ở khu tái định cư. Trong đợt đền bù gần đây nhất là tại xã Sơn Long, theo
ông Phạm Hồng Khuyến, chủ tịch UBND huyện Sơn Long cho biết “đợt này có 164
hộ dân nhận tiền đền bù tổng cộng 164 tỷ đồng từ dự án thủy điện Đắk Đrinh. Trong
đó, hộ nhận nhiều nhất là 2 tỷ đồng và thấp nhất là 200 triệu đồng. nhận thức của bà
con còn hạn chế, khi nhận được khoản tiền lớn họ dễ bị kẻ xấu lừa gạt hoặc tiêu xài
phung phí, nguy cơ đói nghèo sau khi nhận tiền đền bù”[19].
Qua đây một vấn đề được đặt ra việc sử dụng tiền dự án sau khi chuyển sang
tay của người dân chưa hiệu quả bởi nó thuộc tài sản của dân, nhà nước không thể
kiểm soát được. Để sử dụng số vốn có hiệu quả thì cần đến các tổ chức và cả chính
quyền chịu trách nhiệm hướng dẫn hộ tái định cư cách thức làm đồng tiền sinh lợi,
trong đó gởi số tiền tiết kiệm là một cách. Nếu không xài đúng cách thì các hộ tái
định cư có nguy cơ đối mặt với cái nghèo. Theo anh Đinh Văn Thái tại khu tái định
cư Nước Vương xã Sơn Liên cho biết “ngoài căn nhà trị giá hơn 500 triệu đồng, gia
dình còn nhận tiền đền bù từ đất đai hoa màu khoảng 450 triệu đồng nữa. tuy nhiên ,
khoảng tiền này dùng đóng bàn ghế, giường tủ mua chăn nệm cho căn nhà mới, một
chiếc xe máy, giàn karaoke, cặp loa. Số còn lại trả nợ cho “con buôn”, chủ hàng tạp
35
hóa. Sau khi chi tiêu hết tiền đền bù rồi thì vợ chồng đi làm thuê, vào rừng tìm nơi
phát rẫy làm kiếm sống” [19].
2.2.5 Nguồn lực tự nhiên
Các hộ tái định cư trong vùng nghiên cứu đều có diện tích đất sản xuất trong
vùng lòng hồ của dự án thủy điện, vì vậy họ được đền bù và cấp đất ở nơi ở mới.
Các hộ tái định cư phụ thuộc vào hoạt động sản xuất nông nghiệp như trồng trọt,
chăn nuôi và sản xuất lâm nghiệp. Theo nghiên cứu chúng tôi đi tìm hiểu các hoạt
động sinh kế gồm sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và chăn nuôi của các hộ dân tái
định cư.
Bảng 10: Ý kiến về diện tích đất nông nghiệp tại nơi ở cũ và mới
Ý kiến Số hộ %
3 10,7 % Diện tích đất lớn hơn
5 17,8 % Diện tích đất bằng
20 71,5 % Diện tích nhỏ hơn
28 100% Tổng
Số liệu kết quả thực địa sinh viên tháng 11/2013
Hoạt động sinh kế chủ yếu của người dân tái định cư vùng thủy điện Đắk
Đrinh là sản xuất nông nghiệp. Đất sản xuất nông nghiệp là nguồn sinh kế đóng vai
trò quan trọng củ các hộ dân. Đất đai là tư liệu sản xuất tạo ra nguồn thu nhập đáp
ứng nhu cầu hàng ngày, và cũng là nguồn tạo ra thu nhập. Đất nông nghiệp của các
hộ phụ thuộc vào khả năng và nhu cầu của họ. Theo kết quả điều tra, sau khi tái định
cư có 10,7% ý kiến cho rằng diện tích đất lớn hơn và 17,8% cho rằng diện tích đất
bằng. Và có 71,5% ý kiến cho rằng diện tích đất dùng cho sản xuất nông nghiệp tại
nơi ở mới nhỏ hơn. Đất đai được hổ trợ chưa khai thác và phần lớn là rừng thứ sinh
và cây bụi. Dù có khai hoang nhưng mà vì đất mới nên chất lượng kém hơn đất canh
chổ cũ. Đất sản xuất được đền bù không đáp ứng đủ nhu cầu sản xuất của người dân
36
nên họ bị hạn chế về sản lượng nông nghiệp. Điều này làm cho người Ca Dong tìm
về chỗ đất cũ ở rất xa khu tái định cư để tiếp tục canh tác. Vậy qua đây ta thấy được
mặc dù người dân được đền bù hỗ trợ nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu của người
dân. Đặt vấn đề là làm sao người dân có thể ổn định đời sống nếu không có được tư
liệu để sản xuất. Việc thu hẹp đất để sản xuất khiến người dân gặp rất nhiều khó
khăn trong việc ổn định cuộc sống. Người dân không những cần đất để sản xuất
nông nghiệp mà họ còn phải biết đến những kĩ thuật khác để phát triển sản lượng.
Bảng 11: Sản lƣợng sản xuất nông nghiệp tại xã Sơn Liên
Cây lƣơng thực Diện tích (ha) Năng suất bình Sản lƣợng (tấn)
quân (tạ/ha)
Cây lúa nước 106 ha 42,8 453,68
Lúa rẫy 15 15 22,5
Cây ngô 20 25 50
Cây mì 48 180 864
Rau các loại 20 64,5 129
Đậu các loại 8 6,5 5,2
Số liệu năm 2012 [14, tr.2]
Về hệ thống thủy lợi cho canh tác, người dân chủ yếu dựa vào nước sông,
suối gần khu vực canh tác. Vì khu đất canh tác rất xa chỗ tái định cư di chuyển đoạn
đường mất gần 1 giờ. Nguồn nước chủ yếu cũng nhờ vào lượng nước mưa tích trữ.
Về người dân cho biết rằng nhu cầu sử dụng nước tại khu tái định cư chưa được đáp
ứng đầy đủ cho sinh hoạt sản xuất. Bên cạnh việc sản xuất nông nghiệp, người Ca
Dong còn sản xuất lâm nghiệp để phát triển kinh tế. Điều kiện tự nhiên phù hợp để
họ có thể phát triển các loại cây công nghiệp ngắn ngày. Để sản xuất lâm nghiệp,
37
người dân cần phải được trang bị giống và kĩ thuật sản xuất. Đây là vấn đề đòi hỏi
chính quyền cần có những người có kiến thức để giúp đỡ người dân. Bên cạnh rừng
trồng, rừng tự nhiên là nguồn tài nguyên chung, quan trọng của cộng đồng. Đối với
khu tái định cư tại xã Sơn Liên người dân được hỗ trợ các giống cây trồng mới như
xà cừ, sưa trồng phân tán. Diện tích xà cừ trồng mới ước đạt 50 ha, diện tích cây keo
là 105 ha [14, tr.3]. Tại khu tái định cư tại xã Sơn Dung diện tích trồng mới năm gần
200 ha, trong đó: diện tích rừng trồng do nhà nước hỗ trợ giống là 190 ha, dân tự
ươm và trồng khoản 10 ha (chủ yếu là cây xà cừ, huỳnh đàn, keo, quế…). [13, tr.2]
Chăn nuôi là một trong những hoạt động sinh kế của người dân. Chăn nuôi
của các hộ chưa có cải thiện đáng kể về sản lượng. Quy mô chăn nuôi của các hộ
giảm do diện tích chuồng nuôi tại khu tái định cư nhỏ. Các hộ dân phải thả rông các
gia súc chính vì thế làm quy mô chung giảm đáng kể. Các loại gia súc được chăn
nuôi: trâu, bò, heo, dê…Nhìn chung ngành chăn nuôi chỉ mang tính tự cung tự cấp
cho các hộ gia đình. Những hộ có kinh nghiệm khi di chuyển lên đến nơi ở mới cũng
áp dụng những hình thức cũ. Vệ sinh chăn nuôi hầu như không có nên nguy cơ bệnh
dịch là rất cao.
Qua hoạt động tìm hiểu sinh kế của người dân, chúng tôi nhận thấy công tác
ổn định đời sống cho người dân chưa đạt được chuyển biến tích cực. Đời sống của
người dân tái định cư phải được ổn định và bền vững về sinh kế và môi trường. Các
hộ dân khi di chuyển đến nơi ở mới, họ sẽ không có điều kiện để thực hiện các hoạt
động sinh kế như trước đây để tìm thu nhập. Những hộ thuần nông thì không được
nhận đất canh tác hoặc đất không đúng chủng loại và kém chất lượng. Hộ dân không
có đất canh tác để gia tăng sản lượng. Chính vì điều này, người dân tái định cư đi
tìm về chỗ cũ để sản xuất. Bên cạnh đó, sự đền bù và việc bồi thường chủ yếu là tiền
mặt mà chính quyền lại chưa quan tâm đến giải quyết vấn đề tạo điều kiện người
dân sản xuất. Tiền mặt được bồi thường nhiều người dân lại chưa sử dụng hợp lý
gây ra tình trạng đói nghèo sau khi sử dụng tiền đó. Chính quyền cần tuyên truyền
và giúp đỡ người dân để họ có thể sử dụng đồng tiền có ích. Mặt khác, chính quyền
cần phải có nhiều cán bộ có nhiều kĩ năng để giúp đỡ hộ gia đình này. Qua những
38
vấn đề trên đây, chúng ta nhìn nhận rằng còn nhiều vấn đề bất cập trong việc hỗ trợ
tái định cư. Người dân bị áp đạt, chưa phát huy được tính năng động và sáng tạo.
Qua đây chúng tôi thấy muốn người dân có điều kiện phát triển thì chính quyền nên
tiếp xúc và lấy ý kiến của họ về các vấn đề cần giải quyết.
2.3 Tác động chƣơng trình tái định cƣ đến sự thay đổi sinh kế của
ngƣời dân
Để đánh giá được mức độ thành công của chương trình tái định cư thì chi tiêu
của hộ gia đình là một tiêu chí quan trọng. Các hộ tái định cư cho rằng di chuyển về
nơi mới, việc thu nhập bị hạn chế vì họ bị thu hẹp đất canh tác. Đối với nơi cũ họ có
thể thu nhập về thủy sản. Tỷ trọng sản xuất nông nghiệp đến hơn 80 % trong cơ cấu.
Cơ cấu thu nhập của họ không còn đa dạng như nơi ở cũ. Cho đến nay, họ chưa
được đào tạo về các ngành phi nông nghiệp. Điều này cho thấy chính quyền chưa
tạo điều kiện cho người dân có thể tự khả năng tìm thu nhập, bền vững trong sinh kế
của người dân.
Sự thay đổi ở đây là những thay đổi trong cách quản lý nguồn vốn tài sản
nhằm tăng thu nhập, nâng cao chất lượng đời sống trước sự thay đổi. Hầu hết, các hộ
di dân đều có hoạt động sản xuất truyền thống tự cung tự cấp, phụ thuộc vào thiên
nhiên, không đầu tư về kĩ thuật như sự chăm sóc để tăng năng suất. Các hộ hầu như
không biết đến khái niệm thị trường, các hoạt động chủ yếu như trồng trọt, chăn
nuôi và khai thác rừng. Một số hộ có nguồn tài chính đầu tư mua cây keo giống để
trồng, họ áp dụng kĩ thuật mới đưa vào sản xuất. Hiện tại, người dân được tiếp cận
việc trồng lúa nước sử dụng phân bón thâm canh để nâng cao năng suất. Tuy có sự
thay đổi nhưng chưa phải là toàn diện, vì diện tích đất bị thu hẹp. Mà tâm lý của
người dân là sự ỷ lại vào số tiền trợ cấp hành tháng của chính quyền nên không có
sự khác biệt nhiều so với lúc trước. Một vấn đề đặt ra ở đây, sau khi hết các nguồn
hỗ trợ thì mức thu nhập của họ như thế nào. Vì vậy, nguồn thu nhập từ các hoạt
động sinh kế cho người dân hiện nay chưa bền vững.
39
2.4 Những kết quả và hạn chế trong quá trình tái định cƣ
2.4.1 Những thành tích đạt được
Chương trình tái định cư thuộc công rình thủy điện Đắk Đrinh góp phần
mang lại những chuyển biến tích cực trong quá trình thay đổi nguồn sinh kế của các
hộ dân khi di chuyển đến vùng đất mới thông qua các dự án phát triển cơ sở hạ
tầng, dự án trồng trọt và chăn nuôi được quy hoạc theo tiêu chí nông thôn mới. Với
sự tham gia của chính quyền và nhân dân địa phương, kế hoạch tái định cư đã được
xây dựng theo hướng tôn trọng và duy trì những văn hóa của đồng bào thiểu số
trong khu vực. Và được đánh giá là bước đi đúng hướng, ban đầu ổn định cuộc
sống sau khi tái định cư với các hỗ trợ các nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống hằng
ngày.
2.4.2 Những hạn chế cần giải quyết
2.4.2.1 Nguồn lực con người
Sơn Tây là một huyện miền núi của tỉnh Quảng Ngãi nên việc quản lý về
nguồn nhân lực còn yếu lém mang tính quan liêu và sự thiếu hụt cán bộ có chất
lượng gây ảnh hưởng đến sự thành công của chương trình tái định cư. Những thay
đổi tập quán, kỹ thuật canh tác và chương trình sinh kế là áp đặt đối với các hộ dân
hầu hết có trình độ dân trí thấp. Họ không được hỗ trợ thỏa đáng kỹ năng, kiến thức
trong việc chuyển đổi từ dạng canh tác trước đây (canh tác lúa nước) sang các dạng
canh tác khác về sản xuất nông nghiệp nương rẫy, trồng rừng, chăn nuôi. Điều này
sẽ dẫn đến việc đảm bảo an ninh lương thực cho người dân nơi đây. Trước mắt,
người dân bị ảnh hưởng đang phải đối đầu với những khó khăn về di dời đến môi
trường mới, cộng đồng, khí hậu và cuộc sống hoàn toàn mới. Về lâu dài, họ còn
gặp rủi ro vì thiếu kỹ năng lao động, không được chính quyền quan tâm. Hầu hết tất
cả người dân ở hai khu tái định cư Nước Vương xã Sơn Liên và Nước Lang xã Sơn
Dung vẫn canh tác nông nghiệp lạc hậu, thiếu tính chủ động trong sản xuất, phụ
thuộc vào thiên nhiên rất nhiều. Hằng năm, sản lượng nông nghiệp của người dân
Ca Dong tại hai khu tái định cư không cao.
40
2.4.2.2 Nguồn lực xã hội
Những kết cấu xã hội hiện tại và các quan hệ cộng đồng bị phá vỡ bởi
chia cắt giữa các thành viên và họ hàng về mặt địa lý (không cùng đến một điểm
tái định cư). Việc xây dựng nhà văn hóa thôn vẫn còn thiếu đối với khu tái định
cư Nước Lang xã Sơn Dung, gây khó khăn rất nhiều cho người dân tại nơi đây
trong việc sinh hoạt cộng đồng.
2.4.2.3 Nguồn lực tự nhiên
Việc thiếu đất đai, chất lượng xấu trong vùng đã làm cho công tác đền bù
trở nên khó khăn. Tất cả những người tái định cư hiện đang thiếu đất canh tác
nông nghiệp, hoặc phải đi rất xa mới đến nơi canh tác. Đến vùng đất mới, người
dân chưa có sự trợ giúp kịp thời của chính quyền các cấp, nên năng suất sản xuất
tại vùng đất này còn thấp. Hơn nữa hai khu tái định cư Nước Lang và Nước
Vương có vị trí địa lý không thuận lợi, nằm gần đỉnh núi. Đây là một trong
những nhân tố gây cản trở trong việc vận chuyển giống, các phương tiện kỹ
thuật, thậm chí cả sản phẩm. Vì vậy gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc sản xuất
của người dân, thậm chí làm cho giá thành sản phảm thấp, giảm khả năng tiêu
thụ sản phẩm.
2.4.2.4 Nguồn lực vật chất
Việc tổ chức nơi ở theo quy hoạch của điểm tái định cư dân cư là mỗi hộ
có nhà, công trình phụ…và một diện tích đất sản xuất. Công trình nhà ở của khu
tái định cư được xây dựng theo mẫu hiện đại và quá sát nhau và không đáp ứng
hoàn toàn so với tập quán tín ngưỡng của người dân tộc. Người dân tại hai khu
tái định cư Nước Vương và Nước Lang chưa nhận được đất bồi thường nông
nghiệp, hầu hết phải quay về nơi cũ canh tác. Thời gian đi từ khu tái định cư đến
nơi canh tác mất khoảng 2 giờ đối với khu tái định cư Nước Lang và khoảng 30
41
phút đối với khu tái định cư Nước Vương. Đường giao thông nông thôn còn rất
nhiều khó khăn, mặc dù tất cả địa phương đã có đường ô tô đến tận trung tâm xã,
nhưng đường vào khu tái định cư có tỉ lệ bê tông hóa thấp, chất lượng đường vào
thôn kém, nhất là khu tái định cư Nước Lang xã Sơn Dung hiện vẫn còn một số
đoạn là đường đất và đang sữa chửa người dân gặp khó khăn rất nhiều nhất là
trong mùa mưa, thường xuyên xảy ra xạt, lở. Hằng ngày người dân tại hai khu tái
định cư Nước Vương và Nước Lang phải đi bằng đường mòn đến nơi sản xuất.
Khó khăn trong việc vẩn chuyển vật tư sản xuất và mang máy móc đến vùng sản
xuất. Mặc dù hệ thống nước sinh hoạt đã được kéo đến tận các khu tái định cư
nhưng nhìn chung nước sinh haotj cho người dân tại đây vẫn thiếu trầm trọng do
thường xuyên bị mất nước. Và đến trung tâm xã Sơn Liên cũng thường xuyên bị
mất nước. Người dân phải lấy nước từ các con suối và dự trữ trong thùng để sử
dụng, việc thiếu nước trong mùa khô là không thể tranh khỏi. Hệ thống điện đã
kéo đến từng hộ dân tại hai khu tái định cư Nước Vương và Nước Lang. Mặc dù
nhà máy thủy điện Đắk Đrinh đã đi vào hoạt động nhưng đến nay điện phục vụ
sinh hoạt vẫn còn thiếu và thường xuyên bị mất điện trong mùa khô. Hiện tại đã
có nhiều trường học được xây dựng kiên cố nhưng học sinh chỉ ở khu tái định cư
Nước Vương xã Sơn Liên được học đến hết cấp 2, nếu muốn học đến cấp 3 thì
phải đến trung tâm huyện Sơn Tây, còn đối với khu tái định cư Nước Lang xã
Sơn Dung thì vẫn chưa có trường học. Tại khu tái định cư Nước Vương xã Sơn
Liên người dân được tiếp cận với nhiều dịch vụ y tế do gần trung tâm xã, nhưng
do thiếu bác sĩ chuyên khoa và các thiết bị y tế chỉ chửa được một số bệnh thông
thường, bệnh nặng phải chuyển lên huyện hoặc tỉnh. Còn đối với khu tái định cư
Nước Lang do xa trung tâm xã nên không thể tiếp cận với dịch vụ ý tế. Hơn nữa
đối với việc trao đổi hàng hóa của các hộ dân tái định cư còn rất nhiều hạn chế.
Xã không có chợ nông thôn để người dân trao đổi hàng hóa, mặt hàng thiết yếu
trong cuộc sống. Người dân chủ yếu mua ở các tiệm tạp hóa do người Kinh buôn
bán, giá cả khá đắt do phải vận chuyển từ trung tâm thành phố Quảng Ngãi lên
các khu tái định cư.
42
2.4.2.5 Nguồn lực tài chính
Đa số người dân tái định cư hiện đang sống nhờ tiền bồi thường thiệt hại,
tiền chí phí hỗ trợ tái định cư. Rất nhiều hộ khi nhận khoản tiền mặt đền bù lớn
đã gặp khó khăn trong việc quản lý và sử dụng khoản tiền đó. Có rất ít số hộ đầu
tư vào sản xuất, trong khi đó đa số hộ đã mua xe máy, karaoke, còn số khác lãng
phí về rượu, bia. Những hộ này gặp cảnh thiếu lương thực trong tương lai và có
thể lại rơi vào cảnh nghèo túng nếu như không tìm được nguồn thu nhập bền
vững.
Tóm lại, với những hạn chế trên đây, sự thiếu hụt về đất đại là nguồn lực
lớn nhất trong việc đảm bảo sinh kế của các hộ nông dân và sự phát triển kinh tế-
xã hội Sơn Tây.
43
CHƢƠNG 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM ĐẢM BẢO SINH KẾ CHO NGƢỜI DÂN Ở CÁC KHU TĐC THỦY ĐIỆN ĐẮK ĐRINH
Tái định cư là một vấn đề quan trọng và cấp thiết của dự án thủy điện Đắk
Đrinh, nó đảm bảo nguồn lợi cho người dân tại nơi ở mới cũng như giúp họ cải thiện
tình hình sinh kế. Nếu vấn đề này không được quan tâm một cách toàn diện sẽ dẫn
đến nhiều vấn đề xã hội nảy sinh. Khu tái định cư đa phần đều thuộc đều là đồng
bào dân tộc thiểu số. Sự hình thành dự án thủy điện tác động nhiều đến đời sống
kinh tế, xã hội, truyền thống văn hóa của đồng bào các dân tộc. Chính vì thế cần
phải có những thay đổi mà điều đầu tiên là nên thay đổi về cách tiếp cận đối tượng.
Ở vùng thủy điện Đăk Drinh người dân chủ yếu là đồng bào dân tộc với trình độ dân
trí còn thấp. Mặt khác, cần coi trọng các nguyên tắc công khai, dân chủ, minh bạch,
chính xác, công bằng và kịp thời trong thống kê, áp giá, đền bù, hỗ trợ cho các hộ
dân. “Nói một cách khác chính sách mới cần dựa trên cách tiếp cận trao quyền cho
người dân, thay vì việc đáp ứng đơn thuần các nhu cầu thiết yếu của họ. Đây là cách
tiếp cận mới có thể còn xa lạ với tư duy cũ theo hướng chỉ đạo, lập kế hoạch từ trên
xuống dưới trong công tác tái định cư, nhưng là một hướng đi cần tìm tòi, thử
nghiệm. Công tác tái định cư còn mang tính áp đặt chủ quan từ các cơ quan chức
năng, nguyện vọng của người dân chưa được nhìn nhận thấu đáo trong quá trình
hoạch định chính sách.” [3, tr.2]
Ngay cả trong một cộng đồng, khả năng nhận thức và tác động của tái định
cư cũng rất khác nhau giữa phụ nữ, nam giới, già, trẻ, hộ giàu, hộ nghèo, hộ lao
động. “Công tác tái định cư theo ý nghĩa đó còn hàm ý công tác di lòng dân trong
đó sự đồng thuận, nhất trí chia sẻ khó khăn của người dân là rất quan trọng. Những
bất cập về cơ chế quản lý và chính sách bồi thường, hỗ trợ tái định cư hiện nay
nhiều khi dẫn đến tâm lý dao động của các hộ dân, tạo nên sự thiếu tin tưởng đối với
44
chủ trương chính sách của nhà nước. Chính sách khuyến khích tái định cư xen ghép
và tự nguyện phù hợp với đặc điểm văn hoá của các dân tộc còn góp phần cải thiện
cuộc sống cho cộng đồng dân sở tại, hạn chế được những xung đột về văn hoá và
phong tục tập quán giữa các cộng đồng, thực hiện chính sách đoàn kết các dân tộc
của Đảng và Nhà nước”[2, tr.4]. Khó khăn trong việc công tác tái định cư di dân là
thói quen, lối sống, tập tục canh tác của người Ca Dong bị thay đổi. Do đó, nâng cao
hiệu quả công tác tái định cư tại các công trình thủy điện là một đòi hỏi bắt buộc và
bức thiết hiện nay. Trước mắt, tập trung vào một số nội dung:
3.1. Giải pháp về nguồn nhân lực
Tái định cư thủy điện Đắk Đrinh ảnh hưởng đến nhiều người đặc biệt là người Ca
Dong. Chính quyền cần tiến hành nghiêm túc các chương trình tái định cư, hỗ trợ tái
định cư, cũng như phục hồi sinh kế cho người dân bị ảnh hưởng. Nhanh chóng ổn
định cuộc sống của người dân về mặt sinh kế, nhà ở, lương thực…
So với nơi ở cũ tại lòng hồ thì người dân tái định cư dư án thủy điện Đắk
Đrinh tại khu TĐC gặp nhiều khó khăn hơn trước. Đa số người Ca Dong sống tại
khu TĐC là những người trong độ tuổi lao động nhưng họ thiếu kiến thức chuyên
môn về kỹ thuật sản xuất còn hạn chế. Trình độ văn hóa còn thấp chủ yếu họ làm tự
cung tự cấp không vận chuyển mua bán số lượng lớn. Điều này còn là vấn đề hạn
chế về thị trường đối với người dân tại đây. Chính điều này họ sẽ rất dễ trở thành đối
tượng bị tổn thương sau khi TĐC. Chính quyền địa phương và ban quản lý dự án
nên xây dựng khung chương trình đào tạo là điều cần thiết hiện nay. Họ cần có
những lớp đào tạo tay nghề, hỗ trợ học tập cho họ để có khả năng sản xuất khi về
nơi ở mới, có thể chuyển từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp. Cán bộ địa phương
nên hướng dẫn cho người dân về những vụ mùa hợp lý, chọn giống cây trồng, quy
trình canh tác, điều này sẽ giúp người dân có thêm nhiều kiến thức về sản xuất.
chính quyền nên tạo điều kiện cho người dân tập trung vào việc nâng cao trình độ
sản xuất , tăng cười vốn, điều kiện sản xuất cho người dân các khu TĐC.
45
Về mặt lâu dài, người dân cần nhận thức khả năng của họ để tự khả năng sinh
sống cho bản thân mình. Chính quyền nên tạo động lực trong việc tìm việc làm và
hướng phát triển của chính bản thân họ ở nơi ở mới. Điều này sẽ làm tránh đi tình
trạng người dân thụ động mong đợi từ chính quyền. Bên cạn đó, cần phải nâng cao
năng lực quản lý của cộng đồng và chính quyền địa phương. Các chính sách phải
phù hợp với nhu cầu thực tế của đồng bào. Để tạo điều kiện cho người Ca Dong có
thể tự cải thiện cuộc sống của họ nên xây dựng những chương trình đào tạo hợp lý,
thường xuyên hỗ trợ chương trình khuyến học cho các em ở khu tái định cư.
3.2. Giải pháp nguồn lực xã hội
“Tăng cường công tác dân vận nhằm tạo ra sự đồng thuận của đồng bào các
dân tộc đối với chủ trương, chính sách tái định cư. Mỗi cộng đồng dân tộc có những
thói quen, lối sống, tập tục canh tác khác nhau, thậm chí ngay trong một cộng đồng,
khả năng nhận thức và tác động của việc tái định cư cũng khác nhau giữa các tầng
lớp, thế hệ người. Bởi vậy, chính sách tái định cư không thể đồng nhất trong một
tổng thể mà phải có các chính sách hết sức cụ thể cho từng đối tượng. Đối với các
dự án thủy lợi, thủy điện lớn, tiến hành nghiên cứu xã hội học kỹ lưỡng, nắm vững
nhu cầu, tâm tư, nguyện vọng, phong tục, lối sống, thực trạng đất đai và sinh kế của
các dân tộc, các hộ gia đình bị ảnh hưởng, nhằm tránh đưa ra những quyết sách về di
dân, tái định cư duy ý chí, vội vàng, thiếu khoa học.
Phân cấp mạnh và trao quyền cho các cấp cơ sở, nhất là cấp huyện, thị, gắn
với việc nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ quy hoạch và cán bộ trực tiếp làm
công tác di dân, tái định cư vốn còn rất thiếu kinh nghiệm thực tiễn và chuyên môn.
Bộ máy quản lý dự án di dân, tái định cư thủy điện phải đề cao trách nhiệm, gắn bó
sâu sát, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân để kịp thời xử lý, tháo gỡ
những vướng mắc, khó khăn phát sinh trong quá trình thực hiện ở cơ sở, bảo đảm
tiến độ di dân, tái định cư vận hành theo hướng đồng bộ, thống nhất.” [2].
Người dân tại khu tái định cư canh tác chủ yếu là lúc, ngô và một số loại cây
công nghiệp ngắn ngày như keo. Trong đó lúa và ngô là hai mặt hàng thông dụng
46
được tiêu thụ ổn định. Nhưng vì số lượng sản xuất chưa lớn đủ để cung cấp ra thị
trường. Lúa và ngô dùng cho sinh hoạt của mỗi gia đình. Bên cạnh đó, cây keo được
chính quyền chủ trương cung cấp giống cho mỗi hộ trồng nhưng lại không có nơi để
tiêu thụ. Chính vì thế chính quyền cần giới thiệu và tạo thị trường để những sản
phẩm được sản xuất được tiêu thụ. Do các khu tái định cư cách xa trung tâm huyện
nên khó trong việc trau đổi các hàng hóa với những hộ khác. Điều này, đòi hỏi chính
quyền phải tạo môi trường trau đổi cho các hộ dân ở gần khu tái định cư. Cung cấp
cho người dân khu tái định cư về mạng lưới thông tin: nhu cầu tiêu dùng, giá cả các
loại sản phẩm. tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ người dân trong việc tiêu thụ sản
phẩm. Chính quyền nên thực hiện việc đào tạo hướng dẫn cách thức làm ăn cho
người dân ở khu tái định cư để họ có thể sản xuất.
3.3. Giải pháp về nguồn lực tự nhiên
Để phát triển kinh tế - xã hội ở các khu TĐC thủy điện Đắk Đrinh việc khai
thác các nguồn lực tự nhiên là rất quan trọng nhưng vẫn phải đảm bảo yếu tố phát
triển bền vững. Việc phát triển kinh tế phải đảm bảo không làm cạn kiệt tài nguyên
thiên nhiên, khai thác lâu dài và có hiệu quả các nguồn lực tự nhiên. Hơn nữa, việc
phát huy nguồn nhân lực cũng là yếu tố có ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển
nông nghiệp. Phải kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại trong quá
trình sử dụng giống, thu hoạch và bảo quản.
Việc thiếu đất đai, chất lượng đất xấu gây ảnh hưởng rất lớn đến công tác bồi
thường tái định cư. Chính quyền cần vận động người dân tại hai khu tái định cư
Nước Vương và Nước Lang khai hoang, phần đất khai hoang chia theo khả năng lao
động cho người dân. Tiến hành xử lý đất hoặc lựa chọn giống cây trồng phù hợp cho
người dân canh tác.
Vị trí địa lý không thuận lợi cũng là nguyên nhân khiến sinh kế của người
dân tại hai khu tái định cư Nước Vương và Nước Lang gặp rất nhiều khó khăn. Việc
vận chuyển giống, các phương tiện kỹ thuật, thậm chí cả sản phẩm cũng gặp rất
nhiều khó khăn. Vì thế, nên tận dụng diện tích mặt nước lòng hồ thủy điện để vận
47
chuyển, đi lại từ khu tái định cư đến trung tâm huyện Sơn Tây cũng như trung tâm
huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum.
Rừng là tài nguyên quan trọng đối với quốc gia nói chung và huyện miền núi
Sơn Tây nói riêng. Vì vậy, cần xây dựng chính sách hỗ trợ cho phát triển nghề rừng.
Tuy nhiên, thực tế nghiên cứu cho thấy diện tích rừng hiện đang suy giảm. Mặc dù
chính quyền huyện Sơn Tây đã có chính sách cụ thể khuyến khích người dân trồng
rừng, chăm sóc và bảo vệ rừng. Hơn nữa, tại huyện miền núi Sơn Hà đã phát triển
ngành công nghiệp chế biến góp phần phát triển kinh tế rừng của huyện miền núi
Sơn Tây. Giúp cho người dân có thể sống được từ rừng.
Ngoài việc hỗ trợ tốt về vốn, hệ thống cơ sở hạ tầng, thị trường vẫn có sức
ảnh hưởng đến nguồn lực tự nhiên. Hoàn thiện hệ thống giao thông đến các khu
TĐC, xây dựng đường cho xe nông dụng vào tới thôn, có đường điện sản xuất về tới
xã. Quy hoạch chợ hoặc điểm dịch vụ, mua bán về tới xã. Đây là vấn đề rất quan
trọng và cần được quan tâm.
3.4. Giải pháp nguồn lực vật chất
“Khuyến khích di dân, tái định cư nên khuyến khích các hình thức di dân
không tập trung theo phương thức xen ghép và tự nguyện nhằm hạn chế sức ép đất
đai tập trung, tăng cường khả năng tự điều chỉnh, tiến tới hồi phục nhanh cuộc sống
của các hộ dân sau tái định cư. Chính sách khuyến khích tái định cư xen ghép và tự
nguyện phù hợp với đặc điểm văn hoá của các dân tộc còn góp phần cải thiện cuộc
sống cho cộng đồng dân sở tại, hạn chế được những xung đột về văn hoá và phong
tục tập quán giữa các cộng đồng, thực hiện chính sách đoàn kết các dân tộc của
Đảng và Nhà nước [3].
Chính quyền đã tạo điều kiện cho người dân khi đến các khu TĐC mới sẽ
được hưởng các chính sách về hạ tầng, nhà cửa, đất sản xuất, đất canh tác…bằng
hoặc cao hơn nơi ở cũ. Nhưng đến nay, một số hạng mục vẫn chỉ nằm trên mặt giấy,
thực hiện chậm hoặc chưa được thực hiện. Chính quyền cần nhanh chóng ổn định
cuộc sống của người dân tại các khu TĐC như: ăn ở, an ninh lương thực, việc làm,
48
phát triển sản xuất, giao thông, hạn chế rủi ro đến mức có thể do di dân. Và có hai
vấn đề cần được giải quyết trước mắt là nước sinh hoạt, sản xuất và đất canh tác.
Tăng cường công tác tuyên truyền cho người dân ở khu TĐC về các thông tin
liên quan đến chính sách đền bù, hỗ trợ của nhà nước. Cần phải có thông tin về
chiến lược sinh kế của các hộ dân ở các khu TĐC. Từ đó, có thể phổ biến những gia
đình sử dụng nguồn sinh kế tiêu biểu, để cho những hộ khác rút kinh nghiệm để vận
dụng tốt hơn các nguồn lực. Cung cấp đầy đủ thông tin về mực nước hồ chứa đến
người dân để điều chỉnh phù hợp với thời vụ sản xuất của người dân sống ở các khu
TĐC. Quan tâm hơn nữa đến việc đầu tư trường học, trạm xá và chợ gần nơi tái định
cư để phục vụ người dân được tốt hơn.
Ngoài ra, chính quyền cần quan tâm hơn về mặt đời sống tâm linh của người
dân, chú trọng đến nhà văn hóa thôn của người dân để họ có nơi sinh hoạt cộng
đồng. Chính quyền cân quan tâm hơn đến chất lượng đầu ra sản phẩm cho nhân dân,
đảm bảo cuộc sống đầy đủ hơn, tránh tình trạng bị tiểu thương ép giá, lợi dụng.
Còn đối với các dịch vụ xã hội, chính quyền cần quan tâm hơn, tạo điều kiện
cho người dân tốt nhất. Do vị trí địa lý các khu TĐC khá xa so với trung tâm xã nên
thường xuyên các khóa học sơ cấp về y tế cho người dân.
3.5. Giải pháp nguồn lực tài chính
Tạo cơ hội cho hộ tiếp cận kinh tế rừng, cần lồng ghép thực hiện chương
trình giao đất giao rừng cho cộng đồng và hộ gia đình quản lý và bảo vệ. Chính
quyền cần tìm ra các giải pháp khuyến khích hỗ trợ việc phát triển ngành thủ công,
thủy sản,…Ưu tiên các nguồn vốn của các chương trình, dự án hiện có trên địa bàn
nhằm đầu tư phát triển sản xuất tạo nguồn sinh kế bền vững cho đồng bào. Cần có
một tổ chức đứng ra quản lý số tiền đền bù, hỗ trợ cho người dân tại mỗi điểm TĐC,
sẽ cùng người dân bàn bạc, lập kế hoạch khôi phục sinh kế để sử dụng số tiền đền
bù một cách hiệu quả. Số tiền đền bù được quản lý chung dưới dạng một quỹ phát
triển và cộng đồng sẽ cùng quyết định sử dụng số tiền này để tạo ra các nguồn sinh
kết khác thay cho nguồn sinh kế bị mất do việc TĐC gây ra.
49
Nhà nước cố gắng chi trả tiền đền bù cho người dân hợp lý, nhưng việc sử
dụng số tiền đó phụ thuộc vào dân. Như đã noí trình độ dân trí không cao và kỹ năng
quản lý kém nên việc quản lý số tiền lớn gặp nhiều khó khăn. Khi nhận được số tiền
đền bù trong một khoảng thời gian quá ngắn thì sẽ không sử dụng hiệu quả và bền
vững. Với việc sử dụng tiền đền bù để mua sắm những vật dụng trong gia đình và
trả nợ cho những “con buôn” mà không quan tâm chú trọng đầu tư kinh tế để phát
triển sản xuất. Qua những bất cập sử dụng tiền đền bù không hiệu quả sẽ gây ra
những tác động tiêu cực của các hộ dân sau này.
Để phát triển tốt các nguồn lực tự nhiên vốn cũng là điều kiện tất yếu. Đối
với các hộ dân người Ca Dong vốn là điều kiện rất quan trọng. Khi cho vay vốn, các
tổ chức tín dụng cần chú ý cho vay để mua sắm trang thiết bị, chuồng trại,…phục vụ
cho sản xuất. Hiện tại thu nhập của người dân vẫn còn thấp, vốn tích lũy không
nhiều. Mặc dù chính quyền đã có những chính sách hỗ trợ người dân tại các khu
TĐC (dự án 30a) nhưng vẫn cần nâng cao hơn nữa quy mô tín dụng cho hộ nông
dân cũng như thời gian vay vốn, nhất là các hộ nghèo.
50
KẾT LUẬN
Nhà máy thủy điện Đak Đrinh đã hoàn thiện và sản xuất điện cung cấp cho
khu vực, góp phần giải quyết việc thiếu điện trong khu vực và những vùng lân cận,
tạo thêm việc làm cho người lao động và đóng góp vào ngân sách. Công tác di dân
vào vùng tái định cư đạt được những thuận lợi cũng như gặp nhiều khó khăn. Việc
chi trả tiền đền bù cho người dân được thực hiện đúng thời gian. Một số hộ dân đã
bắt đầu ổn định đời sống tại khu tái định cư mới nhưng cũng có nhiều hộ chưa
chuyển đến TĐC. Nhiều khu TĐC được xây dựng hàng chục tỷ nhưng chưa có
người vào ở.
Qua quá trình nghiên cứu chúng tôi nhận định lại là thay đổi nơi ở của người
dân dẫn đến thay đổi nguồn sinh kế của người dân tái định cư. Nguồn sinh kế chủ
yếu của bài nghiên cứu được tìm hiểu ở năm khiến cạnh: nguồn lực nhân lực, nguồn
lực tự nhiên, nguồn lực vật chất, nguồn lực tài chính và nguồn lực xã hội. Chính sự
thay đổi đã dẫn đến sự thay đổi của năm nguồn sinh kế này của người dân. Khi các
hộ dân chuyển đến khu TĐC Nước Vương và Anh Nhoi thuộc xã Sơn Liên và Sơn
Dung co hẹp nguồn lực tự nhiên kéo theo sự thay đổi của các nguồn lực còn lại. Qua
bài viết, chúng tôi phần nào đã đánh giá được sự thay đổi theo chiều hướng tích cực
và tiêu cực qua số liệu đã thu thập được. Nhưng nhìn chung thì sự thay đổi này thiếu
sự bền vững so với nơi ở trước.
Một số hoạt động sinh kế nổi bật của người dân tại khu tái định cư, trong đó
nổi bật nhất là nương rẫy, lúa nước, chăn nuôi, trồng rừng. Hầu hết những hoạt động
này đều dựa trên nguồn tài nguyên tự nhiên có sẵn của cộng đồng, phụ thuộc chủ
yếu vào thiên nhiên. Các loại cây ngắn ngày không tạo được thu nhập nhiều cho
người dân vì họ thiếu kỹ thuật để chăm sóc chúng. Bên cạnh đó, người dân tại khu
TĐC lại rơi vào việc thiếu đất canh tác hoặc nơi canh tác rất xa điểm ở. Chính vì
điều này hạn chế việc đi lại cho các hộ dân. Chính vì thế đói nghèo vẫn luôn gây áp
lực đối với nguồn lực tự nhiên và môi trường sinh thái đặc biệt là đất nông nghiệp.
51
Kiến nghị
Đối với chính quyền địa phương: Những bất cập phát sinh từ thực tế đối với
cơ chế quản lý và chính sách bồi thường, đền bù, hỗ trợ hiện nay đòi hỏi bộ máy
quản lý dự án di dân tái định cư thuỷ điện phải đề cao trách nhiệm, gắn bó và nhiệt
tình với công việc, sâu sát, lắng nghe, xử lý được những vướng mắc, nắm bắt và giải
quyết kịp thời, dứt điểm những khó khăn trong qúa trình thực hiện chính sách ở cơ
sở, đảm bảo tiến độ di dời tái định cư vận hành theo hướng đồng bộ, thống nhất. Có
thể nói việc phục hồi thu nhập cho người dân tái định cư là quá trình diễn ra trong
nhiều năm, không chỉ dừng lại bằng việc các hộ dân bàn giao mặt bằng và về nơi ở
mới. Do kết cấu hạ tầng của các khu tái định cư còn rất yếu kém, nên đời sống của
đồng bào các dân tộc hậu tái định cư còn khó khăn, vất vả. Còn rất nhiều việc phải
làm để ổn định đời sống, phát triển sản xuất. Cần chú trọng việc giải quyết vấn đề
nước và đất sản xuất cho các hộ tái định cư vì đây là hai yếu tố quyết định đến việc
ổn định và phát triển sản xuất cho các hộ tái định cư cũng như hộ dân người địa
phương sở tại. Đất đai và nương rẫy là nguồn sinh kế và an ninh lương thực của
đồng bào dân tộc.
52
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đặng Nguyên Anh (2006). Chính sách di dân trong quá trình phát triển kinh
tế - xã hội ở các tỉnh miền núi, Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội.
2. Đặng Nguyên Anh (2007), Chính sách di dân tái định cư các công trình thủy điện ở Việt Nam từ góc độ nghiên cứu xã hội, Tạp chí DS & PT (số 6/2007). 3. Đặng Nguyên Anh (2007), Tái định cư cho các công trình thủy điện ở Việt
Nam, Tạp chí Cộng Sản, (số 8/2007).
4. Ban quản lý dự án thủy điện Đắk Đrinh (2005), Chuyên đề 2 tái định cư,
Quảng Ngãi.
5. Ban quản lý dự án thủy điện Đắk Đrinh (2007), Dự án đầu tư báo cáo tóm tắt
công trình thủy điện Đắk Đrinh, Quảng Ngãi.
6. Trần Bình(2001), Một số vấn đề về tộc người và dân tộc Việt Nam, Tạp chí
nghiên cứu văn hóa, Trường ĐH Văn Hóa Hà Nội, (số 2, 2001)
7. Lê Sĩ Giáo (2005), Dân tộc học đại cương, Nhà xuất bản giáo dục, trang 8].
8. Phạm Minh Hạnh (2009), “Sinh kế của các hộ dân tái định cư vùng bán ngập huyện Thuận Châu tỉnh Sơn La”, luận văn Thạc sĩ kinh tế, Trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội.
9. Ngân hàng phát triển Châu Á (2000), Cẩm nang về tái định cư, hướng dẫn
thực hành.
10. Vũ Công Lân, Nguyễn Việt Hải và các cộng sự (2007), Báo cáo phân tích tác
động giảm nghèo thông qua đầu tư công đến tái định cư tại Tây Nguyên – dự
án “Giám sát và đánh sát việc thực hiện CPRGS trong lĩnh vực nông thôn
Việt Nam” – TF052631, Hà Nội.
11. Nguyễn Văn Sang, Đậu Thị Bích Hoài “Đánh giá sự thay đổi nguồn sinh kế
cuả các hộ di dân tái định cư thuộc dự án thủy điện Hủa Na: trường hợp
nghiên cứu tại xã Tiền Phong, huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An”, năm 2010.
12. Đinh Long Ta (1999), Mấy nét văn hóa cổ truyền người Cadong – tỉnh
Quảng Ngãi, Sở Văn hóa thông tin Quảng Ngãi.
13. Ủy ban nhân dân xã Sơn Dung, Báo cáo tình hình phát triển kinh tế xã hội
năm 2013, Sơn Tây
14. Ủy ban nhân dân xã Sơn Liên, Báo cáo tình hình phát triển kinh tế xã hội
năm 2013, Sơn Tây.
53
15. Ủy ban nhân dân huyện Sơn Tây, Báo cáo tình hình phát triển kinh tế - xã
hội năm 2013, Sơn Tây
16. Một số vấn đề về tộc người – dân tộc ở Việt Nam, trang web
http://huc.edu.vn/vi/spct/id43. Ngày truy cập 12/11/2013
17. Khái quát về lịch sử hình thành và quá trình xây dựng phát triển huyện Sơn
Tây – trang báo điện tử huyện Sơn Tây, 24/01/2013,
http://sontay.quangngai.gov.vn/i495-khai-quat-ve-lich-su-hinh-thanh-va-qua-
trinh-xay-dung--phat-trien.aspx, ngày truy cập 12/11/2013.
18. Khung phân tích sinh kế bền vững IFAD, trang web
http://corenarm.org.vn/?pid=92&id=571, ngày truy cập 12/11/2013.
19. Trang web http://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/70-cong-an-ho-tong-dan-nhan-
den-bu-tien-ty-cua-thuy-dien-2922011.html, ngày truy cập 12/11/2013.
54