
1
“Sự cần thiết thay đổi tư duy của nông dân Việt Nam trong bối cảnh kinh tế toàn cầu” – Hoàng Văn Hữu MSSV
89231020077
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH
----------
BÀI TIỂU LUẬN
Sự cần thiết thay đổi tư duy của nông dân Việt Nam
trong bối cảnh kinh tế toàn cầu
Giảng viên: Ths. Lê Việt Hưng
Môn học: Quản trị học
Sinh viên thực hiện: Hoàng Văn Hữu
Mã số SV: 89231020077
Lớp: K2023 VB2/TP1 Marketing
Tp HCM, tháng 03 năm 2023

2
“Sự cần thiết thay đổi tư duy của nông dân Việt Nam trong bối cảnh kinh tế toàn cầu” – Hoàng Văn Hữu MSSV
89231020077
1. Đặt vấn đề:
Trong những năm trở lại đây, Việt Nam được đánh giá là một nền kinh tế năng động và
hội nhập rất nhanh với thế giới. Các lĩnh vực Công nghiệp, dịch vụ và đặc biệt là công nghệ
có những bước tiến vượt bậc. Tuy nhiên, khi nhìn lại nền sản xuất nông nghiệp, khu vực
chiếm 60-70% cơ cấu vùng kinh tế của Việt Nam, chúng ta nhận thấy nó đã và đang tồn tại
rất nhiều bất cập, chưa bắt kịp với sự thay đổi nhanh chóng của thế giới. Một trong những
nguyên nhân chính dẫn đến điều đó là sự thay đổi tư duy của nông dân Việt Nam còn chậm.
Nông dân vẫn duy trì lối tư duy sản xuất nông nghiệp cũ kỹ, truyền thống bao đời nay mà
chưa bắt kịp với xu thế thị trường, mặc dù đất nước đã bước vào nền kinh tế thị trường được
gần 40 năm. Chính lối tư duy cũ kỹ đó đã đẫn đến nông sản Việt Nam luôn rơi vào tình trạng
bị thương lái ép giá, được mùa mất giá, hay trong những năm gần đây luôn xảy ra hiện tượng
“giải cứu nông sản”. Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu như hiện nay, khi mọi điều kiện thay
đổi một cách nhanh chóng, đòi hỏi không chỉ doanh nghiệp và chính người nông dân cũng
cần phải thay đổi chính mình, người làm nông cũng cần phải có tư duy như một nhà doanh
nghiệp, mà đầu tiên là thay đổi tư duy sản xuất nông nghiệp sang tư duy kinh tế nông nghiệp
để bắt kịp với xu thế thị trường, nhằm giải quyết những tồn tại lâu nay trong sản xuất nông
nghiệp ở Việt Nam.
2. Tình hình sản xuất nông nghiệp và hàng hóa nông sản xuất khẩu của Việt Nam
hiện tại.
Việt Nam là một đất nước nông nghiệp. Thiên nhiên đã ưu đãi cho Việt Nam ở vào một
vị trí thuận lợi để canh tác nông nghiệp. Với khí hậu nhiệt đới gió mùa, lượng mưa hằng năm
lớn, thời gian chiếu sáng của mặt trời dài và lượng nhiệt lớn, lượng nước dồi dào từ các dòng
sông….. tất cả như đang ưu đãi cho nền nông nghiệp Việt Nam. Chính vì điều đó, cây trồng
ở Việt Nam cũng rất đa dạng, trải dài từ Bắc đến Nam. Từ lâu, Việt Nam đã ý thức được thế
mạnh trong sản xuất nông nghiệp của mình và vươn lên thành vựa lúa gạo của thế giới. Rất
nhiều mặt hàng nông sản của Việt Nam đã đóng góp hàng tỷ đô la trong kim ngạch xuất khẩu
của Việt Nam. Như trong Bảng 1 dưới đây, chúng ta thấy rằng, trong năm 2020 và 2021,
mặc dù chịu những tác động vô cùng nặng nề của đại dịch Covid-19 nhưng tổng kim ngạch
xuất khẩu nông sản Việt Nam vẫn rất ấn tượng với con số 41,2 tỷ đô trong năm 2020 và
22,83 tỷ đô trong 05 tháng đầu năm 2021. Tuy nhiên nhìn lại chúng ta thấy rằng, các mặt
hàng có thế mạnh của Việt Nam như gạo, cà phê, điều…. của Việt Nam lại có xu hướng
giảm tỷ trọng so với các mặt hàng như gỗ và các sản phẩm từ gỗ.

3
“Sự cần thiết thay đổi tư duy của nông dân Việt Nam trong bối cảnh kinh tế toàn cầu” – Hoàng Văn Hữu MSSV
89231020077
Thị trường xuất khẩu nông sản của Việt Nam tuy có nhiều chuyển biến nhưng tựu chung
lại, nông sản của chúng ta vẫn còn phụ thuộc khá lớn vào các thị trường truyền thống như
Trung Quốc.
Trung Quốc là thị trường xuất khẩu truyền thống của Việt Nam, hàng năm, thị trường
này tiêu thụ một lượng rất lớn các mặt hàng trái cây từ Việt Nam. Thực tế, nông dân và
thương lái cũng thích bán cho thị trường này vì đây là một thị trường dễ tính, nhu cầu lớn
bên cạnh lợi thế về vận chuyển. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, Trung Quốc không
còn là thị trường dễ tính nữa, họ đã dần nâng cao tiêu chuẩn hàng hóa nông sản nhập khẩu
vào Trung Quốc, điều đó bắt buộc Việt Nam và ngay cả người nông dân Việt Nam cũng phải
kịp thời nắm bắt những yêu cầu từ Trung Quốc để thay đổi và thích ứng. Câu chuyện về cấp
mã vùng trồng đối với Sầu riêng xuất khẩu chính ngạch sang Trung Quốc trong thời gian
gần đây là một ví dụ. Qua đó chúng ta thấy, sự phụ thuộc của nông sản mà đặc biệt là trái
cây tươi của Việt Nam đối với thị trường này là rất lớn. Đây là cơ hội rất lớn, vì Trung Quốc
là thị trường tiêu thụ lớn nhất thế giới. Nhưng, đây cũng là một thách thức không hề nhỏ,
một khi chúng ta quá phụ thuộc vào thị trường này, nếu họ thay đổi, nông sản của Việt Nam

4
“Sự cần thiết thay đổi tư duy của nông dân Việt Nam trong bối cảnh kinh tế toàn cầu” – Hoàng Văn Hữu MSSV
89231020077
sẽ rơi vào khủng hoảng. Mà đây là thực tế diễn ra hàng năm, đến nỗi nó giống như câu
chuyện “đến hẹn lại lên”. Điều đó, bắt buộc chúng ta cần tìm ra thêm những thị trường khác,
tránh phụ thuộc vào một thị trường. Muốn vậy, ngoài những chính sách vĩ mô từ Chính Phủ
thì ngay chính ở nông dân cũng cần phải thay đổi chính mình, thay đổi kiến thức, cách tiếp
cận…. hay nói cách khác là thay đổi tư duy sản xuất nông nghiệp thành tư duy kinh tế. Nông
dân phải phát triển bản thân thành những nhà kinh tế thực thụ.
3. Tư duy sản xuất nông nghiệp là gì?
Tư duy sản xuất nông nghiệp là quá trình nhận thức các quy luật khách quan về sinh học
của cây trồng, vật nuôi và quy luật chuyển hóa của nguyên vật liệu sản xuất, sử dụng tài
nguyên vật liệu để gia tăng năng suất và sản lượng sản phẩm. (Tham khảo:
https://binhthuan.gov.vn/m-tin-tuc/can-thay-doi-tu-duy-san-xuat-nong-nghiep-sang-tu-duy-
kinh-te-nong-nghiep-627673.html)
Như vậy, với lối tư duy này, nông dân sẽ luôn giữ thói quen từ bao đời nay. Mùa trước
sản xuất gì, sản xuất thế nào thì bây giờ cứ y như vậy mà làm, không có gì thay đổi. Họ
không quan tâm đến nhu cầu thị trường, không biết đến sự thay đổi nhu cầu, đòi hỏi của thị
trường. Họ sản xuất dựa trên kinh nghiệm của thế hệ đi trước hoặc tự mình trải nghiệm,
không quan tâm đến chuẩn hóa hàng hóa, chất lượng sản phẩm, yêu cầu về An toàn vệ sinh
thực phẩm, đến kiểm dịch, đến dư lượng chất cấm….Chính bởi những điều đó đã làm cho
giá trị thương phẩm của nông sản bị đánh giá thấp, nông dân không thể bán được giá cao.
Một mặt khác, nông dân sản xuất nông sản thực tế không thể làm chủ được trên chính
sản phẩm mà mình làm ra. Trong khi tất cả mọi vật tư đầu vào đều được định giá rất rõ ràng
thì giá của sản phẩm đầu ra là một con số rất mơ hồ. Nông dân không thể tự định giá được
sản phẩm của mình mà phụ thuộc hoàn toàn vào thương lái. Đây cũng chính là một bài toán
khó tồn tại cho đến nay vẫn chưa có lời giải. Hầu hết nông sản của nông dân hiện tại là do
tự phát, không hề theo một chủ trương hay định hướng nào. Vòng luẩn quẩn: trồng – chặt bỏ
- trồng cây khác – lại chặt bỏ vẫn cứ lặp đi lặp lại rất nhiều năm nay mà vẫn chưa có lời giải.
Sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam vẫn là hình thức tiểu nông, thiếu sự gắn kết, liên kết chính
vì vậy ngay cả việc gắn mã truy xuất nguồn gốc hàng hóa hầu hết chúng ta cũng chư làm
được.
Thời gian gần đây, báo chí tryền thông rầm rộ lên vấn đề về cơ sở hạ tầng giao thông cho
Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL). Người ta cho rằng, chính việc chưa được đầu tư xứng
đáng về cơ sở hạ tầng giao thông nên ĐBSCL không thể phát triển kinh tế nông nghiệp tương
xứng với tiềm năng vốn có của nó được. Bản thân chúng tôi cho rằng nhận định này đúng
nhưng chưa đủ. Quả thực, ĐBSCL cần phải phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông, tuy
nhiên chúng tôi rất đồng tình với phát biểu của Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Minh Hoan
“Nếu cứ tư duy kiểu cũ thì có hạ tầng Đồng bằng sông Cửu Long vẫn nghèo”. Theo đó, Ngài
Bộ trưởng khẳng định rằng: “Thị trường thay đổi rất nhanh và đòi hỏi chúng ta phải chuyển

5
“Sự cần thiết thay đổi tư duy của nông dân Việt Nam trong bối cảnh kinh tế toàn cầu” – Hoàng Văn Hữu MSSV
89231020077
từ tư duy sản xuất nông nghiệp sang tư duy kinh tế nông nghiệp” (tham khảo:
https://nongnghiep.vn/thay-doi-tu-duy-de-kich-hoat-dong-chay-nong-san-dinh-huong-cho-
nong-dan-d293687.html)
4. Tư duy kinh tế nông nghiệp là gì?
Tư duy kinh tế nông nghiệp là tư duy sử dụng hiệu quả nguồn lực hữu hạn trong nông
nghiệp để sản xuất sản phẩm đáp ứng yêu cầu thị trường và đạt được lợi nhuận cao nhất có
thể. (Tham khảo: https://binhthuan.gov.vn/m-tin-tuc/can-thay-doi-tu-duy-san-xuat-nong-
nghiep-sang-tu-duy-kinh-te-nong-nghiep-627673.html)
Với lối tư duy cũ trước đây, nông dân chú trọng vào năng suất, làm thế nào để đạt được
năng suất cao nhất. Nhưng, với lối tư duy kinh tế nông nghiệp, buộc nông dân phải thay đổi
suy nghĩ. Giờ đây vấn đề năng suất không còn là tiên quyết trong sản xuất nông nghiệp nữa
mà là hiệu quả kinh tế. Phải làm thế nào để đạt hiệu quả kinh tế cao nhất? Muốn được như
vậy, nông dân buộc phải quan tâm đến nhu cầu thị trường, xem thị trường họ cần gì, họ muốn
gì, họ muốn như thế nào và buộc mình phải thích ứng với nó.
Cũng chính với lối tư duy kinh tế nông nghiệp, người nông dân sẽ kích hoạt dòng chảy
của sản phẩm nông nghiệp và lấy cái đó để điều chỉnh lại đầu vào và định hướng cho người
nông dân. Ở đó, người nông dân phải tự quyết định số phận của mình, chủ động tìm kiếm
thông tin là mình nên làm gì, làm bao nhiêu để bán được.
Khi thay đổi sang tư duy kinh tế nông nghiệp, bước ra thị trường, buộc người nông dân
phải từ bỏ lối sản xuất manh mún, nhỏ lẻ. Họ phải biết hợp tác lại với nhau. Trong những
năm trở lại đây, mô hình Hợp tác xã kiểu mới đã và đang hình thành, là một tín hiệu đáng
mừng về việc thay đổi tư duy trong người nông dân.
5. Sự cấp bách phải thay đổi tư duy của nông dân:
Như phân tích ở trên, chúng ta thấy rõ ràng trong điều kiện thị trường toàn cầu đang mở
tung cánh cửa. Việt Nam hội nhập kinh tế với thế giới, họ mở cửa cho chúng ta làm ăn buôn
bán và ngược lại chúng ta cũng phải mở cửa cho họ đến giao thương. Nếu chúng ta không
kịp thay đổi tư duy thì chúng ta sẽ không những không “đem chuông đi đánh xứ người” được
mà còn thua ngay trên chính sân nhà của mình.
Bộ trưởng Bộ NN & PTNT Lê Minh Hoan là một người con của ĐBSCL, ông có nhiều
năm là bí thư tỉnh ủy Đồng Tháp, và có lẽ ông cũng là vị lãnh đạo nặng lòng với nông dân.
Ông nhận thấy những tồn tại căn cơ trong nông dân và nông thôn ở ĐBSCL, trong một bài
phỏng vấn gần đây ông khẳng định: “Chỉ khi cái đầu mở ra mới quyết định thành công của
Đồng bằng sông Cửu Long”. Câu nói này không chỉ đúng cho ĐBSCL mà nó đúng cho toàn
bộ nền sản xuất nông nghiệp của Việt Nam. Khi và chỉ khi, người nông dân thay đổi được
tư duy cũ kỹ, lạc hậu….thì khi đó những thay đổi về cơ sở hạ tầng mới có ý nghĩa.