
ĐẠI HỌC MỞ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LỚP MBA8
TIỂU LUẬN
MÔN: THAY ĐỔI VÀ PHÁT TRIỂN TỔ CHỨC
Chương 5
SỰ THÍCH NGHI, SỰ LỰA CHỌN CHIẾN LƯỢC
VÀ SỰ THAY ĐỔI
GIẢNG VIÊN: TIẾN SỸ NGUYỄN HỮ U LAM
TRỢ GIẢNG: THẠC SỸ TRẦN HỒNG HẢI
NHÓM 5:
Nguyễn Minh hải
Lê Anh Đức
Lê Hùng Tú
Trương Thị Hồng Nguyệt
Tháng 5 /2010

Quan điểm về sự thay đổi chiến lược trong tổ chức
Arie Y. Lewin, Carmen B. Weigelt, & James D. Emery
Nghiên cứu về thay đổi tổ chức, như nhiều chương trong cuốn sổ tay
này thể hiện, phản ánh phong phú và đa dạng quan điểm lý thuyết và phương
pháp tiếp cận thực nghiệm. Trong chương này chúng tôi quay trở lại một cuộc
tranh luận kiểm tra việc lựa chọn thích ứng (Baum , năm 1996, Lewin và
Volberda, 1999). Mục đích của chúng tôi là xem xét các tác động của các lý
thuyết khác nhau về thích ứng và lựa chọn cho chiến lược và thay đổi. Đặc
biệt, chúng tôi xem xét lại các lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm rằng thông
báo việc thích ứng cấp tổ chức như là một kết quả trực tiếp của quản trị chiến
lược và thay đổi tổ chức hoặc có ý nghĩa cho sự thay đổi tổ chức, nhưng làm
không có giả định trực tiếp hoặc rõ ràng về chủ ý quản lý.
Trong chương này chúng tôi không xem xét lại các l ý thuyết và hậu quả
của thay đổi nơi đơn vị phân tích là cá nhân hoặc nhóm. Chúng tôi thừa nhận
rằng các nhà quản lý và cá nhân khác nhau rất nhiều trong xử lý thông tin của
họ và ra quyết định do nhận thức xã hội, nhận thức chọn lọc, quản lý xây
dựng môi trường, đặc điểm cá nhân, bản án và quyết định những thành kiến,
sự leo thang của cam kết, và kết quả tương tác theo ngữ cảnh. Quản lý chủ
yếu là tự học, cấu trúc của kiến thức của họ và quá trình nhận thức được neo
trong kinh nghiệm trực tiếp, và hình dạng kinh nghiệm, đến một mức độ lớn,
những gì họ biết và những gì họ làm. Nó cũng vượt ra ngoài phạm vi của
chương này để xem lại những bằng chứng thực nghiệm liên quan đến việc
giải thích theo ngữ cảnh không biết nguyên nhân của sự thích nghi cụ thể tổ
chức (Desanctis và Poole, 1994; Sydow và Windeler năm 1998; Walsh, 1995).
Trong việc hình thành cấu trúc chương này, chúng tôi nhận ra rằng dữ
liệu thực nghiệm hỗ trợ việc quan sát rằng hầu hết công ty được chọn ra. Tuy
nhiên, lý thuyết không phân biệt giữa những cơ hội sống còn của công ty
được quản lý trong thời gian tương đối dài với những cơ hội được quản lý
trong thời gian ngắn. Lý thuyết chọn lựa – thích nghi theo kinh nghiệm là một
phạm vi lớn bằng cách đáp lại biện pháp sống còn tác động tương tự là sự hỗ
trợ trực tiếp đối với việc thích nghi cụ thể hay lý thuyết chọn l ọc. Các l ý thuyết

thích nghi chiến lược giải thích sự sống còn là chứng cớ mà công ty nằm
trong dấu hỏi có tài nguyên và khả năng duy nhất hay chế độ công việc
thường ngày cao hơn hay chiến lược chỉ định tài nguyên tốt nhất giải thích ưu
điểm cạnh tranh, và vì vậy tồn tại. Lý thuyết sinh thái học dân số giải thích s ự
sống sót là chứng cớ mà những người mới vào nghề là dạng tổ chức sống
còn và các công ty hiện thời được chọn ra. Tuy nhiên, về mặt lý thuyết hay
kinh nghiệm, lý thuyết sinh thái học dân số không có liên quan với việc học
thích nghi của công ty cá thể. Vì vậy, lý thuyết hay cuộc nghiên cứu theo kinh
nghiệm không đưa ra sự hiểu biết sâu sắc về công ty cá thể thích nghi và thay
đổi thành công khi dân số gốc cùng tiến triển thành dạng tổ chức mới do
những người mới gia nhập đại diện.
Một kết luận nổi bật lên từ việc xét lại này là cuộc nghiên cứu lựa chọn
và thích nghi đại diện hai mức độ phân tích không phân cắt. Vì vậy, nhiều
cuộc tranh luận chọn lựa thích nghi không phải là m ột cuộc tranh luận nào cả.
Lý thuyết thích nghi chiến lược không có liên quan với thích nghi mức độ vĩ
m ô (thống kê) và lý thuyết m ức độ dân số thích nghi bỏ qua mức độ vi m ô.
Hơn nữa, lý thuyết thích ứng chiến lược chính nó là khuyết tật bằng cách
phân chia và không kết nối giữa các tổ chức vĩ mô và lý thuyết chiến lược
thích ứng và thay đổi. Mặc dù các kết luận chung của các nghiên cứu thống
kê về sự sống còn được hỗ trợ bởi cơ sở lý thuyết thực nghiệm còn sinh tồn
(hầu hết các công ty được lựa chọn ra), chúng tôi cung cấp, trong phần cuối
cùng của chương này, một sự giải thích lần nữa tại sao các công ty sống sót
có thể chống lại quán tính cấu trúc, cùng tiến triển, điều chỉnh, và tự tái tạo
theo thời gian.
Chương này được tổ chức thành bốn phần chính: (1) các lý thuyết cấp
công ty liên kết khả năng cấp công ty và chiến lược với thích nghi và sống sót,
(2) lý thuyết trung mô (mesolevel) hoặc lý thuyết ranh giới liên kết công ty với
m ôi trường vĩ mô và môi trường thể chế, (3) các lý thuyết liên kết với công ty
đối với môi trường vĩ mô, và (4) tác động đối với thích ứng và thay đổi và
nghiên cứu trong tương lai. Hình 5,1 mô tả một cái nhìn cùng phát triển của
các lý thuyết phê bình trong chương này, vị trí của mình trong cuộc tranh luận

thích ứng lựa chọn, hướng nhân quả của họ, và mức phân tích. Cụ thể, chúng
tôi xem xét các lý thuyết rằng sự tập trung về các chiến lược nội bộ công ty và
thay đổi, lý thuyết trung m ô (mesolevel) tập trung vào ranh giới giữa công ty
và môi trường cạnh tranh của nó, lý thuyết về vai trò của môi trường thể chế
về công nghiệp và thích ứng công ty, và các lý thuyết về động thái mức độ
thống kê liên quan đến những công ty mới gia nhập và lực lượng của sự thay
đổi vĩ m ô như là các tiến bộ công nghệ và phong trào xã hội. Chúng tôi xem
xét lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm có nguồn gốc ở xã hội học (sinh thái
học thống kê, lý thuyết thể chế), kinh tế (các tổ chức công nghiệp, kinh tế phát
triển, kinh tế chi phí giao dịch, hành vi lý thuyết về hành vi của công ty), và
quản lý chiến l ược (sự phụ thuộc tài nguyên, nhấn mạnh sự cân bằng, sự lựa
chọn chiến lược, quan điểm dựa vào việc học và tài nguyên) khi họ thông báo
thích ứng tổ chức.
Mục tiêu tổng quát của chương này là một tổng hợp thống nhất của
những gì Pfeffer (1993) mô tả như là một “bản vá cỏ dại" cơ sở lý thuyết của
các lý thuyết phát triển hạt nhân thúc đẩy nghiên cứu mô dường như cạnh
tranh và mâu thuẫn, hỗ trợ bởi các biện pháp riêng, các điều khoản của họ, và
khái niệm. Mặc dù nó có thể được an ủi để đăng ký vào kết luận của Pfeffer
rằng rất khó để phân biệt trong những gì hướng kiến thức về khoa học tổ
chức đang tiến triển, chúng tôi tin rằng lý thuyết và nghiên cứu xem xét trong
chương này thông báo cho nhiều mặt của chiến lược và nghiên cứu thích
ứng. Phần chính yếu của nghiên cứu này có thể được xem là thông báo quan
điểm thích ứng đa biến, hoài bão, cùng phát triển. Hơn thế nữa, chúng tôi tin
rằng nhiều ống kính trong một khuôn khổ cùng phát triển là cần thiết cho m ột
sự hiểu biết toàn diện hơn của thích ứng tổ chức và thay đổi như nhúng trong
ngữ cảnh môi trường và thể chế lớn hơn.
Trong phần 4, chúng tôi thảo luận về tác động của đánh giá của chúng
tôi đối với thích ứng và thay đổi tổ chức và đặc biệt xem xét tại sao các công
ty ít thành công trong việc tồn tại, thích nghi, và cùng phát triển qua thời gian
với một số tác động đối với nghiên cứu tương lai về sự thích nghi và thay đổi.

Hình 5.1 Khung cơ sở lý thuyết của sự lựa chọn/ thích nghi.
I. Các lý thuyết tập trung vào công ty
Mô tả của công ty là "m ột gói các nguồn tài nguyên" bước đầu đã được
kết nối bởi Penrose (1959), người đóng khung ý tưởng về tính không đồng
nhất "của các dịch vụ sản xuất có sẵn hoặc có khả năng có sẵn từ nguồn lực
của nó cung cấp cho mỗi công ty tính độc đáo của nó" (trang 75). Trong khuôn
khổ này, các nguồn lực công ty được xác định là tài sản hữu hình và vô hình
(ví dụ như tài sản vật chất, tài sản con người, cũng như các nguồn lực tổ chức
như các thuộc tính công ty, vốn, hoặc các quá trình tổ chức) đã được gắn vào
trong công ty (Barney, năm 1991; Wernerfelt, 1984). Mặc dù lý thuyết dựa
vào tài nguyên tập trung vào các điều kiện m à các nguồn lực công ty dẫn đến
lợi thế cạnh tranh bền vững, nó thích hợp nhận ra rằng không phải tất cả các
nguồn lực là một nguồn lợi thế bền vững. Chỉ có những nguồn tài nguyên có
giá trị, quý hiếm, mô phỏng không hoàn hảo, và duy nhất về chiến lược không