Tiểu luận: Tái cấu trúc thị trường chứng khoán
lượt xem 18
download
Tiểu luận: Tái cấu trúc thị trường chứng khoán bao gồm những nội dung về lịch sử hình thành và các giai đoạn phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam; tái cấu trúc thị trường chứng khoán Việt Nam. Mời các bạn tham khảo tài liệu để nắm bắt nội dung chi tiết.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tiểu luận: Tái cấu trúc thị trường chứng khoán
- HỌC VIỆN NGÂN HÀNG KHOA NGÂN HÀNG BÀI THẢO LUẬN Đề tài : Tái cấu trúc thị trường chứng khoán Việt Nam Thực hiện : Nhóm NHB Lớp : H306 – Thứ 3.Ca 4 Giảng viên : Nguyễn Thị Phương Luyến
- I. Lịch sử hình thành và các giai đoạn phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam I.1. Giai đoạn 20002005: Hình thành và những bước đầu tiên Sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam được đánh dấu bằng việc đưa vào vận hành Trung tâm giao dịch chứng khoán TP.Hồ Chí Minh ngày 20/07/2000 và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000. Ở thời điểm lúc bấy giờ, chỉ có 2 doanh nghiệp niêm yết 2 loại cổ phiếu (REE và SAM) với số vốn 270 tỷ đồng và một số ít trái phiếu Chính phủ được niêm yết giao dịch. Từ đó cho đến 2005, thị trường luôn ở trong trạng thái gà gật, loại trừ cơn sốt vào năm 2001(chỉ số VN index cao nhất đạt 571.04 điểm sau 6 tháng đầu năm nhưng chỉ trong vòng chưa đầy 4 tháng, từ tháng 6 đến tháng 10, các cổ phiếu niêm yết đã mất giá tới 70% giá trị, chỉ số VN Index sụt từ 571,04 điểm vào ngày 25/4/2001 xuống chỉ còn khoảng 200 điểm vào tháng 10/2001. Ngày 8/3/2005 Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội (TTGDCK HN) chính thức đi vào hoạt động. Giai đoạn tỉnh ngủ dần xuất hiện từ năm 2005 khi tỷ lệ nắm giữ của nhà đầu tư nước ngoài được nâng từ 30% lên 49% (trừ lĩnh vực ngân hàng). Trong 5 năm đầu tiên, dường như thị trường không thực sự thu hút được sự quan tâm của đông đảo công chúng và các diễn biến tăng giảm của thị trường chưa tạo ra tác động xã hội mở rộng để có thể ảnh hưởng tới sự vận hành của nền kinh tế cũng như tới cuộc sống của mỗi người dân. I.2. Giai đoạn 2006: Giai đoạn phát triển đột phá
- Năm 2006 được coi thời điểm phát triển “đột phá”, tạo cho thị trường chứng khoán Việt Nam một diện mạo hoàn toàn mới với hoạt động giao dịch sôi động tại cả 3 “sàn”: Sở giao dịch Tp.Hồ Chí Minh, Trung tâm Giao dịch Hà Nội và thị trường OTC Thị trường chứng khoán Việt Nam 2006: VNIndex cuối năm tăng 2,5 lần so đầu năm Tổng giá trị vốn hóa đạt 13,8 tỉ USD cuối năm 2006 (chiếm 22,7% GDP) Hàng ngày có khoảng 80100 công ty có cổ phiếu giao dịch. Trên thị trường phi tập trung, tổng khối lượng giao dịch gấp khoảng 6 lần so với khối lượng giao dịch trên Hastc. Số công ty niêm yết tăng gần 5 lần, từ 41 công ty năm 2005 đã lên tới 193 công ty, số tài khoản giao dịch đạt hơn 10 vạn gấp 3 lần năm 2005 và 30 lần so với 6 năm trước. Số lượng các nhà đầu tư mới tham gia thị trường ngày càng đông, tính đến cuối tháng 12 2006, có trên 120.000 tài khoản giao dịch chứng khoán được mở, trong đó gần 2.000 tài khoản của nhà đầu tư nước ngoài Trong khoảng từ giữa đến cuối năm 2006, tình trạng đầu tư vào cổ phiếu ở nước ta mang tâm lý “đám đông”, cả người có kiến thức và hiểu biết, cả những người mua, bán theo phong trào, qua đó đẩy TTCK vào tình trạng “nóng”, hiện tượng “bong bóng” là có thật. I.3. Giai đoạn 2007: Giai đoạn bùng nổ Luật Chứng khoán có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 đã góp phần thúc đẩy thị trường phát triển và tăng cường khả năng hội nhập vào thị trường tài chính quốc tế. Tính công khai, minh bạch của các tổ chức niêm yết được tăng cường.
- TTCK Việt Nam 2007 ghi lại dấu ấn thăng trầm khi thị trường trải qua những ba giai đoạn biến động trong năm • Giai đoạn thị trường bùng nổ trong 3 tháng đầu năm 2007: Đây là giai đoạn thị trường có những đợt sóng cao, khiến Index của cả 2 sàn giao dịch đều lập kỷ lục: chỉ số VNIndex đã đạt mức đỉnh là 1.170,67 điểm sau 7 năm hoạt động và Hastc – Index thiết lập mức đỉnh 459,36 điểm sau 2 năm hoạt động. Có thể nói, đây là giai đoạn thị trường đạt mức tăng trưởng với tốc độ lớn nhất khi đạt mức tăng 126% chỉ trong vòng 3 tháng giao dịch. Yếu tố quan trọng góp phần vào sự tăng trưởng nóng trong giai đoạn này phải kể đến sức cầu trên thị trường tăng một cách đột biến khiến giá trị giao dịch trung bình mỗi phiên giao dịch lên tới hàng ngàn tỷ đồng. Tại sàn HCM, bình quân mỗi phiên giá trị giao dịch đạt trên 1.000 tỷ đồng, sàn HN cũng đạt con số 300 tỷ đồng. • Giai đoạn thị trường điều chỉnh từ Tháng 4/2007 đến đầu Tháng 9/2007 Với nỗi lo sợ về một “thị trường bong bóng”, các cơ quan quản lý nhà nước cũng như Chính phủ đã vào cuộc để giảm nhiệt thị trường bằng các biện pháp kiểm soát thị trường chặt chẽ, ban hành những thiết chế để kiềm chế sự tăng trưởng quá nóng của thị trường. Phản ứng trước điều này, TTCK đã có những đợt điều chỉnh rõ rệt. Một đợt điều chỉnh giảm của thị trường đã diễn ra trong một khoảng thời gian rất dài (từ cuối Tháng 3 đến đầu Tháng 9). Giai đoạn này, các NĐTNN cũng tỏ ra khá thờ ơ khi lượng giao dịch của khối này trên cả 2 sàn giao dịch đều sụt giảm mạnh. Giá trị giao dịch bình quân của khối NĐTNN trong giai đoạn này đạt khoảng 170 tỷ đồng/phiên, giảm tới 52% so với giai đoạn đầu năm. • Giai đoạn phục hồi của thị trường vào những tháng cuối năm
- Thị trường bước vào giai đoạn phục hồi mạnh mẽ trong khoảng thời gian đầu tháng 9 đến cuối Tháng 10/2007. Giá các cổ phiếu trên sàn có xu hướng phục hồi nhanh chóng, đặc biệt là các mã cổ phiếu blue – chip trên cả 2 sàn đều lấy lại được những gì đã mất trong 6 tháng giữa năm, tuy nhiên sức bật của các cổ phiếu không đủ mạnh để đưa các cổ phiếu trở về mức giá đỉnh thiết lập vào tháng 3. Tuy nhiên, Thị trường sau một đợt phục hồi đã nhanh chóng điều chỉnh giảm vào 2 tháng cuối năm. Trong giai đoạn này, thị trường thỉnh thoảng cũng có các đợt phục hồi giả với sự tăng lên mạnh mẽ của tất cả các yếu tố. Tuy nhiên sự phục hồi này không duy trì được lâu, thậm chí đã có dấu hiệu suy giảm chỉ sau 1 phiên tăng điểm. I.4. Giai đoạn 2008: Giai đoạn suy giảm Cùng trong xu thế chung của nền kinh tế, TTCK Việt Nam khép lại năm 2008 với sự sụt giảm mạnh. • Giai đoạn 1: Từ tháng 01 tới tháng 06 Thị trường giảm mạnh do tác động từ tác động của kinh tế vĩ mô Các thông tin tác động xấu tới tâm lý nhà đ ầu tư trong giai đoạn này chủ yếu xuất phát từ nội tại nền kinh tế. Trong đó nổi bật là sự gia tăng lạm phát, chính sách thắt chặt tiền tệ của NHNN, sự leo dốc của giá xăng dầu và sức ép giải chấp từ phía ngân hàng đối với các khoản đầu tư vào TTCK. Nhằm mục đích ngăn chặn đà suy giảm của thị trường, các cơ quan điều hành bắt đầu đưa ra những chủ trương và biện pháp hỗ trợ: (1) UBCKNN thu hẹp biên độ giao dịch; (2) SCIC tham gia mua vào cổ phiếu; (3) NHTM được vận động ngừng giải chấp; (4) Tổ chức niêm yết được khuyến khích mua vào cổ phiếu quỹ.
- Tuy nhiên, phần lớn các biện pháp này chỉ phát huy hiệu quả trong ngắn hạn, và thị trường tiếp tục sụt giảm, cơn bão giải chấp cổ phiếu không ngừng tác động tới tâm lý các nhà đầu tư. Trước thực trạng này chính phủ đã đề ra 8 nhóm giải pháp vào tháng 3/2008 với mục tiêu kiềm chế lạm phát và thâm h ụt thương mại. • Giai đoạn 2: Tháng 06 tới đầu tháng 09 Phục hồi trong ngắn hạn Nhờ vai trò dẫn dắt của một số cổ phiếu blue chip như STB, FPT, DPM…và đặc biệt là SSI với sức cầu hỗ trợ từ đối tác nước ngoài, cả hai sàn chứng khoán đã có được những phi ên tăng điểm mạnh trong giai đoạn này. VNIndex và HastcIndex liên ti ếp vượt qua các ngưỡng cản tâm lý quan trọng và thường xuyên có đư ợc những chuỗi tăng điểm kéo dài. Đây cũng là giai đoạn thị trường hoạt động sôi động nhất. Sức cầu mạnh, kéo theo khối lượng giao dịch v à giá trị giao dịch thường xuyên ở mức cao. • Giai đoạn 3: Từ tháng 09 tới tháng 12 Thị trường rơi trở lại chu kỳ giảm do tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu Đây là thời kỳ VNIndex rơi trở lại xu hướng giảm, thậm chí đã phá vỡ đáy thiết lập được trong giai đoạn đầu của năm 2008. Tổng kết cả giai đoạn này, VNIndex m ất 223,48 điểm, tương đương 41,45%. Khối lượng giao dịch trung bình đạt 15,82 triệu CP&CCQ, tương đương 497,58 tỷ đồng/phiên. Nguyên nhân tác động lớn nhất tới TTCK trong giai đoạn này chính là sự lan tỏa mạnh của cuộc khủng hoảng tài chính trên toàn thế giới. Hòa cùng xu thế giảm điểm của TTCK các nước, 02 chỉ số chứng khoán tại sàn HOSE và HASTC liên tiếp giảm điểm. Trong 86 phiên giao dịch tại HOSE, 49 phiên VNIndex mất điểm. Đáy mới thiết lập trong giai đoạn này là 286,85 điểm vào ngày 10/12/2008.
- Giải pháp tài chính kịp thời trong những tháng cuối năm 2008 được thực hiện thông qua việc điều chỉnh giảm lãi su ất cơ bản nhằm kích cầu sản xuất tiêu dùng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận vay vốn một cách dễ dàng hơn, đồng thời giảm áp lực tín dụng cho các ngân hàng thương mại. I.5. Năm 2009 – 2010: Diễn biến bất thường TTCK Việt Nam năm 2009 được coi là có tốc độ tăng trưởng rất cao, tới 6070%, nhưng xét một cách toàn diện lại có không ít dấu hiệu bất ổn. Trước hết, TTCK có dấu hiệu phục hồi nhưng không bền vững: Chỉ số VN Index giảm mạnh 22% từ đỉnh 633,2 điểm ngày 2310 xuống mốc 490,6 điểm ngày 2711. Khối lượng giao dịch từ tháng 11 đến hết năm sụt giảm mạnh so với hai tháng 9, 10. Càng về cuối năm, thanh khoản của thị trường càng trở nên đáng lo ngại. Bước sang tháng 32009, TTCK có một tháng tăng điểm ấn tượng nhất kể từ tháng 112008: VNIndex không chỉ khởi sắc về điểm số mà khối lượng giao dịch cũng tăng mạnh. Tính đến hết ngày 306, VNIndex đã tăng 132,67 điểm (42,03%), HNXIndex tăng 44,57 điểm (42,66%) so với thời điểm kết thúc năm 2008…. Từ tháng 8 đến tháng 10, TTCK lại tiếp tục đợt tăng giá thứ hai đầy mạnh mẽ với nhiều kỷ lục về giá trị và khối lượng giao dịch kỷ lục được xác lập. Ngày 2210, TTCK vươn tới đỉnh điểm của đợt sóng thứ 2 là mức 624,10 điểm. Đây cũng là mức cao nhất của thị trường sau 394 phiên giao dịch kể từ ngày 1432008. Nửa đầu năm 2010, thị trường chứng khoán biến động trong biên độ hẹp 480 550 điểm với thanh khoản ở mức trung bình. Trong giai đoạn này, Chính phủ áp dụng những biện pháp nhằm hướng dòng vốn vào lĩnh vực sản xuất và hạn chế cấp vốn cho các kênh như chứng khoán, bất động sản. Đồng thời,
- lượng cổ phiếu niêm yết, cổ phiếu thưởng tăng lên nhanh chóng làm cho dòng tiền trên thị trường càng trở nên khan hiếm. Trong khoảng thời gian từ tháng 7 đến tháng 8, thị trường chứng khoán bước vào giai đoạn lao dốc khi hai chỉ số chứng khoán đều chạm mốc thấp nhất trong vòng một năm. Trong vòng 2 tháng, Vn Index mất hơn 16%. Từ cuối tháng 8, những bất ổn của nền kinh tế dần bộc lộ và đỉnh điểm là đầu tháng 11, Chính sách tiền tệ đột ngột thay đổi thể hiện rõ quyết tâm kiềm chế lạm phát, kéo theo một cuộc đua lãi suất gữa các ngân hàng. Với thị trường chứng khoán, điểm ngạc nhiên là sau một tuần rơi mạnh bởi biến động khó lường của tỷ giá cùng giá vàng trong và ngoài nước, thị trường đã quay đầu hồi phục vào cuối tháng 11, đầu tháng 12. Đây có thể coi là thành công của chứng khoán Việt Nam bởi đa phần các thị trường lớn trên thế giới đều mất điểm trong thời gian này. I.6. Năm 2011: Năm “đại hạn” Thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2011 có những diễn biến trầm lắng do sự bất ổn của kinh tế của thế giới kéo theo những tác động nhất định đến kinh tế Việt Nam. Nhiều chuyên gia nhận định, năm 2011 chứng khiến những khó khăn to lớn của thị trường chứng khoán Việt Nam. Việc thị trường lao dốc mạnh trong năm 2011 đã kéo giá trị tất cả các cổ phiếu xuống mức giá thấp nhất trong lịch sử. Thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2011 tiếp tục chứng kiến đà lao dốc không phanh của cả hai chỉ số chính. Trong khi VNIndex giảm từ 486 điểm xuống mức 356,2 điểm (mức thấp nhất kể từ tháng 5/2010) thì HNXIndex đạt mức thấp nhất từ khi chỉ số này ra đời, giảm 55,4 điểm xuống 58 điểm tính đến ngày 26/12. Dòng tiền vào chứng khoán đã thắt chặt trước thông tư 13 được ban hành trong năm 2010, nay còn thắt chặt hơn khi lạm phát tăng cao khiến lãi xuất vay
- vốn trong năm có lúc lên tới 2225%, Đây là những nguyên nhân khiến dòng tiền chảy vào thị trường ngày càng eo hẹp, thanh khoản chứng khoán luôn ở mức thấp.Giá cổ phiếu ở mức rất thấp, công ty chứng khoán gặp nhiều khó khăn Với xu hướng lao dốc mạnh của thị trường trong năm 2011, giá trị tất cả các cổ phiếu đã được kéo xuống mức thấp nhất nhất trong lịch sử. Tính đến ngày 26/12, tổng cộng cả hai sàn có tới 433 mà có giá trị dưới 10.000 đồng (sàn HSX chiếm 156 mã, sàn HNX chiếm 277 mã) và 186 mã có giá trị dưới 5.000 đồng trong tổng cộng 696 mã. I.7. Năm 2012 Ngày 20/12/2012, UBCK họp tổng kết năm 2012, ghi nhận những khó khăn của TTCK khi phải chịu tác động nặng nề từ diễn biến không mấy tích cực của kinh tế vĩ mô. Các chỉ tiêu kinh doanh, huy động vốn của doanh nghiệp đều sụt giảm. Trong một năm gian nan như vậy, điểm sáng đáng ghi nhận là những nỗ lực của cơ quan quản lý trong việc hoàn thiện khung pháp lý và tăng cường sự giám sát để cải thiện tính minh bạch của TTCK Việt Nam Thống kê của UBCK cho thấy, 9 tháng đầu năm nay, toàn thị trường có tới 143 doanh nghiệp bị lỗ, tăng 1,7 lần so với cùng kỳ năm 2011. Đặc biệt, có tới 438 doanh nghiệp có lợi nhuận sụt giảm so với năm trước, khiến chỉ tiêu tỷ lệ sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE) giảm về mức 8%, thay vì 12,3% cùng kỳ năm 2011. Tổng huy động vốn trên TTCK năm 2012 ước đạt 152.600 tỷ đồng, tăng 54% so với cùng kỳ năm 2011 như chủ yếu là tứ trái phiếu chính phủ Hiện tại, số tài khoản của nhà đầu tư đã lên tới 1,2 triệu tài khoản. So với năm 2011, dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài sụt giảm tới 77%. Nhiều CTCK bị thua lỗ hoặc rút giấy phép kinh doanh. Theo UBCK, nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là do chi phí đầu vào của doanh nghiệp tăng cao (như giá xăng dầu, điện, chi phí lãi vay…), khả năng tiếp cận
- vốn của doanh nghiệp vẫn còn hạn chế, hàng tồn kho tăng trong khi đầu ra cho doanh nghiệp gặp khó khăn Thị trường chứng khoán Việt Nam từ năm 2009 tới nay diễn biến khá phức tạp và có sự suy giảm rõ rệt: Thị trường đi xuống, niềm tin nhà đầu tư sụt giảm, các tổ chức kinh doanh thua lỗ, chất lượng hàng hóa chưa đảm bảo với khung pháp lý chưa hoàn chỉnh…. Do đó, nhà nước Viêt Nam cần thiết phải có những động thái tích cực và quyết liệt để tái cấu trúc toàn diện thị trường chứng khoán Việt Nam II. Tái cấu trúc thị trường chứng khoán Việt Nam II.1. Tái cấu trúc cơ sở hàng hóa và sản phẩm dịch vụ Tái cấu trúc hàng hóa là việc nâng cao tiêu chuẩn phát hành, tiêu chuẩn niêm yết trên thị trường chứng khoán, tăng cường quản trị và công bố thông tin đối với các doanh nghiệp niêm yết và các công ty đại chúng có quy mô lớn; mở rộng đa dạng hơn các sản phẩm hàng hóa, triển khai thị trường chứng khoán phái sinh, giao dịch ETF...; tiếp tục thúc đẩy tiến trình cổ phiếu hóa gắn với niêm yết để đưa nhiều hàng hóa có chất lượng cao vào thị trường. Đưa tín phiếu kho bạc vào giao dịch trên thị trường chứng khoán. 2.1.1. Cổ phiếu: Khối lượng giao dịch trên thị trường cổ phiếu niêm yết tăng trên 50%. Với 12 doanh nghiệp niêm yết mới trong 2012 đã đưa ra số lượng doanh nghiệp
- niêm yết tại sở giao dịch chứng khoán Hà Nội tính tới thời điểm 31/12/2012 là 396 doanh nghiệp, với tổng khối lượng niêm yết đạt 8,5 tỷ cổ phiếu và tổng giá trị niêm yết đạt 85,528 tỷ đồng, tăng 7,05% về khối lượng niêm yết và 7,71% về giá trị niêm yết năm 2011. Khối lượng giao dịch trên thị trường Upcom tăng gấp 2,2 lần. Tuy nhiên quy mô thị trường Upcom được đánh giá là nhỏ và chưa tương xứng với tiềm năng, tính thanh khoản tuy được cải thiện song vẫn ở mức thấp. Thông tư số 130/2012/TTBTC hướng dẫn việc mua lại cổ phiếu, bán cổ phiếu quỹ và một số trường hợp phát hành thêm cổ phiếu của công ty đại chúng. Nhằm nâng cao chất lượng quản trị công ty, quản trị rủ ro tại các doanh nghiệp niêm yết hướng tới xây dựng khung quản trị công ty tiến tiến cho các doanh nghiệp, SGDCK Hà Nội đã tổ chức nhiều đợt tập huấn về quản trị công ty, về nghĩa vụ công bố thông tin và nhận được sự quan tâm và tham gia đông đảo của doanh nghiệp, đồng thời triển khai rộng rãi hệ thống quản lý thông tin doanh nghiệp (CIMS), cho phép doanh nghiệp niêm yết và các công ty chứng khoán công bố thông tin tự động qua hệ thống và không phải thực hiện báo các, công bố thông tin bằng bản cứng. Đến nay chất công bố thông tin của doanh nghiệp niêm yết được cải thiện rõ nét với 80% doanh nghiệp niêm yết và 72% công ty chứng khoán thành viên. Công bố thông tin tự động qua CIMS. Tỷ lệ vi phạm công bố thông tin đã giảm từ mức 37,3% năm 2011 xuống mức 11% năm 2012. Tỷ lệ vi phạm công bố thông tin bất thường đã giảm từ mức 26,9% năm 2011 xuống mức 10% năm 2012. 2.1.2. Trái phiếu:
- Trong năm qua thị trường trái phiếu chính phủ có bước phát triển vượt bậc. Hệ thống đấu thầu điện tử được triển khai, qua đó góp phần tăng quy mô huy động vốn TPCP qua thị trường chứng khoán với mức tăng kỷ lục từ trước đến nay đạt 160 tỷ đồng, tăng 92% so với năm 2011. Những đổi mới về các quy trình, quy chế: Thông tư số 211/2012/TTBTC hướng dẫn về phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Thực hiện cung cấp trước thông tin về các mã trái phiếu, tín phiếu cho tổ chức phát hành để thuận tiện cho các bên khi tham gia váo quá trình đấu thầu và thống nhất thông tin về mã hóa trái phiếu, tín phiếu từ khi phát hành trước thị trường sơ cấp đến giao dịch trên thị trường thứ cấp. Chỉnh sửa hệ thống đẩy nhanh quy trình thực hiện việc đăng ký Trái phiếu tại Trung tâm lưu ký chứng khoán để có thể hoàn tất việc đăng ký Trái phiếu đấu thầu đúng ngày, đúng hạn thanh toán tiền mua Trái phiếu (T +2) thay vì phải đến ngày (T +4) như trước đây. Đặc biệt đối với Tín phiếu kho bạc phát hành qua đấu thầu tại Sở giao dịch Ngân hàng Nhà nước, Trung tâm lưu ký chứng khoán đã phối hợp với các bên thực hiện hoàn tất đăng ký Tín phiếu đấu thầu vào ngày làm việc ngay sau ngày đấu thầu. Về lưu ký, hệ thống Trung tâm lưu ký chứng khoán sẽ cho phép thành viên lưu ký có thể lưu Trái phiếu, Trái phiếu trúng thầu vào tài khoản của Sở giao dịch Ngân hàng Nhà nước để giao dịch trên thị trường mở. SGDCK Hà Nội chính thức đưa hệ thống đấu thầu điện tử vào vận hành và cho phép kết nối trực tiếp với các thành viên đấu thầu, tổ chức phát hành cơ
- quan quản lý, điển tử hóa toàn bộ quá trình đấu thầu từ khi bắt đầu đến khi hoàn tất phiên đấu thầu. Điều này một mặt giúp các thành viên tham gia đấu thầu nhanh chóng, hiệu quả hơn, mặt khác giúp cơ quan vận hành rút ngắn đáng kể thời gian xét thầu... Ngoài ra thị trường trái phiếu thứ cấp cũng được hoàn thiện thông qua một số hoạt động khác như xây dựng hệ thống giao dịch tín phiếu, tạo ra sự liên kết giữa thị trường ngắn hạn và thị trường dài hạn, triển khai chương trình tái cơ cấu hàng hóa qua việc thực hiện phát hành trái phiếu theo lô lớn, hoán đổi trái phiếu, nâng cấp hệ thống giao dịch, thông tin trái phiếu chính phủ, triển khai đường cong lãi suất chuẩn.... 2.1.3. Công cụ phái sinh. Tại Quyết định 252/2012/QĐTTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển TTCK Việt Nam đến năm 2020 cũng đã đặt ra việc xây dựng TTCK phái sinh theo lộ trình thích hợp. Vì vậy, việc xây dựng TTCK phái sinh tại Việt Nam đã được Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo trên cơ sở triển khai xây dựng Đề án về thị trường phái sinh tại Việt Nam và xây dựng Nghị định của Chính phủ về tổ chức và họa động của TTCK phái sinh. Về mặt lý thuyết, có rất nhiều loại tài sản khác nhau ở Việt Nam có thể cho phép thực hiện giao dịch phái sinh. Nhưng thực tế cho thấy các tài sản cơ sở khác nhau được quản lý bởi các cơ quan chủ quản khác nhau. Bảng: Cơ quan quản lý tài sản cơ sở tại Việt Nam Tài sản/Cơ quản quản lý Ngoại tệ Chỉ số chứng khoán Cao su Vàng Trái phiếu Chính phủ Hạt điều
- Trái phiếu doanh nghiệp Lãi suất Cổ phiếu Cà phê Cơ quan quản lý thị NHNN UBCKNN Bộ Công Thương trường phái sinh Cơ quan quản lý giao dịch tài sản cơ sở NHNN UBCKNN Bộ Công Thương Một số khái niệm cơ bản về chứng khoán phái sinh đã được quy định trong Luật Chứng khoán. Việc lựa chọn các thị trường phái sinh dựa trên công cụ cơ sở (gốc) là chứng khoán như cổ phiếu, trái phiếu, chỉ số chứng khoán… là cơ sở ban đầu cho hoạt động giao dịch. Các chứng khoán cơ sở phải đáp ứng được một số tiêu chí về tính thanh khoản, chất lượng của dòng thông tin về giao dịch tài sản cơ sở và các liên kết về công nghệ thông tin, thẩm quyền quản lý đối với tài sản cơ sở… a. Thị trường phái sinh tiền tệ TTPS tiền tệ ra đời sớm nhất tại Việt Nam. Đây là thị trương có nhiều biến động khó lường vì nó liên quan tới mọi hoạt động của nền kinh tế, các sản phẩm phái sinh tiền tệ chủ yếu được giao dịch trên thị trường phi tập trung giữa các ngân hàng với nhau hoặc giữa các ngân hàng với các TCTC, DN, cá nhân. Các sản phẩm chủ yếu trên TTTT chủ yếu là hợp đồng kì hạn, hợp đồng hoán đổi và các hợp đồng quyền chọn trên lãi suất và tiền tệ, chưa có hợp đồng tương lai vì chưa có thị trường tập trung Đối với các sản phẩm phái sinh ngoại tệ, hợp đồng kì hạn và hợp đồng hoán đổi là các công cụ tài chính phái sinh xuất hiện sớm nhất ở VN . Các hợp đồng kì hạn thường sử dụng nhiều trên TT hàng hóa nhưng ít được sử dụng trên TT liên ngân hàng
- Trong giai đoạn 20072009, một sản phẩm phái sinh thu hút được nhiều sự quan tâm của thị trường là hợp đồng quyền chọn giữa VNĐ và ngoại tệ. Các DN xuất nhập khẩu thường xuyên sử dụng hợp đồng này để chuyển đổi ngoại tệ thành VNĐ nhằm phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên năm 2009 khi tỷ giá liên tục tăng cao và tạo sự chênh lệch lớn trong tỷ giá của hệ thống ngân hàng với tỷ giá trên thị trường tự do thì HĐQC này được sử dụng để lách trần tỷ giá bằng các giao dịch quyền chọn thanh toán kiểu Mĩ cho phép các bên tất toán trước thời điểm đáo hạn. Do vậy, năm 2009, NHNN đã yêu cầu dừng việc thực hiện nghiệp vụ này. Đây là trở ngại lớn đối với ngân hàng làm cho các giao dịch quyền chọn của các ngân hàng giảm sút Đối với các giao dịch phái sinh lãi suất, hợp đồng hoán đổi LS được NHNN cho phép áp dụng từ năm 2003 theo quyết định 1133/QD/NHNN. Khi được NHNN cho phép, HSBC là ngân hàng đầu tiên cung cấp gói hoán đổi lãi suất chéo giữa VNĐ/USD cho 1 công ty đa quốc gia lên tới 15tr USD trên TT Việt Nam tạo nền tảng cho các giao dịch hoán đổi sau này. Nhiều ngân hàng nước ngoài như Citibank, ABN Amro, Standard chartered và các ngân hàng trong nước như VCB, BIDV, Incombank, VIBank .. đã cung cấp các hợp đồng hoán đổi lãi suất và tiền tệ. Tuy nhiên,các cộng cụ hoán đổi lãi suất của các NHTM VN vẫn còn nhiều hạn chế. Từ năm 20052007 mới chỉ có 40 hợp đồng hoán đổi lãi suất và một số ít hợp đồng phái sinh không chuẩn hóa khác. Về hợp đồng quyền chọn lãi suất, BIDV là ngân hàng đầu tiên được phép thực hiện giao dịch quyền chọn lãi suất. Các giao dịch quyền chọn lãi suất được phép thực hiện đối với những khoản cho vay trung hạn ( dưới 5 năm) bằng USD hoặc bằng EUR. Sau BIDV một loạt các NHTM khác bao gồm cả NHTM cổ phần cũng được thực hiện các giao dịch này Điểm lại các cột mốc trên cho thấy, hiện tại các CCPS vẫn chưa phát triển, TTPS tiền tệ vẫn chủ yếu là những giao dịch phi tập trung, lẻ tẻ tại một số ngân hàng, nhiều sản phẩm phái sinh vẫn còn là thử nghiệm.
- b. Thị trường phái sinh hàng hóa Khác với TTPS tiền tệ, các CCPS hàng hóa về cơ bản được giao dịch trên các sàn giao dịch tại một địa điểm tập trung. Tuy nhiên, các sàn giao dịch trong nước hiện chưa có hội tủ đủ 1 tiêu chuẩn là 1 SGD hàng hóa tập trung đúng nghĩa. Đa phần các sản phẩm phái sinh hàng hóa được niêm yết qua giao dịch ( như HĐTL cà phê ( Robusta và Arabica), cao su (RSS3) và thép (HRC).. hiện được niêm yết trên HNX vẫn chỉ dừng lại ở mức độ thăm dò, sự tham gia của các DN XNK và NĐT còn hạn chế. c. Thị trường phái sinh chứng khoán Trong giai đoạn nở rộ của TTCK VN 20072008, một số CCPS trên TTCK đã ra đời do các NĐT cho rằng lợi nhuận từ các cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ hiện nay là chưa đủ. Các CKPS được triển khai tại các CTCK chủ yếu là các quyền chọn trên tài sản cơ sở là cổ phiếu. Các CTCK đóng vai trò là người bán quyền chon ( thường là quyền chọn mua), đối tượng khách hàng không hạn chế nhưng chủ yếu tập trung vào các NĐT cá nhân có tài sản lớn. Các CTCK thực hiện thu phí quyền chọn dựa trên cơ sở xác định khả năng sảy ra rủi ro cao nhất thông qua giao dịch trên TTCK cơ sở. Tới năm 2010, sau thời gian suy giảm vào năm 2008 của TTCK một số CCPS mới được giới thiệu. Đầu tiên là CTCK VN Direct với sản phẩm “hợp đồng hợp tác đàu tư” trên 20 cổ phiếu có tính thanh khoản cao trên HOSE và HNX, tiếp theo là VTG với sản phẩm đầu tư chỉ số VTGVNIndex mang nhiều dáng dấp của HĐTL….Sau khi triển khai được 1 thời gian, các GDPS này gặp phải nhiều vướng mắc về pháp lý, UBCKVN đã yêu cầu VN Direct và VTG ngừng hoạt động liên quan đến sản phẩm trên. II.2. Tái cấu trúc tổ chức kinh doanh chứng khoán. II.2.1.Định hướng của chính phủ
- Quyết định số 1826/QĐTTg ngày 06/12/2012 của Thủ tướng Chính phủ : Phê duyệt đề án "Tái cấu trúc thị trường chứng khoán và doanh nghiệp bảo hiểm" có nêu nên các giải pháp trong tái cấu trúc tổ chức kinh doanh chứng khoán. a) Phân loại các tổ chức kinh doanh chứng khoán. Phân loại theo bốn (04) nhóm trên cơ sở mức độ rủi ro đối với thị trường để có biện pháp xử lý thích hợp: (i) Nhóm hoạt động lành mạnh, gồm các tổ chức có tỷ lệ vốn khả dụng trên 180%; (ii) Nhóm hoạt động bình thường gồm các tổ chức có tỷ lệ vốn khả dụng đạt từ 150% tới 180%; (iii) Nhóm bị kiểm soát gồm các tổ chức có tỷ lệ vốn khả dụng đạt từ 120% tới 150%; (iv) Nhóm bị kiểm soát đặc biệt gồm các tổ chức hoạt động kinh doanh thua lỗ làm cho tỷ lệ vốn khả dụng dưới 120%. b) Giải pháp xử lý: (i) Giải pháp đối với các tổ chức kinh doanh chứng khoán hoạt động lành mạnh: Duy trì, ổn định và từng bước nâng cao năng lực tài chính: Tổ chức kinh doanh chứng khoán xây dựng và triển khai phương án tự củng cố nhằm bảo toàn vốn, lành mạnh hóa và từng bước nâng cao năng lực tài chính; Cơ cấu lại hoạt động kinh doanh nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh; từng bước chuyên nghiệp hóa, hiện đại hóa các dịch vụ cung cấp theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế; mở rộng quy mô, phạm vi và địa bàn hoạt động, khuyến
- khích việc cung cấp các dịch vụ chứng khoán cho các thị trường quốc tế trong khu vực và trên thế giới; sử dụng công nghệ và hạ tầng kỹ thuật tiên tiến nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp cho nhà đầu tư; Nâng cao năng lực kiểm soát và quản trị rủi ro; áp dụng các nguyên tắc quản trị rủi ro theo thông lệ quốc tế; cơ cấu lại danh mục đầu tư, chấn chỉnh lại các hoạt động kinh doanh nhằm hạn chế rủi ro; tập trung vào lĩnh vực kinh doanh chính là cung cấp các dịch vụ chứng khoán; Nâng cao năng lực quản trị và điều hành công ty; cơ cấu lại hệ thống quản trị, tổ chức lại bộ máy, nhân sự; áp dụng các nguyên tắc và chuẩn mực cao nhất về đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ nhân viên, cán bộ của các tổ chức này; có giải pháp hiệu quả nhằm ngăn ngừa xung đột lợi ích; Tạo điều kiện các tổ chức kinh doanh chứng khoán hợp nhất, sáp nhập, mua lại theo nguyên tắc tự nguyện nhằm tích tụ vốn, công nghệ, mở rộng địa bàn hoạt động, tận dụng kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm để tạo đà phát triển nhanh về quy mô và hoạt động nghiệp vụ; khuyến khích các tổ chức này tham gia xử lý các tổ chức kinh doanh chứng khoán bị kiểm soát, kiểm soát đặc biệt. (ii) Giải pháp đối với các tổ chức kinh doanh chứng khoán hoạt động bình thường: Tổ chức kinh doanh chứng khoán: Xây dựng, tổ chức thực hiện phương án khắc phục; cơ cấu lại danh mục đầu tư, thu hồi nợ, hạn chế các hoạt động đầu tư và dịch vụ chứng khoán tiềm ẩn rủi ro; tinh giản tổ chức nhân sự, cắt giảm chi phí hoạt động; củng cố năng lực và lành mạnh hóa tài chính, tăng vốn, bán nợ hoặc chuyển vốn nợ thành vốn chủ sở hữu, hạn chế phân phối lợi nhuận cho cổ đông, thành viên góp vốn, chi thưởng...;
- Ủy ban Chứng khoán Nhà nước thực hiện: + Giám sát chặt chẽ hoạt động của các tổ chức này; tăng tần suất báo cáo về tình hình tài chính; phối hợp với các Sở Giao dịch chứng khoán, Trung tâm Lưu ký chứng khoán kiểm soát chặt chẽ hoạt động thanh toán giao dịch của các tổ chức này; + Tùy theo tính chất, mức độ rủi ro, hạn chế hoặc không chấp thuận cho các tổ chức này mở rộng địa bàn, phạm vi hoạt động, bổ sung nghiệp vụ, phân phối lợi nhuận bằng tiền; hạn chế các hoạt động góp vốn, mua cổ phần, đầu tư vào tài sản tiềm ẩn nhiều rủi ro; + Khuyến khích, tạo điều kiện cho các tổ chức kinh doanh chứng khoán thuộc nhóm này sáp nhập, hợp nhất với nhau, hoặc với các tổ chức kinh doanh chứng khoán hoạt động lành mạnh; khuyến khích hoạt động chuyển nhượng vốn cổ phần, phần vốn góp của cổ đông lớn, thành viên góp vốn cho các tổ chức tài chính ngân hàng, kể cả việc chuyển nhượng cho các tổ chức nước ngoài theo cam kết WTO; Khuyến khích các tổ chức tín dụng, tập đoàn có tình hình tài chính lành mạnh là công ty mẹ, chủ nợ, hay đối tác hỗ trợ việc lành mạnh hóa tình hình tài chính của tổ chức kinh doanh chứng khoán như cấp vốn, bổ sung vốn, xóa nợ hoặc chuyển vốn nợ thành vốn chủ sở hữu, khoanh nợ...; (iii) Giải pháp đối với các tổ chức kinh doanh chứng khoán bị kiểm soát: Ngoài áp dụng các giải pháp đối với các tổ chức kinh doanh chứng khoán hoạt động bình thường, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước xây dựng quy trình chi tiết để quá trình tái cơ cấu các tổ chức thuộc nhóm này diễn ra theo lộ trình trật tự, bảo đảm an toàn tài sản của khách hàng:
- Yêu cầu các tổ chức thuộc nhóm này lành mạnh hóa và củng cố năng lực tài chính: Tăng vốn, không phân phối lợi nhuận, không mua cổ phiếu quỹ; tái cơ cấu danh mục đầu tư và hoạt động kinh doanh theo hướng giảm dần các hạng mục đầu tư và dịch vụ có hệ số rủi ro cao; thu hẹp địa bàn hoạt động, cắt giảm nhân sự...; Yêu cầu các tổ chức này tự nguyện hoặc thực hiện rút bớt các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán theo quy định của pháp luật. Khi rút nghiệp vụ môi giới chứng khoán, chủ động có lộ trình thực hiện, các biện pháp kỹ thuật, xử lý tình huống nhằm bảo đảm an toàn tài sản của khách hàng. (iv) Giải pháp đối với các tổ chức kinh doanh chứng khoán bị kiểm soát đặc biệt: Sau thời gian bị kiểm soát đặc biệt, nếu không bảo đảm được các quy định về an toàn tài chính và tiếp tục thua lỗ (lỗ lũy kế đạt trên 50% vốn điều lệ), thì đình chỉ hoạt động, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động; giải thể hoặc phá sản theo quy định của pháp luật. Trường hợp không khắc phục được và lỗ lũy kế đạt dưới 50% vốn điều lệ, thì chấm dứt mọi hoạt động chứng khoán, duy trì tư cách pháp nhân để thực hiện các nghĩa vụ tài chính đối với khách hàng, chủ nợ; hoặc giải thể, phá sản theo quy định của pháp luật. II.2.2. Lộ trình thực hiện Trong đề án cũng có nêu ra lộ trình thực hiện việc tái cấu trúc các tổ chức kinh doanh chứng khoán. a) Năm 2012 2014 Phân loại các tổ chức kinh doanh chứng khoán và triển khai các giải pháp phù hợp để tái cấu trúc các tổ chức này. Trước mắt, ưu tiên các giải pháp tự tái
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Bài tiểu luận môn Lý thuyết tài chính tiền tệ: Cấu trúc thị trường tài chính
19 p | 803 | 207
-
Tiểu luận: Các lý thuyết về cấu trúc kỳ hạn của lãi suất
26 p | 602 | 62
-
Tiểu luận: Công ty cổ phần bia rượu nước giải khát Sài Gòn (SABECO)
15 p | 463 | 41
-
Tiểu luận: Tái cấu trúc thị trường chứng khoán Việt Nam
42 p | 180 | 32
-
Thuyết trình: Cấu trúc thị trường
57 p | 198 | 19
-
Thuyết trình: Cấu trúc thị trường và đặc tính cạnh tranh của Công ty Bánh kẹo Hải Châu
24 p | 194 | 15
-
Tiểu luận: Cấu trúc thị trường tiền tệ
24 p | 272 | 14
-
Tiểu luận môn học Tài chính - Tiền tệ: Thông tin bất cân xứng & cấu trúc tài chính
48 p | 32 | 12
-
Tiểu luận: Lựa chọn thời điểm thị trường và cấu trúc vốn
16 p | 117 | 12
-
Tiểu luận: Tái cấu trúc tổ chức và thiết lập hệ thống trợ lực chiến lược
16 p | 134 | 11
-
Tiểu luận: Tái cấu trúc thị trường chứng khoán: tổ chức lại sở giao dịch và thị trường OTC
58 p | 87 | 11
-
Thuyết trình: Lợi nhuận và cấu trúc tài chính
24 p | 77 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Kế toán: Nghiên cứu ảnh hưởng của cấu trúc sở hữu đến hiệu quả hoạt động của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
140 p | 17 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Tái cấu trúc dự án B.O.T cầu Phú Mỹ
74 p | 41 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Tái cấu trúc vốn công ty cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán Tp. Hồ Chí Minh
139 p | 22 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Tái cấu trúc ngành điện và cơ cấu giá điện trong thị trường điện Việt Nam
115 p | 26 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam - Nguyễn Thị Ngọc Anh
109 p | 17 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn