
Tính phứcđiệu Thếgiới quan
của văn học Nga những năm
1920-1930
Văn học Nga thếkỷXX với hai dòng chảy của nó, mà nay đã được hoà làm
một: văn học nơi chính quốc và văn học lưu vong - là một hiện tượng quan trọng
xét cả ở bối cảnh dân tộc, lẫn bối cảnh thếgiới. Và đỉnh cao mỹhọc, triết học của
nó, theo tôi, chính là văn học những năm 1920-1930, một nền văn học phong phú
đến kỳlạvà tươi rói những tài năng, đã đưa vào văn học dân tộc những tip người
mới, những xung đột, vấnđề và chân trời tưtưởng mới... Nó vừa tiếp tục thếkỷ
vàng cổ điển và thếkỷbạc của văn học Nga, vừa có những đào sâu mới vềmặt
nguyên tắc vào bản chất của con người và thếgiới, cái ác xã hội và bản thể- trong
giai đoạn bước ngoặtđại chúng hoá của lịch sử, những chấnđộng cách mạng, sự
tấn công của văn minh công nghiệp- đô thịvào xã hội nông dân Kitô giáo truyền
thống, những say mê mới và những thất vọng cay đắng, áp lực của những hệtư
tưởng khuyết tật… Từcác tầng lớp thấp của xã hội Nga, được kích hoạt bởi những
biếnđộng và bước ngoặt của thờiđại, những rung chuyển dữdội các nền tảng của
cuộc sống, đã tràn vào văn học cảmột thếhệnghệsĩtài năng và táo bạo khác
thường - các nhà thơ(chỉcần kểtới Sergei Esenin, Vladimir Maiakovski và
Nikolai Zabolotski…), và các nhà văn xuôi bằng một làn sóng rộng lớn những

truyện vừa và truyện ngắnđã cày xới mảnh đất Nga rối ren, tắm trong
máu (Vsevolod Ivanov, Artiom Vesiolyi, Andrei Platonov, Aleksandr Neverov,
Aleksandr Phadeev, Isaak Babel…), để đi tới những bức tranh nghệthuật tổng
hợp, bao trùm, nhằm suy ngẫm sâu xa vềnhững gì trải qua, vềsốphận bi thảm
của nhân dân trong cách mạng.
Nếu văn xuôi và đặc biệt là thơca ởchính quốc những năm 1920-1930 hoạt
động nhiều trong môi trường không tưởng của lý tưởng cải cách tối cao, khi đưa ra
cách tiếp cận sáng tạo mới với những mâu thuẫnđịnh mệnh, và những giới hạn của số
phận con người hữu tử, thì văn học thếhệtrẻnhững kiều dân Nga các năm tháng đó lại
đi sâu vào các vấnđề hiện sinh của "cái tôi" cá nhân, đối mặt với cái kết thúc và sự
tuyệt vọng siêu hình (Gaito Gazdanov, Vladimir Nabokov, Boris Poplavski…). Phạm
vi tưduy của các tưtưởng, cách tiếp cậnđối với con người, Chúa, tựnhiên, xã hội và
tương lai ở đây rất rộng, bao gồm cảnhững khuynh hướng đối lập nhau, lẫn gần gũi
nhau bên trong, bổsung cho nhau.
Chúng ta đều biết là văn học Nga, bắtđầu từthếkỷXIX hoàng kim của mình,
và có lẽcũng không có nền văn học nào khác trên thếgiới, rất quan tâm tới những vấn
đề thếgiới quan, hơn thếlà những vấnđề tối cao, hướng tới những luận cứvà mục
đích cuối cùng của sựxuất hiện con người trong thếgiới, tới cốt lõi của bản tính đầy
phức tạp, mâu thuẫn của nó, mối quan hệvới những thực tại nền móng của sựsinh tồn
của nó: Chúa, tựnhiên, vũtrụ, cái ác, cái chết, tình yêu (eros), những người khác…
Khá phổbiến là ý kiến cho rằng chính văn học Nga đã sinh ra tưtưởng triết học dân
tộc hết sứcđộcđáo. "Dostoievski, - N.A. Berdiaev viết, - không chỉlà một nghệsĩvĩ
đại, ông còn là một tưtưởng gia vĩ đại và một người thấu thịtâm linh vĩ đại"(1).Ởmức
độ này hay mứcđộ khác, cũng có thểnói đúng nhưthếvềnhững tác gia lỗi lạc nhất
của nước Nga, từPushkin, Lermontov, Tiutchev, Gogol, Tolstoi đến Andrei Platonov,
Mikhain Prishvin, Leonid Leonov…
Nếu nói vềtriết họcđích thực nhưmột ngành khoa học nhân văn riêng biệt,
được nhận thứcởnước Nga trước hết nhưlà thếgiới học,nhân học, nhưlà sựmò
mẫm tiên tri những con đường tương lai củacứu rỗi, thì nó, quảthực, đã phát triển và
chín muồi trong lòng văn học, trong thân thểsống động, rộng lớn của thơca, văn xuôi,
phê bình, và đạt tới sựtồn tạiđộcđáo mạnh mẽvào cuối thếkỷXIX - một phần ba đầu
thếkỷXX, khi nó thểhiện mình trước hết nhưmột loại tưbiệnđạođức-tôn giáo, đặt ra

chủyếu vẫn là những vấnđề cơbản tương tựnhưtrong văn học: vềChúa và con
người, vềviễn cảnh tiến hoá vềmặt bản thểcủa nó và những trởngạiđối vớiđiềuđó,
trước hết là những trởngại bên trong, vềlịch sửvà hậu thế... Tưtưởng cách tân sáng
tạo xuất hiệnởNikolai Phedorov và Vladimir Soloviev, Sergi Bulgakov và Nikolai
Berdiaev, Pavel Florenski và Aleksandr Gorki và các đại biểu khác của phong trào
Phục hưng triết học-tôn giáo, cũng nhưtrào lưu triết học tựnhiên, thường được kết hợp
lại trong khái niệm “thuyết vũtrụNga” (russkij kosmizm), vềphần mình bắtđầuảnh
hưởng đến văn học của cảthếkỷbạc lẫn văn học những năm 1920-1930. Hơn thế
trong văn học nơi chính quốc, đượcđặc biệt phấn khích bởi niềm hứng khởi tái cấu
trúc thếgiới và con người, sự đột phá của lao động sáng tạo tập thểvào cái sau-lịch-sử
tương lai, thì những tưtưởng ấy không hiếm khi thu lượm âm hưởng Promethée, âm
hưởng Nhân-Thần, góp mặt vào tính phứcđiệu tưtưởng phức tạp, năng động-tương
phản của văn học thời kỳ đó(2).
Chủnghĩa Promethée và những phản biện của nó
Cách mạng trong sáng tác của nhiều nhà thơvô sản, cũng nhưcác nhà thơnông
dân mới – từVladimir Kirillov, Mikhail Gerasimov, Ivan Philipchenko, Aleksei
Gastev đến Piotr Oreshin, Nikolai Kliuev, Sergei Esenin - được tiếp nhận trong những
nămđầu tiên của nó không chỉ đơn giản là một cuộc cách mạng xã hội thông thường,
mà nhưmột sựbiến lớn lao, sựkhởiđầu của một bước ngoặt bản thể, có sứmệnh tái
tạo không chỉxã hội, mà cảtrật tựcác sựvật trong thếgiới và cuộc sống của con người
trên nền tảng bản tính tựnhiên của nó (ở đâyđề cậpđến cảviệcđiều chỉnh tựnhiên,
lẫn việcđạt tới sựbất tử). Lý tưởng cách mạng và chủnghĩa xã hội hóa ra đã thấmđẫm
cảm hứng tôn giáo đã được biến hoá, với khát khao của nó vươn tới hạnh phúc tột bậc
và cải tạo toàn bộtựnhiên. Các luậnđiểm của chủnghĩa Marx về“bước nhảy vọt từ
vương quốc của thiết yếu sang vương quốc của tựdo” được kết hợp với những hoài
bão tôn giáo về“bầu trời mới và mặtđất mới”, về“tạo vật mới” sống trên đó, một
“thiên đường của người mugich”, “thành quốc Kitezh”, những thứluôn sống mãi trong
tâm thức dân gian.
Điểm chính yếu của hệtưtưởng mới, hay có thểnói, đòn xeo của nó, mà các
nhà sáng tác vô sản muốn dùng để xoay chuyển thếgiới, là tưtưởng và lý tưởng tập
thể, tập thể ở phạm vi khổng lồ, toàn hành tinh, được cổvũbởi niềm hứng khởi lao
động và cải tạo trái đất bằng lao động. Mà hiện thời tất cảnhững tưchất cho một nhận

thức tập thểnhưthế, theo A.A. Bogdanov - người thầy tưtưởng chính của các nhà thơ
vô sản – thì chỉgiai cấp vô sản mới có. Khác với chủnghĩa Marx chính thống,
Bogdanov cho rằng “động cơchung và chủyếu của tiến bộ” không phải là cuộcđấu
tranh “trong lòng xã hội” (giai cấp), ngược lại, nó biến thành cái kìm hãm sựphát triển,
bởi nó "làm hao tổn sức lực và phát tán sựchú ý sáng tạo của con người", mà là "cuộc
đấu tranh trực tiếp của con người với thiên nhiên"(3),được ông hiểu rất rộng nhưsự
nhận thức thếgiới, chinh phục các thếlực tựnhiên, cải biến bản thân bản tính con
người trong quá trình đó.
Xuất hiện không phải "trong vầng hào quang của những bí ẩn thần thánh", mà là
trong tiếng gầm gào và khói bụi của “các nhà máy, công xưởng và vùng ngoại vi", "vị
cứu thếbằng sắt" của các nhà thơvô sản có nhiệm vụtối cao của mình, hoàn toàn theo
kiểu Bogdanov, nhưchủnhân ông của tựnhiên, người sai khiến các sức mạnh và hiện
tượng của nó:
Nơi nào tiếng thét uy quyền của anh vang lên -
nơiđó lòng đất mởra,
Trong chớp mắt núi phải nhường lối trước anh,
Các địa cực thếgiới xích gần lại…
(V. Kirillov. Vịcứu thếbằng sắt, 1918)
Cảm hứng "dựng xây-kiến tạo" (A. Bogdanov) của lý tưởng chủnghĩa xã hội
được thểhiện mạnh mẽvà trọn vẹn nhất trong sáng tác của Ivan Philipchenko. Trong
thơông, cái ý tưởng của Bazarov "thếgiới là xưởng thợ, còn con người là người thợ
trong đó" thực sự đã được thực hiện, hơn thế, thếgiới - theo đúng nghĩađen là toàn bộ
trái đất, đã biến thành một xưởng thợkhổng lồ, rung chuyển bởi nhịpđộ của những
công việc chưa từng thấy, còn con người dường như đã không còn là con người, mà là
siêu nhân với trái tim của Promethée, lao vào ngày mai, vào một bản thểmới bất tử,
tràn đầy sức lực của vịthần khổng lồ,đầy sức mạnh kiến thiết, tỏa rạng sức khoẻphi
phàm và niềm lạc quan “Hây, những đôi vai, những đôi vai! Hây, những cơbắp,
những múi thịt sắt thép!").
Các nhà thơvô sản nhận thức và biểu lộmình trước hết nhưnhững người loan
truyền niềm tin tập thể. Cái "chúng tôi" vĩ đại, thấmđẫm cảm giác mạnh mẽphi

thường của một tập thểkhổng lồtoàn thếgiới của những người lao động, các chiến sĩ
và người dựng xây đã trởthành tên gọi của rất nhiều bài thơ, thành nhân vật chính
trong đó. Có thểtrích dẫn bất tận từcác nhà thơkhác nhau những câu như: "Chúng tôi,
đoàn quân hung bạo, đông vô sốkể" (Kirillov), "Chúng tôi và Các bạn - một Thân thể
thống nhất, Các bạn và Chúng tôi - không thểchia tách" (Sadofiev), "Chúng tôi có thể
làm tất cả, Chúng tôi phải cảgan" (Gerasimov). Trong bài thơ"Chúng tôi" nổi tiếng
của Kirillov đã phát biểu thẳng thắn tín điều chính yếu của Nhân-Thần: "Tất cảlà
chúng ta, chúng ta - trong tất cả, chúng ta là lửa và ánh sáng bách chiến bách thắng,
chính chúng ta là Chúa Trời, là Quan toà, là Luật lệcủa mình". Chúa bịlật nhào khỏi
bệtượng, và con ngườiđượcđặt lên chỗcủa ngài, nhưng không đơn thuần là con
người, không phải cái "tôi" riêng lẻ, mà là một "chúng tôi" không đếm xuể, một siêu
sinh vật cỡhành tinh nào đó có tinh thần và ý chí thống nhất. Trong một khoảng thời
gian nào đó điều này trởthành đức tin tiên tri mớiđối với một loạt nhà thơnông dân
mới. Chỉcần chúng ta nhớtới bản trường ca nổi tiếng của S. Esenin "Inonia" (1918),
trong đó những đặcđiểm của cơn cuồng nộchống Chúa, của chủnghĩa “người khổng
lồ” có kích thước hành tinh- vũtrụ đã xích nó gần với thơca vô sản, với các tác phẩm
của Maiakovski cuối những năm 1910. Cũng xin nói thêm, Nhân-Thần của
Khlebnikov ởtham vọng điên cuồng cao nhất của mình cũng không thua kém
gì Nhân-Thần của Maiakovski:
Nếu người ta nói: anh là Chúa Trời,-
Hãy giận dữtrảlời: thật là vu khống,
Ông ta chỉvới tới gót chân tôi!
Mà chân có thểbằng vai được không?
(Zangezi, 1920-1922)
Đồng thời lý tưởng của Khlebnikov hướng tới một thờiđại tôn giáo tổng hợp
mới nào đó mà có thểdung hoà một cách tốtđẹp và làm giàu cho nhau điện thờcủa
các vịthầnđa thần giáo, các vịthần dân tộc và khu vực của phương Đông và phương
Tây, của các nền văn hoá mọi thờiđại, khi mà các tôn giáo lớn của thếgiới vốnđang
chia rẽnhân loại tựnguyện nhường chỗcho một sựnhận thức linh thiêng hóa đối với
mọi sựvật, nó sẽbao chứa vào một tích hợp thống nhất toàn thểloài người, toàn bộtự
nhiên và tất cảhoàn vũ(hình tượng Pho sách thống nhấtvĩ đại trong tác phẩmNhững

