intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế học: Chi tiêu công, vốn trí tuệ quốc gia và kinh tế ngầm

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:60

66
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế học "Chi tiêu công, vốn trí tuệ quốc gia và kinh tế ngầm" được nghiên cứu với mục tiêu: Nghiên cứu tác động của chi tiêu công, thành phần chi tiêu công; Nghiên cứu vai trò hiệu chỉnh của các ràng buộc ngân sách trong mối tác động giữa chi tiêu công, thành phần chi tiêu công đến quy mô kinh tế ngầm; Nghiên cứu tác động của vốn trí tuệ quốc gia đến quy mô kinh tế ngầm.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế học: Chi tiêu công, vốn trí tuệ quốc gia và kinh tế ngầm

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP. HỒ CHÍ MINH TRẦN PHẠM KHÁNH TOÀN CHI TIÊU CÔNG, VỐN TRÍ TUỆ QUỐC GIA VÀ KINH TẾ NGẦM TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ HỌC TP. Hồ Chí Minh - Năm 2024
  2. Công trình được hoàn thành tại: trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh Người hướng dẫn khoa học: 1. TS. Lê Thái Thường Quân 2. TS. Nguyễn Lê Hoàng Thụy Tố Quyên Phản biện 1: ........................................................................................................ Phản biện 2: ........................................................................................................ Phản biện 3: ......................................................................................................... Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Trường họp tại : ......................................................................................................... .................................................................................................................................... vào hồi giờ ngày tháng năm Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện: - Thư viên Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh - Thư viện quốc gia.
  3. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP. HỒ CHÍ MINH TRẦN PHẠM KHÁNH TOÀN CHI TIÊU CÔNG, VỐN TRÍ TUỆ QUỐC GIA VÀ KINH TẾ NGẦM Chuyên ngành: Kinh tế học Mã số: 9310101 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ HỌC Người hướng dẫn khoa học: 1. TS. Lê Thái Thường Quân 2. TS. Nguyễn Lê Hoàng Thụy Tố Quyên TP. Hồ Chí Minh - Năm 2024
  4. CHƯƠNG 1 GIỚI THIỆU 1.1 Sự cần thiết của nghiên cứu 1.1.1 Bối cảnh thực tiễn Trong những năm gần đây, kinh tế ngầm (KTN) đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu kinh tế, nhà hoạch định chính sách. Theo ước tính của Medina & Schneider (2019) thì quy mô kinh tế ngầm trung bình của các quốc gia trên thế giới vào khoảng 32% GDP, còn theo tính toán của Ohnsorge & Yu (2021) thì khu vực kinh tế ngầm đóng góp hơn 70% tổng số việc làm ở các nền kinh tế mới nổi và các nước đang phát triển. ILO (2018) ước tính có khoảng 2 tỷ người, chiếm 61% tổng lực lượng lao động trên toàn thế giới làm việc trong khu vực phi chính thức. Khu vực kinh tế ngầm có quy mô lớn ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển bao trùm, làm suy yếu tính hiệu quả của các chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ. Vì vậy, Chính phủ các quốc gia đều sử dụng các chính sách, nguồn lực để kiểm soát quy mô của kinh tế ngầm cũng như hạn chế các tác động tiêu cực của nó. Các nghiên cứu trước đều nhấn mạnh tầm quan trọng của chi tiêu công như một công cụ để can thiệp vào nền kinh tế, hướng đến các mục tiêu phát triển như tăng trưởng kinh tế, phân phối lại các nguồn lực, thúc đẩy giảm nghèo và công bằng xã hội. Đặc biệt khi đại dịch COVID-19 xảy ra, các nhà nghiên cứu đã đề xuất các quốc gia cần phải thực hiện chính sách tài khóa mở rộng, tung ra các gói kích thích kinh tế, tăng cường chi tiêu công để tạo ra nhiều việc làm, đảm bảo y tế, sức khỏe, an sinh xã hội cho các đối tượng tham gia khu vực phi chính thức. Không dừng lại ở việc sử dụng các nguồn lực sẵn có để hạn chế các mặt trái của kinh tế ngầm, các quốc gia cần phải phát huy các nguồn lực mới đặc biệt là các nguồn lực về trí tuệ, đổi mới, sáng tạo. Nếu như trước đây vốn trí tuệ chủ yếu được tiếp cận ở góc độ doanh nghiệp thì ngày nay khái niệm này đã được phát triển ở cấp độ quốc gia (Švarc & cộng sự, 2020). Vốn trí tuệ quốc gia được hiểu là tri thức, trí tuệ, năng 1
  5. lực và chuyên môn của một quốc gia nhằm đem lại sự thịnh vượng cho quốc gia đó trong tương lai (Bontis, 2004). Nhằm thích ứng với bối cảnh phát triển mới, các quốc gia đều tập trung xây dựng và nâng cao vốn trí tuệ của quốc gia mình với mục đích khơi dậy tinh thần đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất, lợi thế cạnh tranh quốc gia, và cuối cùng là thúc đẩy phát triển bền vững (Edvinsson & Bounfour, 2004). Chính vì vậy, việc nghiên cứu các mối quan hệ giữa chi tiêu công, vốn trí tuệ quốc gia và kinh tế ngầm là hết sức cần thiết nhằm cung cấp bằng chứng thực nghiệm cho các nhà hoạch định chính sách nhằm hướng đến tăng trưởng bền vững, bao trùm. 1.1.2 Bối cảnh lý thuyết Các nghiên cứu đã xác định một số nhân tố ảnh hưởng đến quy mô kinh tế ngầm. Tuy nhiên, chủ đề này vẫn đang được tiếp tục nghiên cứu, thảo luận do sự phát triển kinh tế xã hội. Lược khảo lý thuyết và các nghiên cứu trước cho thấy chi tiêu công chưa thu hút được nhiều sự quan tâm nghiên cứu, tìm hiểu tác động đến quy mô kinh tế ngầm. Ở khía cạnh lý thuyết, theo lý thuyết Pháp lý, việc chi tiêu của chính phủ không ngừng gia tăng là dấu hiệu của một nhà nước “lớn” hơn thị trường và nhà nước can thiệp sâu vào nền kinh tế thông qua việc đặt ra các luật lệ, quy định và điều này khuyến khích người dân tham gia khu vực phi chính thức để tránh các quy định, đặc biệt là các quy định về thuế, lao động… (Dell’Anno & Schneider, 2003; Kanniainen & cộng sự, 2004). Tuy nhiên, theo Lý thuyết Keynes, Lý thuyết Nhị nguyên thì nếu chi tiêu công được sử dụng hiệu quả sẽ tạo nhiều việc làm ở khu vực chính thức, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thì khu vực chính thức ngày càng được mở rộng và khu vực phi chính thức sẽ dần biến mất (La Porta & Shleifer, 2014). Như vậy, xét về mặt lý thuyết mối quan hệ giữa chi tiêu công và quy mô kinh tế ngầm chưa thống nhất. Tương tự như vậy, ở khía cạnh thực nghiệm, các kết quả nghiên cứu tác động của chi tiêu công đến quy mô kinh tế ngầm cũng chưa đạt được sự đồng thuận. 2
  6. Một điều cần lưu ý là mối quan hệ chi tiêu công và kinh tế ngầm phải được xem xét, đánh giá một cách kỹ lưỡng trong tình hình ràng buộc ngân sách vì Chính phủ các nước không thể tùy ý thúc đẩy hoặc cắt giảm chi tiêu công. Các ràng buộc ngân sách được xem là một sự thay đổi trong chính sách tài khóa phải được bù đắp bởi một sự thay đổi khác. Các ràng buộc ngân sách thường được đề cập là nợ công và thâm hụt ngân sách. Nghiên cứu của Gemmell & cộng sự (2012) nhận xét tác động của chi tiêu công, thành phần chi tiêu công còn phụ thuộc vào cách thức nó được bù đắp. Do vậy, nghiên cứu tiếp tục mở rộng mô hình nghiên cứu luận giải vai trò của ràng buộc ngân sách trong mối quan hệ giữa chi tiêu công, thành phần chi tiêu công và kinh tế ngầm. Vốn trí tuệ quốc gia được xem là tài sản vô hình sẵn có của một quốc gia hay khu vực có thể kết hợp với nhau nhằm tạo ra các lợi ích trong tương lai. Tác động của vốn trí tuệ quốc gia đến quy mô kinh tế ngầm chưa thu hút được sự quan tâm nghiên cứu. Một điểm cần lưu ý là đặc thù của môi trường thể chế ở các quốc gia. Tác động của vốn trí tuệ quốc gia cần phải được xem xét, phân tích kỹ trong sự tác động, chi phối của môi trường thể chế. Thể chế tốt là yếu tố cần thiết cho vốn trí tuệ quốc gia để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, từ đó làm giảm quy mô kinh tế ngầm. Tuy nhiên, vai trò hiệu chỉnh của thể chế đến sự tác động của vốn trí tuệ quốc gia đến kinh tế ngầm chưa được quan tâm nghiên cứu, phân tích. Vì vậy, nghiên cứu tiếp tục mở rộng mô hình nghiên cứu nhằm luận giải vai trò hiệu chỉnh của thể chế. 1.2 Mục tiêu nghiên cứu Luận án này có các mục tiêu nghiên cứu được xác định cụ thể như sau: (1) Thứ nhất, nghiên cứu tác động của chi tiêu công, thành phần chi tiêu công (chi tiêu công cho y tế, cho giáo dục, cho an ninh quốc phòng) đến quy mô kinh tế ngầm; (2) Thứ hai, nghiên cứu vai trò hiệu chỉnh của các ràng buộc ngân sách trong mối tác động giữa chi tiêu công, thành phần chi tiêu công đến quy mô kinh tế ngầm; (3) Thứ ba, nghiên cứu tác động của vốn trí tuệ quốc gia đến quy mô kinh tế ngầm 3
  7. và (4) Thứ tư, nghiên cứu vai trò hiệu chỉnh của thể chế trong mối tác động giữa vốn trí tuệ quốc gia và kinh tế ngầm. 1.3 Câu hỏi nghiên cứu Luận án này đưa ra các câu hỏi nghiên cứu chi tiết như sau: (1) Câu hỏi 1: Chi tiêu công, các thành phần của chi tiêu công (chi tiêu công cho giáo dục, cho y tế, cho quốc phòng an ninh) tác động như thế nào đến quy mô kinh tế ngầm?; (2) Câu hỏi 2: Vai trò hiệu chỉnh của các ràng buộc ngân sách trong tác động giữa chi tiêu công, cơ cấu thành phần chi tiêu công đến quy mô kinh tế ngầm?; (3) Câu hỏi 3: Vốn trí tuệ quốc gia tác động như thế nào đến quy mô kinh tế ngầm? và (4) Câu hỏi 4: Vai trò hiệu chỉnh của thể chế trong tác động của vốn trí tuệ quốc gia đến quy mô kinh tế ngầm? 1.4 Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và dữ liệu nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu được luận án tập trung tìm hiểu là mối quan hệ giữa chi tiêu công, các thành phần chi tiêu công, vốn trí tuệ và quy mô kinh tế ngầm. Ngoải ra, nghiên cứu còn tìm hiểu vai trò hiệu chỉnh của các ràng buộc ngân sách mối quan hệ giữa chi tiêu công, cơ cấu thành phần chi tiêu công đến quy mô kinh tế ngầm; vai trò hiệu chỉnh của thể chế trong tác động của vốn trí tuệ quốc gia đến kinh tế ngầm. Phạm vi nghiên cứu của đề tài là 98 các quốc gia từ 2000 đến năm 2020 cho mục tiêu nghiên cứu 1, 2. Đối với mục tiêu nghiên cứu 3, 4, phạm vi nghiên cứu là 92 quốc gia từ 2000 đến năm 2020. Nghiên cứu sử dụng các dữ liệu thứ cấp, được thu thập từ các tổ chức cung cấp số liệu đáng tin cậy bao gồm Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ quốc tế… 1.5 Ý nghĩa của nghiên cứu Luận án này hướng đến các ý nghĩa sau: - Thứ nhất, nghiên cứu góp phần hệ thống hóa lý thuyết về kinh tế ngầm, chi tiêu công và vốn trí tuệ. Kết quả nghiên cứu thu được giúp bổ sung thêm về mặt lý thuyết về cơ chế trong đó các biến này tương tác 4
  8. với nhau, bằng cách sử dụng phương pháp tích hợp ba lý thuyết có liên quan. - Thứ hai, nghiên cứu đã góp phần làm sáng tỏ vai trò cũng như sự tác động của chi tiêu công, các thành phần chi tiêu công, vốn trí tuệ quốc gia đến quy mô kinh tế ngầm và vai trò hiệu chỉnh của các ràng buộc ngân sách, thể chế trong các tác động này. Đây là vấn đề mà các nghiên cứu trước còn chưa tập trung phân tích làm rõ. - Thứ ba, nghiên cứu sẽ cung cấp về bằng chứng khách quan về kinh tế ngầm, chi tiêu công, vốn trí tuệ quốc gia. Điều này được kỳ vọng sẽ cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản lý của chính phủ có thêm cơ sở để lựa chọn để thực hiện các chính sách và quy định nhằm nâng cao chất lượng chi tiêu công, chất lượng vốn trí tuệ, từng bước giảm quy mô kinh tế ngầm và cuối cùng là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT 2.1 Các khái niệm 2.1.1 Chi tiêu công Chi tiêu công là một phạm trù kinh tế, tồn tại khách quan gắn liền với sự tồn tại và phát triển của nhà nước. Chi tiêu công còn được xem là công cụ tài chính quan trọng giúp nhà nước can thiệp vào các hoạt động kinh tế nhằm khắc phục những thất bại thị trường, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo vệ lợi ích chung cho các chủ thể trong xã hội (Sử Đình Thành & Bùi Thị Mai Hoài, 2009). Việc phân loại chi tiêu công là cần thiết trong việc xác định các hoạt động của chính phủ và mức độ thực thi các hoạt động đó tăng cường tính hiệu quả trong việc thi hành ngân sách nói chung và chi tiêu công nói riêng; thiết lập trách nhiệm giải trình trong quá trình thực hiện các thẩm quyền được giao và các chính sách trong quá trình lập ngân sách và phân bổ các nguồn lực tài chính công. 2.1.2 Vốn trí tuệ quốc gia 5
  9. Vốn trí tuệ quốc gia được mô tả là tất cả các nguồn lực vô hình sẵn có của một quốc gia hay khu vực có thể kết hợp với nhau nhằm tạo ra các lợi ích trong tương lai (Andriessen & Stam, 2005). Bontis (2004) cho rằng vốn trí tuệ của một quốc gia bao gồm các giá trị tiềm ẩn của các cá nhân, doanh nghiệp, thể chế, cộng đồng và khu vực, là nguồn lực hiện có để hình thành sự thịnh vượng của quốc gia. Vốn trí tuệ quốc gia thường được nghiên cứu như một tổng thể của các bộ phận cấu thành. Phụ thuộc vào cách tiếp cận mà các nhà nghiên cứu phân chia vốn trí tuệ thành nhiều thành phần khác nhau (Švarc & cộng sự, 2020). Nhận thức tầm quan trọng của vốn trí tuệ, chính phủ của một số quốc gia trên thế giới, các tổ chức quốc tế và một số nhà nghiên cứu đã phát triển các mô hình đo lường vốn trí tuệ quốc gia.Nghiên cứu của Vo & Tran (2022) xây dựng chỉ số vốn trí tuệ quốc gia (Index of National Intellectual Capital- INIC). Trong đó, vốn trí tuệ quốc gia bao gồm ba thành phần cơ bản là (1) vốn con người, (2) vốn cấu trúc và (3) vốn quan hệ. Theo đó, các thành phần được lựa chọn như sau: - Vốn con người bao gồm 3 chỉ tiêu cơ bản: tỷ lệ đăng ký nhập học đại học, tỷ lệ đăng ký nhập học trung học cơ sở và tỷ lệ chi tiêu công cho giáo dục - Vốn cấu trúc bao gồm 2 chỉ tiêu cơ bản là tỷ lệ người sử dụng Internet và tỷ lệ thuê bao điện thoại di động. - Vốn quan hệ bao gồm 3 chỉ tiêu cơ bản là tỷ lệ giá trị xuất khẩu hàng hóa dịch vụ trên GDP, tỷ lệ giá trị xuất khẩu hàng hóa công nghệ thông tin và truyền thông trên tổng giá trị hàng hóa xuất khẩu, và tỷ lệ đầu tư trực tiếp nước ngoài trên GDP. 2.1.3 Kinh tế ngầm 2.1.3.1 Khái niệm Trong lý thuyết kinh tế, thuật ngữ kinh tế ngầm (shadow economy) xuất hiện dưới nhiều tên gọi khác nhau như kinh tế phi chính thức (informal economy), kinh tế không khai báo (undeclared 6
  10. economy), kinh tế bất hợp pháp (irregular economy), kinh tế ẩn (underground economy) …. Schneider & cộng sự (2010) giới thiệu một trong những định nghĩa được sử dụng rộng rãi. Theo đó, kinh tế ngầm bao gồm các hoạt động kinh tế và thu nhập đến từ các hoạt động hợp pháp nhưng không tuân thủ theo sự điều chỉnh của quy định pháp luật, của các cơ quan nhà nước vì các lý do khác nhau. Các lý do có thể là tránh đóng góp cho an sinh xã hội, tránh các quy định pháp luật về thuế, gánh nặng quy định hoặc do lý do thể chế bao gồm tham nhũng, không minh bạch. Tuy còn nhiều cách giải thích khác nhau về kinh tế ngầm nhưng các nhà nghiên cứu lại thống nhất về các đặc trưng sau về kinh tế ngầm đó là: (i) là khu vực sản xuất hàng hóa và dịch vụ hợp pháp nhưng không chịu sự điều chỉnh của quy định pháp luật và giám sát của các cơ quan nhà nước. Các quy định pháp luật không chỉ bao gồm thuế mà còn các quy định khác như quy định về môi trường, về lao động; (ii) các hoạt động kinh tế không được ghi nhận trong các tài khoản quốc gia; (iii) khu vực có năng suất lao động thấp, thâm dụng lao động (so với khu vực chính thức) hoạt động sản xuất trong một quy mô nhỏ và (iv) rất hạn chế trong việc tiếp cận các nguồn vốn cũng như các ích lợi, an sinh xã hội như bảo hiểm, y tế…. 2.1.3.2 Đo lường kinh tế ngầm Có thể phân chia thành ba phương pháp chính để đo lường kinh tế ngầm bao gồm: (1) phương pháp trực tiếp; (2) phương pháp gián tiếp và (3) phương pháp mô hình. - Phương pháp trực tiếp: Các nghiên cứu thuộc nhóm này sử dụng các phương pháp trực tiếp như khảo sát, phỏng vấn và kiểm toán thuế để đo lường quy mô kinh tế ngầm. Ưu điểm là cung cấp thông tin chi tiết về cấu trúc của kinh tế ngầm, các đặc điểm và động cơ của những cá nhân làm việc trong kinh tế ngầm, cung cấp các bằng chứng về thái độ, nhận thức của người dân về các hoạt động kinh tế ngầm. 7
  11. Nhược điểm chính của phương pháp này là những sai sót thường mắc phải trong quá trình điều tra khảo sát. Kết quả điều tra phụ thuộc rất nhiều vào mức độ sẵn lòng của người trả lời. Một nhược điểm khác liên quan đến việc khảo sát trực tiếp là quá trình thu thập dữ liệu tốn nhiều thời gian và kinh phí. Việc phát triển một bảng hỏi chung để điều tra tất cả các quốc gia gặp rất nhiều khó khăn, thách thức do sự khác biệt về văn hóa cũng như nhận thức của người dân ở mỗi quốc gia về hoạt động kinh tế ngầm là khác nhau. - Phương pháp gián tiếp hay còn gọi là hay còn gọi là phương pháp chỉ báo (indicator approaches). Phương pháp này chủ yếu sử dụng các chỉ số kinh tế vĩ mô và các chỉ số kinh tế khác để “lần theo thu nhập thực sự” đo lường quy mô của kinh tế ngầm. Có năm (05) cách thức chủ yếu mà các nghiên cứu thường sử dụng để gián tiếp đo lường quy mô kinh tế ngầm, đó là: (i) Chênh lệch giữa thống kê tài khoản quốc gia và chi tiêu quốc gia, (ii) Chênh lệch giữa lực lượng lao dộng thực tế và đăng ký, (iii) Phương pháp giao dịch, (iv) Phương pháp cầu tiền, và (v) Phương pháp tiêu thụ điện năng. - Phương pháp mô hình: dựa trên việc sử dụng một mô hình kinh tế lượng để đo lường quy mô của khu vực kinh tế ngầm. Cách tiếp cận này tương đối toàn diện xem xét nhiều yếu tố quyết định và nhiều hiệu ứng thay vì chỉ tập trung vào một khía cạnh cụ thể của kinh tế ngầm. Phương pháp thường được sử dụng là phương pháp là phương pháp MIMIC (Multiple Indicators Mulitiple Causes – Nhiều chỉ số Nhiều nguyên nhân). 2.1.3.3 Tác động của kinh tế ngầm - Tác động tiêu cực: (1) ảnh hưởng đến đầu vào của các yếu tố sản xuất, về mặt vĩ mô là việc lãng phí các nguồn tài nguyên và hủy hoại môi trường; (2) giảm tăng trưởng kinh tế do cơ cấu sản xuất bị bóp méo. Sự phát triển quy mô của kinh tế ngầm dẫn đến nguồn thu từ thuế của chính phủ giảm đáng kể và việc cung cấp hàng hóa công kém hơn; (3) phát ra những tín hiệu sai lệch và khiến các nhà hoạch định ra quyết 8
  12. định không phù hợp và làm cho các chính sách kinh tế vĩ mô kém hiệu quả; (5) quy mô nền kinh tế ngầm lớn có xu hướng năng suất lao động thấp, tích lũy vốn vật chất và vốn con người chậm - Tác động tích cực: (1) ở một khía cạnh nào đó, kinh tế ngầm đáp ứng nhu cầu của môi trường kinh tế đối với các hoạt động sản xuất hàng hóa, dịch vụ quy mô nhỏ, siêu nhỏ đặc biệt ở khu vực đô thị; (2) có tác động tích cực đến chi tiêu của người tiêu dùng, mang lại sự tự do cho người tiêu dùng và sự linh hoạt về giá, tối ưu hóa tiện ích tiêu dùng; (3) vườn ươm của tăng trưởng kinh tế trong tương lai, cung cấp động lực đổi mới, sáng tạo; (4) cung cấp hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong giai đoạn đầu khởi nghiệp, với nền tảng là các doanh nghiệp siêu nhỏ; tinh thần kinh doanh và năng động và việc đào tạo nguồn nhân lực và (5) đóng vai trò hấp thụ các cú sốc kinh tế và chính trị trong hay ngoài nước 2.2 Cơ sở lý thuyết về mối quan hệ giữa chi tiêu công và kinh tế ngầm 2.2.1 Lý thuyết khế ước xã hội (Social contract theory)/ Lý thuyết thể chế (Institutional theory) Allingham & Sandmo (1972) đề xuất mô hình kinh tế cho rằng những người nộp thuế là những con người duy lý (rational actor), do vậy họ sẽ tìm cách tối đa hóa lợi ích thu nhập chịu thuế của họ bằng cách cân nhắc giữa lợi ích và chi phí tuân thủ và không tuân thủ quy định thuế. Như vậy, họ sẽ không tuân thủ khi hình thức xử phạt và xác suất bị bắt là nhỏ hơn so với lợi ích thu được khi không nộp thuế (Williams & Horodnic, 2015, 2017). Không dừng lại ở đó, ý thức tuân thủ các quy định của pháp luật về thuế của người dân luôn bị ảnh hưởng bởi các quyết định và hành động liên quan đến việc chi tiêu công, hiệu quả chi tiêu công của chính phủ (Sipos, 2105; Vythelingum & cộng sự, 2017). Theo Horodnic (2018) người dân nộp thuế để mong nhận lại được các hàng hóa, dịch vụ công có chất lượng được cung cấp bởi các cơ quan nhà nước. Do đó, khi 9
  13. người dân cảm thấy các hàng hóa, dịch vụ công mà chính phủ cung cấp có số lượng và chất lượng không tương xứng với các khoản thuế đã đóng góp, không thỏa mãn các nhu cầu của cộng đồng dân cư, thì những người nộp thuế sẽ thất vọng với chính phủ và có xu hướng trốn thuế, tránh thuế hoặc tham gia vào khu vực phi chính thức và điều này làm cho quy mô kinh tế ngầm ngày càng lớn hơn. Xuất phát từ một nhánh của lý thuyết thể chế (North, 1990), một cách tiếp cận về các tác nhân xã hội được áp dụng để giải thích cho khu vực kinh tế ngầm. Theo đó, sự tham gia vào khu vực phi chính thức là do các thất bại và sự không hoàn hảo của thể chế chính thức. Các thất bại của thể chế chính thức có thể kể đến là sự phân bổ nguồn lực công sai và thiếu hiệu quả; những khoảng trống trong thể chế chính thức (thường là kẻ hở của quy định pháp luật); sự thiếu hiệu lực của quy định; và sự không ổn định, chắc chắn của thể chế chính thức (Williams & Kosta, 2019). Các điều này đều thúc đẩy người dân, doanh nghiệp tham gia kinh tế ngầm. 2.2.2 Lý thuyết Pháp lý (Legalist theory)/ Lý thuyết tân tự do (Neoliberal theory) Lý thuyết này cho rằng quy mô chi tiêu công của chính phủ không ngừng gia tăng là dấu hiệu của một nhà nước “lớn” hơn thị trường. Quy mô chi tiêu công không ngừng gia tăng là do đội ngũ công chức có tính chất quan liêu, gây ra nhiều phiền hà và vì địa vị, quyền lực và họ luôn cố gắng tối đa hóa lợi ích của mình thông qua việc lạm dụng thực thi các chính sách đặc biệt là lạm dụng chi tiêu công (Niskanen, 1979). Do vậy, trong trường hợp này các khoản chi tiêu không có tính chất sinh lợi, phân bổ nguồn lực kém hiệu quả, gây ra hiệu ứng “lấn át” đầu tư tư nhân và cuối cùng là tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế. Lý thuyết này nhấn mạnh việc quy mô nhà nước quá lớn đi kèm với chất lượng thể chế yếu kém (quản trị công kém, tham nhũng cao, gánh nặng quy định pháp luật, thực thi pháp luật không hiệu quả, can thiệp quá nhiều vào thị trường …) duy trì đặc quyền, đặc lợi cho một số 10
  14. ít người, loại bỏ người nghèo ra khỏi nền kinh tế thị trường là nguyên nhân gây ra kinh tế ngầm. Nguồn gốc của kinh tế ngầm theo lý giải của lý thuyết này có nguyên nhân sâu xa từ việc di cư với số lượng lớn từ nông thôn ra thành phố để kiếm sống. Những người nhập cư này không tìm thấy cơ hội việc làm chính thức vì chất lượng thể chế nhà nước quá kém. Do đó, việc tham gia vào khu vực phi chính thức được xem là một quyết định kinh tế hợp lý. Người dân và doanh nghiệp làm việc trong kinh tế ngầm để tránh các chi phí, gánh nặng liên quan đến việc làm ở khu vực chính thức (Becker, 2004; De Soto, 1989, 2001; Williams & Gurtoo, 2012). Từ quan điểm này, kinh tế ngầm không phải là sản phẩm phụ của việc tái cấu trúc tư bản cũng không phải là hậu quả của nền kinh tế kém phát triển mà đúng hơn, đó là kết quả của sự quản lý, điều tiết quá mức của nhà nước. Kinh tế ngầm được xem là một phản ứng của các đại diện lực lượng thị trường tự do với sự can thiệp quá mức của nhà nước (Huang, 2020). Lý thuyết này đã có ảnh hưởng đến các chính sách, chương trình của Ngân hàng Thế giới cho sự phát triển của các nước đang phát triển, kém phát triển. Bởi vì nó ủng hộ việc cắt giảm, bãi bỏ các quy định để trao quyền cho các lực lượng thị trường tự do hoạt động hiệu quả. Tuy nhiên, việc bãi bỏ các quy định có thể dẫn đến việc suy giảm chất lượng công việc, nền kinh tế phát triển không hiệu quả (Perry & cộng sự, 2007). 2.3 Cơ sở lý thuyết về vốn trí tuệ quốc gia và kinh tế ngầm Lý thuyết Hiện đại hóa (Modernization theory) được nghiên cứu sử dụng để giải thích cho mối quan hệ giữ vốn trí tuệ quốc gia và kinh tế ngầm. Lý thuyết này có nguồn gốc từ các mô hình tăng trưởng kinh tế của Bocke (1942), Lewis (1954), Harris & Todaro (1970). Mô hình hai khu vực (dual –sector model) của Bocke (1942) và Lewis (1954) cho rằng có hai khu vực kinh tế song song cùng tồn tại. Đó là khu vực kinh tế nông thôn truyền thống và khu vực kinh tế thành thị công nghiệp. 11
  15. Trong khi đặc trưng của khu vực kinh tế công nghiệp là đầu tư vốn mạnh mẽ, ứng dụng tiến bộ công nghệ và năng suất lao động cao thì đặc trưng cơ bản của khu vực truyền thống là thâm dụng lao động, công nghệ đơn giản, lạc hậu, năng suất lao động thấp. Vì sản xuất nông nghiệp bị hạn chế về diện tích đất sản xuất và có rất nhiều lao động dư thừa và số lượng lao động này sẽ dịch chuyển về khu vực thành thị, Tuy nhiên, Harris & Todaro (1970) cho rằng do khu vực thành thị công nghiệp tập trung phát triển các ngành thâm dụng vốn và khoa học công nghệ nên số lượng người di chuyển từ nông thôn sang thành thị sẽ lớn hơn so với khả năng tạo việc làm của khu vực thành thị. Do đó, những người không thể tìm kiếm việc làm ở khu vực chính thức ở thành thị sẽ tham gia vào kinh tế ngầm. Các nhà kinh tế theo trường phái Lý thuyết Hiện đại hóa cho rằng quy mô của kinh tế ngầm sự ngược chu kỳ phát triển kinh tế. Điều này đã được nhiều nhà nghiên cứu chứng minh. Hơn nữa, trường phái lý thuyết này còn lạc quan cho rằng khu vực phi chính thức sẽ biến mất nếu như nền kinh tế tăng trưởng và quy mô của khu vực chính thức ngày càng được mở rộng. Tuy nhiên, trường phái lý thuyết cũng nhận phải này bị phê bình, đặc biệt ở mối liên hệ giữa kinh tế ngầm và kinh tế phi chính thức. Các nhà nghiên cứu cho rằng kinh tế ngầm sẽ không bao giờ biến mất cho dù nền kinh tế phát triển đến mức độ nào, nó sẽ tồn tại dai dẳng, mạnh mẽ. Thực tế trong những năm gần đây, thế giới đã chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ và phổ biến của kinh tế ngầm đặc biệt là ở các quốc gia đang phát triển. 2.4 Mối quan hệ giữa chi tiêu công, vốn trí tuệ quốc gia và kinh tế ngầm 2.4.1 Tác động của chi tiêu công đến kinh tế ngầm Sau khi lược khảo các nghiên cứu trước, tác giả tạm chia thành ba nhóm như sau: nhóm tác động cùng chiều, nhóm tác động ngược chiều, nhóm tác động hỗn hợp và có điều kiện. 12
  16. - Nhóm tác động cùng chiều: Mối quan hệ cùng chiều giữa chi tiêu công và quy mô kinh tế ngầm đã được nhiều nghiên cứu minh chứng (Berdiev & Saunoris, 2018; Berdiev & cộng sự, 2018; Xu & cộng sự, 2018; Esaku, 2021). Các nghiên cứu này đều dựa trên lý thuyết Pháp lý để nhận xét tác động cùng chiều giữa chi tiêu công và quy mô kinh tế ngầm. Lý thuyết này cho rằng việc chi tiêu công của chính phủ không ngừng gia tăng là dấu hiệu của một nhà nước “lớn” hơn thị trường và nhà nước can thiệp sâu vào nền kinh tế thông qua việc đặt ra các luật lệ, quy định, sẽ gây ra các tác động lấn át đầu tư tư nhân gây tác động tiêu cực đến nền kinh tế (Landau, 1983; Barro, 1990) và điều này khuyến khích người dân tham gia khu vực phi chính thức (Dell’Anno & Schneider, 2003). Một cách giải thích khác cho điều này là nếu chi tiêu của chính phủ không thỏa mãn các nhu cầu của cộng đồng dân cư (ví dụ như: chi tiêu không bừa bãi, không hợp lý, thất thoát trong chi tiêu…) thì những người nộp thuế sẽ thất vọng với chính phủ và tìm kiếm các sự lựa chọn khác như tham gia vào các hoạt động phi chính thức (Alm & cộng sự, 1992; Kanniainen & cộng sự, 2004) để tránh phải nộp thuế vô ích. - Nhóm tác động ngược chiều: Một số nghiên cứu lại tìm thấy tác động ngược chiều giữ chi tiêu công và quy mô kinh tế ngầm (Siddik & cộng sự, 2021; Baklouti & Boujelben, 2019; Huynh & Nguyen, 2019; Farzanegan & cộng sự, 2020). Các nghiên cứu này lập luận chi tiêu của chính phủ có thể làm giảm quy mô của nền kinh tế bóng tối vì ít nhất ba lý do sau đây. Thứ nhất, chi tiêu thực tế của chính phủ định vị lại, phân bổ lại các nguồn lực khan hiếm cho nền kinh tế chính thức, làm giảm nguồn lực trong khu vực phi chính thức. Thứ hai, theo lý thuyết Keynes, chi tiêu của chính phủ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua tổng cầu (Ram, 1986; Kormendi & Meguire, 1986) và tăng số lượng người làm việc trong khu vực chính thức làm giảm quy mô kinh tế ngầm vì những người theo lý thuyết Nhị nguyên coi kinh tế ngầm là phần còn lại hoặc sản phẩm phụ 13
  17. của nền kinh tế chính thức và tăng trưởng kinh tế là biện pháp thu hẹp quy mô kinh tế ngầm (La Porta & Shleifer 2008, 2014; Williams 2008). Thứ ba, chi tiêu của chính phủ có thể cải thiện chất lượng của các dịch vụ công, chất lượng cao của các dịch vụ công làm giảm chi phí giao dịch và tăng lợi ích khi làm việc trong nền kinh tế chính thức (Johnson & cộng sự 1998; Friedman & cộng sự 2000; Dreher & Schneider 2010). Do đó, không khuyến khích người dân làm việc trong kinh tế ngầm. - Nhóm tác động hỗn hợp và có điều kiện Một số nghiên cứu cho thấy sự tác động cùng chiều và ngược chiều của chi tiêu công đến quy mô kinh tế ngầm phụ thuộc vào thời gian hoặc mức độ phát triển của quốc gia đó. Nghiên cứu của Goel và cộng sự (2019) tìm thấy bằng chứng khác biệt về sự tác động của chi tiêu công đến quy mô kinh tế ngầm tại Hoa Kỳ theo thời gian. Kết quả cho thấy trong ngắn hạn, quy mô chi tiêu công tác động cùng chiều đến kinh tế ngầm và ngược lại trong dài hạn. Ở một khía cạnh khác, nghiên cứu của Sahnoun & Abdennadher (2019) tìm thấy sự khác biệt về tác động của chi tiêu chính phủ đối với kinh tế ngầm, theo đó tác động là cùng chiều ở các quốc gia đang phát triển và ngược chiều ở các quốc gia phát triển. Các tác giả lập luận rằng ở các quốc gia đang phát triển việc tăng quy mô chi tiêu công có xu hướng không được kiểm soát chặt chẽ dẫn đến việc chi tiêu không đúng mục đích nên góp phần làm tăng quy mô kinh tế ngầm. Còn ở các quốc gia phát triển, việc chi tiêu của Chính phủ được kiểm soát chặt chẽ, có xu hướng nhằm kiểm soát và chống laị kinh tế ngầm nên có tác động ngược chiều. H1: Chi tiêu công có tác động nghịch chiều đến quy mô kinh tế ngầm 2.4.2 Tác động của các thành phần chi tiêu công đến kinh tế ngầm 2.4.2.1 Tác động của chi tiêu công cho giáo dục đến kinh tế ngầm Tác động của chi tiêu công cho giáo dục tác động đến quy mô kinh tế ngầm thông qua ít nhất bốn lý do sau. 14
  18. - Thứ nhất, chi tiêu công cho giáo dục tác động tích cực với tăng trưởng kinh tế thông qua nâng cao vốn con người và nếu nền kinh tế chính thức phát triển nhanh thì quy mô kinh tế ngầm sẽ nhỏ lại. - Thứ hai, trình độ giáo dục cao hơn có nghĩa tăng khả năng có thu nhập cao hơn, giảm bớt tình trạng bất bình đẳng đặc biệt là trong các nước đang phát triển. Ở khía cạnh khác, một số nghiên cứu cho thấy thu nhập cao hơn lại có mối quan hệ nghịch chiều với việc trốn thuế (tax evasion). - Thứ ba, những người được giáo dục tốt hơn sẽ có nhiều cơ hội để tìm công việc làm trong khu vực chính thức, thoát ra khỏi kinh tế ngầm. - Thứ tư, thông qua giáo dục người dân hình thành nên các giá trị đạo đức về việc nộp thuế và tuân thủ việc nộp thuế. Do vậy, nếu người dân có tinh thần, thái độ chấp hành thuế tốt thì sẽ hạn chế việc tham gia kinh tế ngầm. H2: Chi tiêu công cho giáo dục có tác động ngược chiều đến quy mô kinh tế ngầm 2.4.2.2 Tác động của chi tiêu công cho y tế đến kinh tế ngầm Sức khỏe là một thành phần quan trọng của phúc lợi và mức sống của cá nhân. Cùng với trình độ giáo dục thì sức khỏe là một trong những thành phần chính của vốn nhân lực. Do đó, đã có nhiều nghiên cứu chứng minh chi tiêu cho sức khỏe với lý do nó có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và hạnh phúc của con người. Có nhiều nghiên cứu thực nghiệm chứng minh mối quan hệ nhân quả từ sức khỏe tốt hơn dẫn đến tăng trưởng kinh tế nhanh hơn, giảm nghèo đói. Sức khỏe đóng góp vào tăng trưởng thông qua hai kênh chính là tăng năng suất lao động và đầu tư H3: Chi tiêu công cho y tế có tác động ngược chiều đến quy mô kinh tế ngầm 2.4.2.3 Tác động của chi tiêu công cho an ninh quốc phòng đến quy mô kinh tế ngầm 15
  19. Chi tiêu công cho an ninh quốc phòng là một loại chi tiêu đặc biệt, có có một số khác biệt về bản chất so với các loại chi tiêu khác của chính phủ, bao gồm (1) quá trình mua sắm các trang thiết bị quân sự, an ninh phải tuân theo các thủ tục, quy trình nghiêm ngặt hơn so với các hoạt động mua sắm khác của chính phủ; (2) việc cung cấp, chuyển giao và sử dụng các nguồn khí tài thường có thị trường rất giới hạn và chính phủ nắm độc quyền trong việc mua sắm nên rất dễ dàng kiểm soát các hoạt động mua bán. (3) rất có ít sự linh hoạt trong việc chuyển chi tiêu cho an ninh quốc phòng sang các mục đích sử dụng khác. (4) ở nhiều quốc gia , các hành vi mua bán vũ khí quân sự là trái pháp luật và thường có mức hình phạt cao hơn so với các hành vi vi phạm pháp luật khác. Nghiên cứu cho rằng chi tiêu công cho an ninh quốc phòng là nhân tố chính ảnh hưởng đến kinh tế ngầm vì những lập luận sau. Thứ nhất, chi tiêu cho an ninh quốc phòng có thể thúc đẩy tổng cầu trong nền kinh tế, có thể tăng việc làm trong khu vực chính thức vì ngành công nghiệp an ninh, quốc phòng là ngành thâm dụng lao động và các hoạt động sản xuất này chủ yếu được thực hiện trong nước. Thứ hai, thông qua việc tạo nhiều việc làm, chi tiêu công cho an ninh quốc phòng có thể mở rộng việc tạo thu nhập và giảm bất bình đẳng thu nhập, đặc biêt khi khu vực quân sự, an ninh hấp thụ các lao động phổ thông, đặc biệt là trong thời kỳ cầu lao động yếu. Thứ ba, các nghiên cứu biện luận cho rằng chi tiêu cho an ninh, quốc phòng có thể tác động lan tỏa tích cực đến phát triển kinh tế (positive spillover effect) thông qua các cơ sở hạ tầng quân sự chẳng hạn như đường xá, bến bãi, cơ sở thông tin quân sự, có thể sử dụng cho mục đích dân sự, và chính các hoạt động dịch vụ quân sự cũng giúp ích cho quá trình hiện đại hóa, đồng thời thúc đẩy các ngành công nghiệp khác phát triển H4: Chi tiêu công cho an ninh quốc phòng có tác động ngược chiều đến quy mô kinh tế ngầm. 16
  20. 2.4.3 Vai trò hiệu chỉnh của các ràng buộc ngân sách trong tác động của chi tiêu công, các thành phần chi tiêu công đến kinh tế ngầm Ràng buộc ngân sách được hiểu là một sự thay đổi trong chính sách tài khóa phải được bù đắp bởi một sự thay đổi có tính bù đắp khác (Gemmell & cộng sự, 2012). Các ràng buộc ngân sách thường được đề cập là thâm hụt ngân sách, nợ công. Đã có một số nghiên cứu phân tích ảnh hưởng của từng yếu tố trong ràng buộc ngân sách đến quy mô kinh tế ngầm (Prinz & Beck, 2012; Nantwi & Nantwi, 2021). Tuy nhiên, cho đến này vẫn chưa có nghiên cứu nào tìm hiểu về tác động hiệu chỉnh của các yếu tố trên trong mối quan hệ giữa chi tiêu công, cơ cấu chi tiêu công và quy mô kinh tế ngầm. Tác động của chi tiêu công còn phụ thuộc vào cách thức nó được bù đắp (Gemmell & cộng sự, 2012; Huidrom, & cộng sự, 2020). Thâm hụt ngân sách và nợ công cao sẽ làm cho nền kinh tế dễ bị tổn thương trước các cú sốc kinh tế vĩ mô (Fischer & Easterly, 1990; Burrel & cộng sự, 2020). Quan trọng hơn, thâm hụt ngân sách, nợ công cao sẽ hạn chế tác động của chính sách tài khóa ngược chu kỳ, hiệu quả của việc mở rộng chi tiêu công, giảm khả năng tài trợ vốn cho các dự án đầu tư công trong tương lai. Hơn nữa, việc thâm hụt ngân sách và nợ công cao sẽ tạo nên sự không chắc chắn về việc thực thi các chính sách tài khóa trong tương lai. Điều này gia tăng sự không chắc chắn về thuế, về chi tiêu công, về lạm phát trong tương lai, từ đó, ảnh hưởng đến các động lực tiết kiệm và đầu tư của khu vực tư nhân. Kim (2019), Anzuini và cộng sự (2020) khẳng định rằng chính sách chi tiêu công mở rộng chỉ có hiệu quả khi việc thực thi chính sách đó giảm bớt (hoặc ít nhất không làm tăng) sự không chắc chắn trong tương lai. H5: Nợ công có tác động hiệu chỉnh đến mối quan hệ giữa chi tiêu công và kinh tế ngầm H6: Thâm hụt ngân sách có tác động hiệu chỉnh đến mối quan hệ giữa chi tiêu công và kinh tế ngầm 17
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0