Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Tiểu thuyết lịch sử của Lan Khai
lượt xem 4
download
Mục đích nghiên cứu của Luận án nhằm chỉ ra quan niệm nghệ thuật, vốn văn hóa, cá tính sáng tạo của nhà văn, các nguồn ảnh hưởng, phương thức cách tân, các hình thức kết cấu tác phẩm, các nhân tố tạo nên thành tựu nghệ thuật mới của Lan Khai, từ đó rút ra nhận định về lí luận và sáng tác. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Tiểu thuyết lịch sử của Lan Khai
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI ĐỖ THỊ NHÀN TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ CỦA LAN KHAI Chuyên ngành: LÍ LUẬN VĂN HỌC Mã số: 9.22.01.20 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN Hà Nội - 2020
- Công trình được hoàn thành tại: TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TRẦN MẠNH TIẾN Phản biện 1: PGS.TS. Trần Khánh Thành Trường Đại học KHXH&NV - ĐHQG Hà Nội Phản biện 2: PGS.TS. Nguyễn Bích Thu Viện Văn học Phản biện 3: PGS.TS Phùng Ngọc Kiếm Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp trường Họp tại: Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Vào hồi …..giờ … ngày … tháng… năm 2020 Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện: Thư viện Quốc Gia, Hà Nội hoặc Thư viện Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Công trình được hoàn thành tại:
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài 1.1. Lan Khai là nhà văn nổi tiếng trong trào lưu cách tân văn học giai đoạn nửa đầu thế kỉ XX. Sự nghiệp sáng tác của Lan Khai đa dạng về thể loại. Đương thời trong cuốn Nhà văn hiện đại (1942) nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan đã nhận xét: Lan Khai là “lão tướng trong làng tiểu thuyết đang gắng tìm đường mới”. Nhiều tác phẩm của Lan Khai đã thu hút sự quan tâm của đông đảo giới nghiên cứu trong và ngoài nước. Thời gian gần đây thể loại tiểu thuyết và truyện ngắn đường rừng cùng tên tuổi của Lan Khai đã được giới thiệu trên Tạp chí Quốc tế (ISSN 24103918). Tuy nhiên mảng TTLS của ông vẫn chưa được nghiên cứu đầy đủ và hệ thống, mặc dù tính tới thời điểm hiện tại, ông là nhà văn có số lượng tiểu thuyết lịch sử (TTLS) lớn nhất trong các nhà văn hiện đại Việt Nam (26 tác phẩm) và là cây bút sớm có tinh thần tiên phong đổi mới, có ảnh hưởng lớn tới sáng tác ở các giai đoạn sau. Trước 1945 trào lưu cách tân văn học diễn ra sôi nổi nhưng “trong cái mới vẫn còn rớt lại nhiều cái cũ” (Một thời đại trong thi ca - Hoài Thanh) thì TTLS của Lan Khai với những quan niệm nghệ thuật mới đã làm sôi động thêm không khí phê bình văn học, tạo ra những cuộc tranh luận xung quanh vấn đề lịch sử và hư cấu nghệ thuật, vấn đề sử dụng ngôn ngữ v.v… Với những đổi mới táo bạo, TTLS của Lan Khai đã có tác động mạnh mẽ đến không khí phê bình văn học đương thời và kích thích sự sáng tạo của các nhà văn sáng tác về đề tài lịch sử. Tuy nhiên, do cái chết đầy bí ẩn của ông suốt thời gian dài chưa được công bố nên từ sau 1945 trở đi còn nhiều di cảo của Lan Khai và hàng chục TTLS của ông chưa được tái bản ,nghiên cứu và giới thiệu rộng rãi đến bạn đọc. Cho đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào có tính quy mô, toàn diện và hệ thống về thể tài TTLS của Lan Khai. Vì vậy trong công trình nghiên cứu này, chúng tôi sẽ làm sáng tỏ tính tiên phong trong hành trình cách tân thể loại của một cây bút tiểu thuyết giàu tài năng và tâm huyết nửa đầu thế kỉ XX. Năm 2006, Hội Nhà văn Việt Nam đã tổ chức Lễ Kỷ niệm 100 năm sinh Lan Khai và Hội thảo Khoa học: Lan Khai với văn học Việt Nam hiện đại, Lan Khai được hoàn nguyên, cho thấy di sản văn học của Lan Khai là rất lớn và các TTLS có vị trí quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của ông và nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Điều đó đã đặt ra yêu cầu cấp thiết cần có một công trình nghiên cứu kịp thời, quy mô và hệ thống, toàn diện các tác phẩm của nhà văn ở thể tài TTLS để thấy được những đóng góp của ông trong giai đoạn 1930 - 1945 và tiến trình phát triển của lịch sử văn học dân tộc, đồng thời làm sáng tỏ thêm những vấn đề lí luận về thể loại. 1.2. Những năm gần đây, TTLS của các nhà văn đất Việt đã vươn mình lớn dậy với sự gia tăng không ngừng về số lượng tác phẩm và quy mô phản ánh, hình thành nhiều khuynh hướng đa dạng, phức tạp nên đã xuất hiện nhiều quan niệm nghệ thuật khác nhau trong sáng tác và tiếp nhận. TTLS đã và đang trở thành tâm điểm của thời sự văn học. Trước trào lưu hội nhập quốc tế, ngày càng xuất hiện nhiều công trình ứng dụng lý thuyết hiện đại vào nghiên cứu văn học trong đó có TTLS. Tuy nhiên hệ thống lý thuyết về thể tài 1
- này còn khá khiêm tốn và việc giới thiệu ở trong nước còn phân tán, quan niệm về thể loại chưa thống nhất, sáng tác ngày càng diễn biến phức tạp đã nảy sinh nhiều cuộc tranh luận sôi nổi xung quanh vấn đề lịch sử và hư cấu nghệ thuật. Xuất phát từ thực trạng đó đòi hỏi chúng ta cần tìm hiểu những sáng tác đã được trải nghiệm và cách tiếp cận thích hợp mới đem lại cái nhìn sáng rõ hơn về sự hình thành phát triển của một thể tài văn học mang tính đặc thù trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Do vậy, chúng tôi chủ trương đi sâu nghiên cứu đề tài này nhằm làm sáng tỏ những điểm mới mẻ, độc đáo trong TTLS của Lan Khai trên phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật. Qua những thành quả nghiên cứu chúng tôi sẽ làm rõ thêm một số vấn đề lí thuyết về quan niệm sáng tác và thể loại nhằm góp thêm hướng tiếp cận toàn diện và hệ thống TTLS hiện nay. 1.3. Công trình nghiên cứu của chúng tôi còn có ý nghĩa thiết thực trong việc giảng dạy tích hợp môn Ngữ văn và Lịch sử trong Nhà trường. Kết quả nghiên cứu của công trình sẽ cung cấp thêm ánh sáng lý luận và các giá trị thực tiễn đáp ứng nhu cầu mở rộng nhận thức của học sinh trong nhà trường phổ thông. Nghiên cứu TTLS của Lan Khai góp phần làm cho bức tranh văn học sử Việt Nam toàn diện hơn, giúp học sinh nhận thức lịch sử sâu sắc hơn, khơi dậy những cảm xúc thẩm mĩ ở học sinh về truyền thống vẻ vang của dân tộc. Xuất phát từ nhu cầu cấp thiết trong nghiên cứu và học tập hiện nay cũng như góp phần tổng kết các thành tựu tiêu biểu của văn học Việt Nam thế kỷ XX, chúng tôi chọn đề tài Tiểu thuyết lịch sử của Lan Khai nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lí luận và thực tiễn sáng tác cũng như những đóng góp của Lan Khai trong hành trình đổi mới thể loại và hiện đại hóa nền văn học nước nhà giai đoạn nửa đầu thế kỉ XX. 2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 2.1. Đối tượng nghiên cứu Để thực hiện đề tài này, chúng tôi tập trung khảo sát 20 TTLS tiêu biểu của Lan Khai đã xuất bản và tái bản từ trước năm 1945 đến nay, bao gồm: Gái thời loạn, Chiếc ngai vàng, Cái hột mận, Chàng áo xanh, Ai lên phố Cát, Chế Bồng Nga, Bóng cờ trắng trong sương mù, Cánh buồm thoát tục, Đỉnh non Thần, Người thù mặt trời, Gửi cái xuân tàn, Treo bức chiến bào, Tình ngoài muôn dặm, Trăng nước Hồ Tây, Trong cơn binh lửa, Thành bại với anh hùng, Rỡn sóng Bạch Đằng, Ái tình và sự nghiệp, Chàng đi theo nước, Chàng kỵ sỹ... ở cả hai bình diện nội dung và hình thức. Trên cơ sở đó, chúng tôi đưa ra những kiến giải về sự vận động của thể tài TTLS của Lan Khai trong quá trình sáng tác của ông và trong sự vận động của nền văn học hiện đại Việt Nam. 2.2. Phạm vi nghiên cứu Công trình của chúng tôi tập trung đi sâu khảo sát 20 TTLS của Lan Khai như đã trình bày ở mục Đối tượng nghiên cứu, khi cần thiết có sự đối sánh với một số TTLS tiêu biểu của các tác giả cùng thời. Đồng thời chúng tôi cũng quan tâm đến một số truyện ngắn, kí về thể tài lịch sử của ông như: Sóng nước lô Giang, Mũi tên 2
- dẹp loạn, 8023; kết hợp liên hệ với một số TTLS Việt Nam tiêu biểu và TTLS nước ngoài để nhìn nhận vấn đề nghiên cứu toàn diện hơn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu: Công trình nghiên cứu của chúng tôi nhằm làm sáng tỏ ý thức nghệ thuật và thành quả đổi mới trong TTLS, những đóng góp quan trọng của Lan Khai đối với sự phát triển của TTLS Việt Nam hiện đại trong trào lưu cách tân văn học 1930 - 1945. Dựa trên lí thuyết về thể loại và thực tiễn sáng tác, chúng tôi chỉ ra quan niệm nghệ thuật, vốn văn hóa, cá tính sáng tạo của nhà văn, các nguồn ảnh hưởng, phương thức cách tân, các hình thức kết cấu tác phẩm, các nhân tố tạo nên thành tựu nghệ thuật mới của Lan Khai, từ đó rút ra nhận định về lí luận và sáng tác. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Công trình nghiên cứu của chúng tôi nhằm làm sáng tỏ những bình diện cơ bản sau: Khái quát một số công trình nghiên cứu tiêu biểu về TTLS trên thế giới và ở Việt Nam để liên hệ tới những sáng tác của Lan Khai. Tổng hợp lại những kết quả nghiên cứu tiêu biểu về nhà văn Lan Khai và TTLS của ông. Trên cơ sở đó, luận án của chúng tôi khảo sát quan niệm nghệ thuật và quá trình sáng tác TTLS của Lan Khai trong nền văn học Việt Nam thời kì đầu thế kỉ XX. Từ cơ sở lí luận, chúng tôi đi sâu phân tích, lý giải một số đặc trưng TTLS của Lan Khai ở các bình diện cảm hứng sáng tác, các sự kiện lịch sử và thế giới nhân vật để làm nổi rõ quan niệm nghệ thuật của nhà văn và những nhân tố chi phối những tác phẩm của ông. Khảo sát và chỉ ra một số phương thức và phương tiện biểu hiện nghệ thuật trong TTLS của Lan Khai ở các bình diện như: nghệ thuật hư cấu, tổ chức kết cấu, việc lựa chọn cốt truyện và sự kiện; kiến tạo chân dung nhân vật, vấn đề không gian và thời gian, nghệ thuật trần thuật; ngôn ngữ và giọng điệu trong TTLS của nhà văn. Trên cơ sở đó, chúng tôi chỉ ra những thành quả đổi mới về thể loại và những đóng góp của Lan Khai cho sự phát triển rực rỡ của TTLS Việt Nam đương đại cũng như những thành công và những hạn chế trong TTLS của ông. 4. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý thuyết Trong điều kiện tồn tại nhiều hệ hình lý thuyết văn học đa dạng và phong phú hiện nay, chúng tôi chủ trương lấy học thuyết duy vật lịch sử và duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác Lê nin làm nền tảng, đồng thời kết hợp với những tri thức của lí thuyết phương Tây hiện đại để làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật trong TTLS của Lan Khai. Trong đó, chúng tôi chú ý tới đặc trưng của thể tài TTLS, ý thức cách tân nghệ thuật của nhà văn, kết cấu cốt truyện, nhân vật, ngôn ngữ, tính chất giao thoa thể loại, vấn đề không gian, thời gian v.v... Đồng thời chúng tôi cũng liên hệ với những vấn đề lí luận của các trường phái văn học phương Tây như Trường phái văn hóa lịch sử, Phân tâm học, Chủ nghĩa siêu thực, Lí thuyết tự sự học, kí hiệu học... đã ảnh hưởng ít nhiều tới sáng tác của nhà văn, cho thấy sự kế thừa và sáng tạo, đổi mới cách nhìn lịch 3
- sử của tác giả trong sự vận động của thể loại; những đột phá của Lan Khai trong việc lựa chọn đề tài, chủ đề, khắc họa nhân vật v.v… tạo dấu ấn riêng vừa mang tính dân tộc vừa mang tính hiện đại. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài Tiểu thuyết lịch sử của Lan Khai, chúng tôi chủ trương phối hợp đồng thời các phương pháp nghiên cứu sau: 4.2.1. Phương pháp duy vật lịch sử và duy vật biện chứng: Chúng tôi sẽ đặt các TTLS của Lan Khai vào hoàn cảnh sáng tác cụ thể trong giai đoạn 1930 - 1945 để khảo sát, đồng thời có liên hệ tới các giai đoạn trước và sau đó nhằm lí giải những nguyên nhân và kết quả sáng tạo của ông. Đây là phương pháp nghiên cứu chủ đạo nhằm khảo sát toàn diện cả về nội dung và hình thức nghệ thuật trong TTLS của Lan Khai. 4.2.2. Phương pháp hệ thống: Chúng tôi sẽ tập hợp các TTLS của Lan Khai thành hệ thống và khảo sát để thấy được quan niệm nghệ thuật, sở trường khám phá lịch sử và những sáng tạo riêng, thể hiện tính tiên phong về nghệ thuật tiểu thuyết của ông. 4.2.3. Phương pháp so sánh: Trong quá trình khảo sát, khi cần thiết chúng tôi có liên hệ, đối chiếu TTLS của Lan Khai với một số TTLS tiêu biểu thời kì trung đại và của các nhà văn cùng thời, với TTLS đương đại và nước ngoài để thấy rõ những điểm mới, những sáng tạo độc đáo của nhà văn ở thể loại này. 4.2.4. Phương pháp phân loại: Chúng tôi sẽ phân loại các kiểu dạng nhân vật, sự kiện, kết cấu tác phẩm cho thấy các góc nhìn khác nhau về lịch sử trong tác phẩm của ông. 4.2.5. Phương pháp liên ngành: Chúng tôi tiến hành phân tích mối tương đồng và khác biệt giữa lịch sử với văn học trong một nền văn hóa nhằm chỉ ra tính đặc thù thẩm mĩ của văn chương và hiện thực trong quá khứ. 4.2.6. Phương pháp loại hình: Chúng tôi chủ trương đặt các tiểu thuyết lịch sử của Lan Khai trong cùng hệ thống nhằm xác định những đặc trưng về kiểu dạng về kết cấu và nhân vật với cái nhìn bao quát trên các phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật. Ngoài những phương pháp trên, luận án của chúng tôi còn sử dụng linh hoạt một số phương pháp tiếp cận khác như: Văn hóa học, Nữ quyền luận, Chủ nghĩa tân lịch sử, Lí thuyết liên văn bản để hoàn thiện mục tiêu nghiên cứu. Đồng thời chúng tôi sẽ chú trọng sử dụng các thao tác phân tích tác phẩm để đi sâu khám phá tư tưởng và bút pháp nghệ thuật của nhà văn, vừa soi sáng lí thuyết thể loại vừa khẳng định tinh thần đổi mới mạnh mẽ của Lan Khai ở thể tài này. 5. Đóng góp mới của luận án Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên có tính quy mô và hệ thống về TTLS của Lan Khai trên các phương diện quan niệm sáng tác, cảm hứng, sự kiện, nhân vật. Đồng thời làm sáng tỏ những đổi mới trong sáng tạo mang tính đột phá của ông về các phương thức và biện pháp nghệ thuật mới, về tạo dựng cốt truyện, miêu tả nhân vật, sử dụng ngôn ngữ và kết cấu thời gian, không gian nghệ thuật. Chúng tôi chỉ ra con đường sáng tạo riêng của Lan Khai, những dấu ấn độc đáo và những 4
- cống hiến của ông trong công cuộc cách tân văn học giai đoạn 1930 - 1945 ở thể tài này. Luận án đã làm nổi bật tư tưởng mới mẻ và các phương thức sáng tạo nghệ thuật mới của Lan Khai đã vượt thoát lối mòn truyền thống, tạo nên những phẩm chất mới cho nền văn học dân tộc và có ảnh hưởng nhất định tới TTLS Việt Nam đương đại. Từ đó, làm rõ hơn các vấn đề lý thuyết từ cách tiếp cận, lựa chọn sự kiện lịch sử; vấn đề hư cấu khi phản ánh lịch sử; quan niệm về nhân vật lịch sử trong thời đại mới cũng như những đổi mới về thi pháp nghệ thuật trong tác phẩm của Lan Khai. 6. Cấu trúc luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Phụ lục nội dung của luận án bao gồm 4 chương như sau: Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu Chương 2. Từ quan niệm nghệ thuật đến quá trình sáng tác trong tiểu thuyết lịch sử của Lan Khai Chương 3. Từ hiện thực lịch sử đến bức tranh nghệ thuật trong tiểu thuyết lịch sử của Lan Khai Chương 4. Các phương thức và biện pháp biểu hiện nghệ thuật trong tiểu thuyết lịch sử của Lan Khai Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Lược sử nghiên cứu về tiểu thuyết lịch sử 1.1.1. Khái niệm về tiểu thuyết lịch sử TTLS viết về các sự kiện và nhân vật trong quá khứ lịch sử đã một đi không trở lại nhưng không đồng nhất với cách viết của nhà sử học. Nếu các sử gia mô tả lịch sử với cái nhìn lạnh lùng, khách quan bằng ngòi bút biên niên sử thì nhà TTLS còn gửi gắm cái nhìn chủ quan và cảm xúc của mình trước những biến cố và nhân vật lịch sử đã qua để lịch sử được “thêm da thêm thịt” mà vẫn đảm bảo được tính chân thực bởi sự uyển chuyển của nghệ thuật. Tiểu thuyết lịch sử thu hút được sự quan tâm đặc biệt của các nhà nghiên cứu. Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học (1992) của nhóm tác giả Trần Đình Sử, Lê Bá Hán, Nguyễn Khắc Phi nhấn mạnh tính chân thực của TTLS nhưng cũng thừa nhận hư cấu là một đặc tính tất yếu của tiểu thuyết. Trong cuốn 150 thuật ngữ văn học (1999) của tác giả Lại Nguyên Ân cũng thừa nhận hư cấu là yếu tố tiên quyết của hoạt động sáng tạo nhưng vẫn nhấn mạnh nội dung trọng tâm là phản ánh các sự kiện, biến cố trọng đại hoặc các nhân vật có ảnh hưởng lớn tới sự phát triển của lịch sử. Các nhà TTLS cũng đưa ra những cách giải thích khác nhau về TTLS. Trong bài viết Nhà văn Hoàng Quốc Hải: Tiểu thuyết lịch sử là sự giải mã lịch sử (2017) có nêu ý kiến của nhà văn Hoàng Quốc Hải coi hư cấu là một đặc trưng nổi bật của thể tài TTLS nhưng phải trong chừng mực nhất định, không được xuyên tạc lịch sử. Trong cách luận giải này, tác giả vẫn đặt ra yêu cầu đối với người viết là phải tôn trọng tính chân thực của lịch sử. 5
- Trong bài viết Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại, một số xu hướng chủ yếu (2018), tác giả Nguyễn Văn Dân đã trích dẫn ý kiến của nhà tiểu thuyết lịch sử Thái Vũ khi khẳng định phản ánh trung thực lịch sử là nguyên tắc sáng tác và mục tiêu cần hướng tới của người cầm bút. Còn nhà văn Nguyễn Xuân Khánh trong bài viết Vài suy nghĩ về tiểu thuyết lịch sử (2012) lại đặc biệt coi tính hư cấu là một “đặc quyền” của nhà TTLS. Nhà văn trở thành người tự do sáng tác không bị lệ thuộc vào sự độc quyền của tư duy lịch sử. Các quan niệm về TTLS của các nhà nghiên cứu và nhà văn rất phong phú nhưng chưa thống nhất. Dựa trên thực tiến nghiên cứu, chúng tôi xin đưa ra cách hiểu như sau: Tiểu thuyết lịch sử là những tác phẩm có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa những đặc trưng cơ bản của tiểu thuyết với những tài liệu của sử học trên cơ sở lấy lịch sử làm đề tài và tôn trọng sự kiện, nhân vật lịch sử. Qua việc mượn chuyện xưa để nói chuyện nay, tiểu thuyết lịch sử đưa ra những kiến giải sâu sắc về lịch sử, về cuộc sống nhân sinh theo cách hiểu của con người đương đại. Trong tiểu thuyết lịch sử, hư cấu nhằm làm rõ nhân vật, sự kiện, hoàn cảnh lịch sử và làm tăng tính chân thực nghệ thuật trong tiểu thuyết. 1.1.2. Một số công trình nghiên cứu về tiểu thuyết lịch sử trên thế giới Về lý luận phê bình trên thế giới từ trước cho đến nay mới có công trình Tiểu thuyết lịch sử (1937) của G. Lukacs (Hungari) nghiên cứu chuyên sâu về TTLS thể hiện tầm bao quát sâu rộng về lịch sử phát triển và những đặc trưng cơ bản của thể loại này. Tiếp đó, trong cuốn Nghệ thuật tiểu thuyết (1999), G. Lukacs phát triển thêm: “Không chỉ tiểu thuyết nói chung, mà tiểu thuyết lịch sử phải đạt tới chiều sâu của triết lí lịch sử”. Nhà lí luận Nga G. Lenobl trong công trình Lịch sử và văn học (1960) coi tính chân thực, xác thực của sự kiện và nhân vật phù hợp với sách sử là tiêu chí căn bản trong nguyên tắc sáng tác của TTLS. Tuy nhiên quan niệm này của ông còn “cứng nhắc” bởi trong thực tế sáng tác luôn có sự mở rộng và xê dịch tiêu chí đó, nếu không, tác phẩm khó tránh khỏi sự phỏng chép lịch sử một cách khiên cưỡng, vụng về thiếu đi tính uyển chuyển của nghệ thuật văn chương. Hai tác giả Drothy Brewster và John Angus Burrell trong cuốn sách Tiểu thuyết hiện đại (1971) cũng cho rằng TTLS vừa là kết quả sáng tạo của nhà văn vừa là tư liệu khai sáng quá khứ. Hayden White, một trong những nhà lí luận của chủ nghĩa Tân duy sử bàn về “siêu lịch sử” (metahistory) đã thể hiện cảm quan hậu hiện đại khá rõ nét. Từ luận điểm nền tảng đó ông triển khai toàn bộ tư tưởng của mình là: “Lịch sử như là tự sự. Quan niệm mới của Hayden White về lịch sử tạo ra trào lưu đối thoại lịch sử, tìm lại lịch sử và thúc đẩy sự phát triển của thể loại TTLS. Trong tác phẩm Triết học và mỹ học phương Tây hiện nay (1992, Nxb Văn hóa, Hà Nội) có trích nêu quan điểm của Michel Foucault: “Lịch sử là một sự đứt đoạn”. Do vậy sẽ không có một trần thuật liền mạch mà chúng ta giải mã trong dòng chảy lịch sử. Đây là đóng góp quan trọng của Michel Foucault thúc đẩy tinh thần khám phá lịch sử, khai thác và kết nối những chỗ “đứt gãy” của lịch sử, thúc đẩy sự phát triển của thể loại TTLS. Tác giả M. Kundera trong công trình Nghệ thuật tiểu thuyết (1998) đã chỉ ra sự khác biệt hết sức tinh tế giữa nhà TTLS và nhà sử học: “Nhà sử học kể lại các sự kiện đã xảy ra, còn nhà tiểu thuyết nắm bắt một khả năng của cuộc sống, khả năng của 6
- con người và thế giới. Nhà TTLS ghi nhận những kinh nghiệm nhân loại mà sử gia không quan tâm hoặc không thấy giá trị”. Chính trị gia kiêm nhà văn của nước Anh là George Otto Trevelyan (1838- 1928) trong cuốn Lịch sử xã hội Anh (1922) đã phát biểu: “Lịch sử không có giá trị khoa học thực sự, mục đích duy nhất của lịch sử là giáo dục con người”. Các quan niệm đó cho thấy lịch sử và tiểu thuyết có nhiều điểm giao thoa. Cả hai đều tồn tại như là truyện kể, đều không tránh khỏi việc dùng tưởng tượng để tái hiện quá khứ và bù đắp vào chỗ đứt gẫy, chỗ trống vắng của các sự thật được ghi chép. Nhà văn vĩ đại của Pháp là Alexandre Dumas (cha) coi lịch sử giống như một cái đinh để mọi người có thể tự do treo bức tranh của mình vào đó. Trái lại, trong bài viết Bàn về tiểu thuyết lịch sử (2012) trên Tạp chí Văn hóa Nghệ An đã trích dẫn ý kiến của nhà văn Nga A. Tônxtôi: “TTLS phải chính xác như một nghiên cứu lịch sử”. Nhà TTLS nổi tiếng Hella S. Haasse (Hà Lan) nhấn mạnh vai trò của hư cấu sáng tạo đối với người sáng tác khi đứng trước sự phức tạp của sử liệu. Trong tiểu luận Sự chấm dứt của lịch sử (1989), Fredric Fukuyama tuyên bố: “Lịch sử đã cáo chung”. Nhưng với sự ra đời của các trường phái lí thuyết như hậu thực dân, nữ quyền luận và nhiều hệ hình lý thuyết hiện đại khác thì lịch sử đang được nhìn nhận một cách cởi mở hơn. Tuy nhiên lịch sử không phải đã cáo chung mà được đặt ở nhiều góc nhìn, nhiều hướng đối thoại và bổ sung nhau. Thậm chí khi Lí thuyết Hậu thực dân ra đời thì một số nước trên thế giới đã phải thay đổi quan niệm hoặc viết lại lịch sử. Khi tồn tại nhiều cách nhìn khác nhau về lịch sử sẽ mở ra triển vọng phát triển mạnh mẽ các tiềm năng sáng tạo của nhà TTLS. 1.1.3. Các bài viết và công trình nghiên cứu tiểu thuyết lịch sử ở Việt Nam Trong công trình Nhà văn hiện đại (1942), tác giả Vũ Ngọc Phan đã có cái nhìn mới về tiểu thuyết lịch sử nhưng không đồng tình với việc sử dụng ngôn ngữ nhân vật chưa hợp thời đại của ông. Sau 1954, ở miền Bắc, trong công trình nghiên cứu Lịch sử văn học Việt Nam tập III của nhóm Lê Quý Đôn có giới thiệu một phần về Nguyễn Tử Siêu với tư cách là một nhà văn viết TTLS. Còn ở Nam Bộ có cuốn Văn học thời thuộc Pháp của Lê Văn Siêu và cuốn Văn học Việt Nam giản ước tân biên của Phạm Thế Ngũ đề cập đến TTLS giai đoạn 1900-1945 nhưng mới chỉ dừng ở mức độ giới thiệu sơ lược. Trong cuốn Nguyễn Huy Tưởng (1966) của các tác giả Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức tán thành quan điểm coi lịch sử là phương tiện chứ không phải là cứu cánh và đánh giá cao sự sáng tạo của nhà văn. Quan điểm này phù hợp với cách xử lí chất liệu lịch sử của nhiều nhà TTLS đương đại. Công trình Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại (2 tập) (1974) của Phan Cự Đệ đã vận dụng phương pháp phê bình Mác - xít phân tích và nhận định những thành công và hạn chế của tiểu thuyết Việt Nam qua các thời kì trước 1930, 1930-1945, 1945-1975. Đặc biệt, trong công trình này, ông còn phân loại số kiểu tiểu Việt Nam hiện đại: tiểu thuyết luận đề, tiểu thuyết lịch sử, tiểu thuyết phiêu lưu, tiểu thuyết tâm lý…và nêu bật những vấn đề thời sự được phản ánh trong TTLS. 7
- Trong công trình Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900 - 1930 (1983) của Trần Đình Hượu, Lê Chí Dũng đã đề cập đến hai TTLS giai đoạn này là Ngọn cờ vàng của Đinh Gia Thuyết và Hai Bà đánh giặc của Nguyễn Tử Siêu với những nhận xét tinh tế, sắc sảo về hai tác phẩm trên và về TTLS. Năm 1988, khi bộ ba truyện lịch sử Vàng lửa - Phẩm tiết - Kiếm sắc của Nguyễn Huy Thiệp đăng trên báo Văn nghệ số ra ngày 26/5 và ngày 16/7/1988 đã kích ứng không khí phê bình văn học và dẫn tới sự tranh luận sôi nổi về truyện lịch sử và TTLS Tác giả Bùi Văn Lợi trong Luận án Tiến sĩ Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ những năm đầu thế kỷ XX đến năm 1945, (Diện mạo và đặc điểm) (1998) cũng đã khái quát: “Ở TTLS, nhà văn có quyền hư cấu, do đặc trưng mang tính chất thể loại của TTLS quy định. Ở tiểu thuyết, nhà văn thường hư hóa cái thực, thực hóa cái hư. Nó khêu gợi trí tưởng tượng và tăng cường tính mĩ cảm văn học”. Tác giả Trần Vũ trong Tiểu luận Lịch sử trong tiểu thuyết, một tùy tiện ý thức (2003) đã nêu bật được cách phán ánh lịch sử táo bạo, thoát khỏi tư duy “nệ sử” và gợi mở những hướng tiếp cận mới với cả người sáng tác và người thưởng thức văn học. Trong công trình Bão táp triều Trần, tác phẩm và dư luận (2006) do Nhà xuất bản Phụ nữ ấn hành đã tập hợp nhiều bài viết của các nhà văn, nhà nghiên cứu và các sử gia đã khẳng định phong cách độc đáo của nhà văn Hoàng Quốc Hải cũng như sự thành công của bộ TTLS này trong việc tôn trọng tính khách quan, tái hiện chân thực nhân vật, sự kiện lịch sử để từ chân lí lịch sử thăng hoa thành sự thực nghệ thuật. Tác giả Vương Trí Nhàn có bài viết Đề tài lịch sử cảm hứng sáng tạo trên Báo Văn Nghệ (số 16, ngày 21 tháng 4 năm 2007) cũng nhấn mạnh quyền tự do tưởng tượng sáng tạo của nhà văn khi phản ánh lịch sử. Tiếp đó, trong bài viết Xin đừng nhầm lẫn giữa tiểu thuyết và lịch sử trên báo Văn nghệ (số 45, 8/1/2008) gửi nhà văn Cao Duy Thảo, tác giả Đình Kính cho rằng lịch sử là yếu tố cốt lõi của TTLS nhưng không thể đồng nhất tính chân thực nghệ thuật với lịch sử của sử học. Tác giả Nguyễn Văn Dân, trong bài viết Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại một số xu hướng chủ yếu (2006) vừa khẳng định tính trung thực lịch sử của TTLS, mặt khác ông cho rằng phải thừa nhận “sự pha trộn giữa sự thật và tính hư cấu khi tái hiện nhân vật lịch sử”, rút ngắn khoảng cách sử thi. Trên báo Văn hóa Nghệ An ngày 17/3/2012, tác giả Ngô Thời Tân có bài viết “Tứ đại kì thư” của tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc: tên gọi - văn bản - tác giả đã lược thuật về thành tựu to lớn của bốn tiểu thuyết cổ điển Trung Hoa (Tam quốc diễn nghĩa, Thủy Hử, Tây Du Ký, Kim Bình Mai) và mối quan hệ giữa lịch sử và văn học. Công trình này gợi cho chúng tôi nhiều ý kiến quý báu trong việc tiếp cận, nghiên cứu TTLS trong nền văn hóa dân tộc. Trong công trình Lịch sử và văn hóa, cái nhìn nghệ thuật Nguyễn Xuân Khánh (2012) của Viện văn học và Nhà xuất bản Phụ nữ ấn hành đã thể hiện cái nhìn khách quan hơn về thành công cũng như hạn chế của TTLS Nguyễn Xuân Khánh và TTLS Việt Nam đương đại nói chung. Tác giả Nguyễn Đăng Điệp trong 8
- Tiểu luận Đề dẫn Hội thảo cũng thừa nhận tính phức tạp, phong phú, đa dạng của TTLS với tư cách là một thể loại văn học. Luận án Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ 1945 đến nay của Nguyễn Thị Tuyết Minh đã nhận diện bao quát tình hình vận động, phát triển và đặc điểm của TTLS từ 1945 đến nay. Gần đây trên Tạp chí Lý luận phê bình văn học, nghệ thuật, số 4/2018, trang 12 có bài viết nhan đề Về một cách nhìn lịch sử trong tiểu thuyết đương đại của tác giả Trần Mai Hạnh cũng chỉ rõ TTLS sử dù là tác phẩm nghệ thuật nhưng không thể thoát li sự thực lịch sử mới có giá trị thuyết phục người đọc. Trong những năm gần đây nhiều luận văn, luận án, tiểu luận nghiên cứu tại các trường Đại học, các cơ sở nghiên cứu cũng góp phần đa dạng hóa bức tranh tiếp nhận, đánh giá TTLS. Tại Hội thảo Đổi mới tư duy tiểu thuyết lần 2 của Hội Nhà văn tại Hà Nội ngày 28 tháng 2 năm 2018 đã ghi nhận những ý kiến xác đáng, sắc sảo của các nhà văn, nhà nghiên cứu về TTLS, tiêu biểu là ý kiến của nhà văn, nhà báo Trần Mai Hạnh. Thành công của buổi Hội thảo cho thấy thể tài này đang được quan tâm nghiên cứu một cách thích đáng, phần nào đã đáp ứng được với thực tiễn sáng tác vô cùng phong phú của nó. Với sự đa dạng của các hướng tiếp cận, tình hình nghiên cứu TTLS cũng có nhiều thay đổi và hầu như các nhà nghiên cứu đều thừa nhận hư cấu là thuộc tính tất yếu của thể loại này, nhưng phải dựa trên nền lịch sử. Các bài viết và các công trình nghiên cứu trên đã góp thêm những ý kiến quan trọng trong việc xác lập tính liên tục của quá trình nghiên cứu TTLS ở nước ta. 1.2. Sự khác nhau giữa TTLS thời kì trung đại và thời kì hiện đại Sự khác nhau của TTLS trung đại và hiện đại trên những phương diện nội dung và hình thức cho thấy quá trình chuyển biến của TTLS Việt Nam từ tiểu thuyết truyền thống (chương hồi) sang tiểu thuyết hiện đại ở các bình diện cơ bản như: Về văn tự, Về đề tài, Về kết cấu, Về nghệ thuật trần thuật, Về ngôn ngữ. Đây là giai đoạn văn học có tính bản lề và cũng là giai đoạn văn học thể hiện sự đổi mới mạnh mẽ của các nhà TTLS góp phần vào công cuộc hiện đại hóa nền văn học 1.3. Tình hình nghiên cứu về Lan Khai và tiểu thuyết lịch sử của ông 1.3.1. Về nhà văn Lan Khai Trước 1945 đã có nhiều công trình nghiên cứu về Lan Khai và sự nghiệp sáng tác của ông của các tác gia tiêu biểu như Trương Tửu, Hải Triều, Trần Huy Liệu, Vũ Ngọc Phan, Phạm Mạnh Phan... Hầu hết các tác giả đương thời đều đánh giá cao về tài năng sáng tạo và sức viết dồi dào của Lan Khai, tiêu biểu là nhận định của tác giả Trương Tửu, Vũ Ngọc Phan về sở trường của Lan Khai ở đề tài lịch sử. Từ sau 1945 đến 1965 tên tuổi Lan Khai trên văn đàn hầu như vắng bóng. Từ 1965 - 1985 trên một số cuốn sách ở miền Bắc như: Mấy vấn đề văn học hiện thực phê phán của Nguyễn Đức Đàn, Lược truyện về các nhà văn hiện đại (Tập 2, 1972, Trần Văn Giáp chủ biên) đã đưa một số thông tin sai lệch về ông. 9
- Cuốn hồi kí nhan đề Truyện lầm than của chúng tôi (1989) của bà quả phụ Hà Minh Kim đã ghi lại khái quát cuộc đời hoạt động cách mạng và văn học của Lan Khai gắn với những chuyển động của lịch sử dân tộc (từ 1926 đến 1945). Tác giả Gia Dũng trong bài viết Đôi điều về nhà văn Lan Khai (Báo Văn nghệ cuối tuần tháng 8/1990) đã cung cấp thêm một số chi tiết quan trọng, mới mẻ về cuộc đời và sự nghiệp của Lan Khai qua tìm hiểu những người thân của nhà văn Lan Khai thời tiền chiến. Cùng thời gian trên trong bài viết Hành hương về thủ đô kháng chiến (1990) của nhà văn Hoàng Minh Tường đã tái hiện cuộc đời và sự nghiệp của Lan Khai cũng như về tài năng và nhân cách của ông. Công trình Đốt lò hương cũ (1992) (Nxb Khánh Hòa) của Ngọc Giao, một người bạn văn bút của Lan Khai có bài: Lan Khai với chuyện lạ đường rừng và Chơi sách (1996) đã đề cao tài năng sáng tạo và phẩm chất nghệ sĩ của Lan Khai cũng như cái chết oan khuất của ông. Trong công trình Văn thi sĩ tiền chiến, Nxb Hà Nội, tái bản 1994 của Nguyễn Vĩ với hai bài viết Lan Khai và Cái hột mận của Lan Khai đã đăng tải nhiều thông tin về đời tư và cá tính sáng tác của Lan Khai. Tác giả thể hiện sự hiểu biết sâu sắc về con người, sự nghiệp của Lan Khai và khẳng định viết TTLS là sở trường sáng tạo nghệ thuật của ông. Trong từ điển Tác gia văn hóa Việt Nam và Từ điển nhân vật lịch sử (1996, Nhiều tác giả) đã cung cấp các tư liệu về cuộc đời và sự nghiệp văn học của Lan Khai, đồng thời đề cập tới một số TTLS của ông nhưng còn sơ lược. Đặc biệt, từ năm 2000 trở đi các công trình nghiên cứu công phu về nhà văn Lan Khai của tác giả Trần Mạnh Tiến như: Lan Khai - Tác phẩm nghiên cứu, lý luận và phê bình văn học (2002), Lan Khai - Truyện đường rừng (2004) viết chung với Nguyễn Thanh Trường; Lan Khai nhà văn hiện thực xuất sắc (2006); Lan Khai tuyển tập (2 tập, 2010) v.v... đã sưu tầm, tổng kết những thành tựu nghệ thuật trong sự nghiệp sáng tác của Lan Khai. Đây là nguồn tư liệu khoa học giúp chúng tôi nghiên cứu toàn diện và hệ thống sự nghiệp sáng tác đặc biệt là TTLS của Lan Khai. Trong những năm gần đây đã có nhiều luận văn Cao học ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam nghiên cứu về sáng tác của Lan Khai đều đề cập đến thân thế và sự nghiệp của ông với thái độ đề cao và trân trọng những tài năng và cống hiến của ông cho nền văn học Việt Nam hiện đại nhưng chưa hệ thống. 1.3.2. Về tiểu thuyết lịch sử của Lan Khai 1.3.2.1. Trước năm 1945 Các học giả nổi tiếng đương thời như Trương Tửu, Trương Chính, Vũ Ngọc Phan quan tâm và đánh giá cao TTLS của Lan Khai. Các nhà nghiên cứu chú ý nhiều hơn đến những nhân tố đột phá của Lan Khai. Tiêu biểu như bài viết “Lan Khai và tiểu thuyết lịch sử” (Số 82, Thứ Năm, 12/1935) trên báo Loa trong mục “Văn học Việt Nam hiện đại” của Trương Tửu đã khẳng định Lan Khai là “nhà tiểu thuyết lịch sử có tài và có lương tâm và nghệ thuật”. Tuy nhiên, cũng với cách nhìn truyền thống ông không đồng tình với cách xây dựng nhân vật của Lan Khai “cho những người ở thế kỷ trước sống những tình cảm và tư tưởng chỉ riêng có ở thế kỷ XX”. 10
- Trong cuốn sách Dưới mắt tôi (1939) của Trương Chính qua phê bình 5 tiểu thuyết Gái thời loạn, Chiếc ngai vàng, Chế Bồng Nga, Ai lên phố Cát, Cái hột mận của Lan Khai bằng quan niệm truyền thống, tác giả Trương Chính cũng không dồng tình với cách xây dựng nhân vật không tuân theo “nguyên mẫu lịch sử” của Lan Khai. Đúng như nhà phê bình Vũ Ngọc Phan trong cuốn Nhà văn hiện đại (1942) đã nhận xét: “Ông là một cây bút luôn gắng tìm đường mới” . Trong cuốn Nhà văn hiện đại, mục Lan Khai (tập IV quyển thượng, 1942), Vũ Ngọc Phan đồng tình với Trương Tửu mặc dù chưa đồng tình với Lan Khai trong việc dùng ngôn ngữ hiện đại nhưng vẫn đánh giá cao tài năng của Lan Khai khi cho rằng đương thời chỉ có Lan Khai mới thực sự là nhà lịch sử tiểu thuyết trong khi các nhà văn khác như Nguyễn Triệu Luật, Phan Trần Chúc, Trúc Khê Ngô Văn Triện… chỉ thiên về lịch sử kí sự. Trong giai đoạn này, tình hình nghiên cứu về Lan Khai và TTLS của ông còn rất sơ lược, chưa tương xứng với những thành tựu nghệ thuật của nhà văn ở thể tài này. 1.3.2.2. Sau năm 1945 đến nay Trong khoảng hai mươi năm (từ 1946 - 1965), trừ một số cây bút như Phạm Thế Ngũ, Nguyễn Văn Xung ở miền Nam nhắc tới Lan Khai trong một số công trình biên khảo, còn tên tuổi của Lan Khai trên văn đàn miền Bắc dường như vắng bóng. Mới chỉ có một số bài viết đề cập đến một vài sự kiện và nhân vật trong TTLS của ông một cách sơ lược, thiếu toàn diện và hệ thống, thậm chí bỏ qua những đóng góp quan trọng của Lan Khai trên hành trình cách tân tiểu thuyết của văn học đương thời. Từ sau năm 1965 trở đi, tình hình nghiên cứu về tác phẩm của Lan Khai diễn ra không đồng đều trong từng giai đoạn và trong cả nước. Sự đánh giá về Lan Khai và tác phẩm của ông chưa thống nhất ở cả miền Nam và miền Bắc. Sự xuất hiên các bài viết về Lan Khai ở miền Bắc từ 1965 đến trước 1990 của các cây bút Hồng Chương (Mấy vấn đề lý luận về phê bình văn nghệ, Nxb Văn học, Hà Nội, 1965 ), Nguyễn Đức Đàn (Mấy vấn đề văn học hiện thực phê phán), Trần Văn Giáp (Lược truyện các tác gia Việt Nam,1972), Phan Cự Đệ (Tiểu thuyết Việt nam hiện đại, 1975)... đã đưa ra các nhận xét lệch lạc, phiến diện về sáng tác của Lan Khai. Tất cả các ý kiến đều cho TTLS của Lan Khai theo “khuynh hướng lãng mạn”, xem như đó là mặt trái của nền văn học dân tộc. Trong cuốn Văn học đại cương (1972) (Nxb Sống Mới, Sài Gòn), tác giả Nguyễn Văn Xung đã khẳng định vị trí quan trọng của Lan Khai trên văn đàn và ca ngợi kĩ thuật viết TTLS của Lan Khai “có lối hành văn trong sáng và tươi thắm”. Quan điểm này cũng thống nhất với ý kiến đề cao tài năng của Lan Khai của nhà nghiên cứu Trương Tửu, Phạm Thế Ngũ. Từ sau 1990 trở đi các bài viết về sáng tác của Lan Khai lần lượt xuất hiện với cái nhìn cởi mở hơn. Tác giả Ngọc Giao trong Chân dung và giai thoại (1992) cũng đã đánh giá khách quan về tư tưởng nghệ thuật của Lan Khai ở thể loại tiểu thuyết lịch sử trong bài Lan Khai với “Truyện lạ đường rừng”. Trong cuốn “Văn thi sĩ tiền chiến” (Nxb Hà Nội, 1994) đăng các bài “Lan Khai” và “Hột mận của Lan Khai” của Nguyễn Vĩ cũng khẳng định viết TTLS là một sở trường sáng tạo nghệ thuật của Lan Khai. 11
- Trong Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam (2000) (Nxb Đại học Quốc gia), các tác giả đã đề cập tới “tiểu thuyết lịch sử mang đậm nét lãng mạn” của Lan Khai và cuốn Nhìn lại văn học Việt Nam thế kỉ XX (2002) của Viện Văn học (Nxb Chính trị Quốc gia) cũng khẳng định vị trí của “cây bút lão luyện Lan Khai” ở thể tài TTLS. Tác giả Hoài Anh trong bài viết Lan Khai từ khuynh hướng lãng mạn thoát li đi đến hiện thực xã hội (2001) cũng đã bàn về TTLS của Lan Khai trong sự so sánh với thể tài tiểu thuyết lịch sử nói chung. Tác giả Vũ Đức Hoan với công trình Nhóm Tân Dân trong đời sống văn học Việt Nam trước 1945 (2011) cũng đánh giá cao những đổi mới cả về nội dung và nghệ thuật trong TTLS của Lan Khai theo khuynh hướng thẩm mĩ của văn chương nghệ thuật. Những công trình nghiên cứu của tác giả Trần Mạnh Tiến từ năm 2000 trở đã chỉ ra những đổi mới nghệ thuật táo bạo của Lan Khai ở thể tài TTLS, xứng đáng là “cây bút tiên phong trên hành trình cách tân tiểu thuyết”. Tác giả Nguyễn Thị Tuyết Minh trong Chuyên luận Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1945 (2012) đã khái quát 4 xu hướng phát triển của TTLS Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX trong đó khẳng định những đổi mới của Lan Khai và một số nhà văn cùng thời khi viết về lịch sử trước 1945. Trong hai mươi năm qua đã có một số luận văn Thạc sĩ đã đề cập đến một số thành tựu nghệ thuật tiêu biểu trong TTLS của Lan Khai nhưng còn sơ lược. Các công trình nghiên cứu trên khá phong phú nhưng chưa bao quát đầy đủ, hệ thống cũng như chưa đề cập đến những điểm mới trong TTLS của Lan Khai vượt lên các tác phẩm cùng thời. 1.4. Những vấn đề đặt ra trong nghiên cứu tiểu thuyết lịch sử của Lan Khai Qua nghiên cứu TTLS của Lan Khai, chúng tôi thấy nổi lên những vấn đề bức thiết: Khối lượng TTLS của Lan Khai rất lớn nhưng một thời gian dài không được tái bản, chưa được nghiên cứu đầy đủ và hệ thống, thậm chí còn có những ý kiến nhận xét sai lệch và phiến diện trong việc đánh giá thành tựu và sự nghiệp văn học cũng như chưa thấy được sự tiến bộ nghệ thuật trong từng thời điểm sáng tác của ông. Quan niệm của Lan Khai về TTLS cho thấy tầm nhìn về tiềm năng phát triển vượt thoát khuôn khổ TTLS truyền thống, tiếp cận với những quan niệm nghệ thuật hiện đại trên thế giới cùng tư duy nghệ thuật độc đáo nhưng vẫn chưa được giới nghiên cứu khảo sát đầy đủ qua khối lượng di sản lớn tác phẩm về thể tài lịch sử của nhà văn. Các sáng tác của Lan Khai ở thể tài này thể hiện sự đổi mới mạnh mẽ, sâu sắc về nội dung và hình thức nghệ thuật vượt lên các TTLS cùng thời. Ông xứng đáng là “người đầu tiên mở hướng cách tân” của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam hiện đại nhưng cho đến nay vị trí văn học sử cũng như những đóng góp của ông vẫn chưa được đánh giá thỏa đáng. 12
- Tiểu kết chương 1 TTLS là thể loại hình nghệ thuật hình thành sớm trên thế giới và phát triển mạnh ở Việt Nam từ đầu thế kỉ XX cho đến nay và vẫn không ngừng lớn mạnh với sức hấp dẫn đặc biệt. Hơn một thế kỉ qua đã có nhiều bài viết và công trình nghiên cứu bàn về TTLS trên thế giới và trong nước với các góc nhìn đa dạng và phong phú ở các bình diện khác nhau, nhưng chủ yếu xoay quanh vấn đề phản ánh hiện thực lịch sử và hư cấu nghệ thuật. Nhưng các nhà nghiên cứu đều chỉ ra sự gần gũi và khác biệt giữa lịch sử và văn học do mục tiêu và đặc trưng phản ánh hiện thực của hai loại hình tư duy lịch sử và tư duy nghệ thuật. Trong giai đoạn 1930-1945, TTLS Việt Nam đã phát triển có quy mô và ngày càng hiện đại trong các sáng tác của Nguyễn Tử Siêu, Phan Trần Chúc, Nguyễn Triệu Luật, Lan Khai. Song những sáng tác của Lan Khai ở mảng đề tài này đã cho thấy sự mới mẻ, độc đáo của ông về lịch sử khác với các nhà văn cùng thời Tuy nhiên hơn bẩy thập niên qua, việc đánh giá những đóng góp của Lan Khai ở thể tài TTLS vẫn chưa toàn diện và hệ thống, đây là vấn đề cấp bách cần tiếp tục nghiên cứu đầy đủ hơn. Do vậy, để thực hiện công trình này, chúng tôi đã cố gắng bao quát các nguồn lí thuyết cơ bản về TTLS trên thế giới và trong nước; các nguồn tài liệu mới về Lan Khai; các công trình nghiên cứu của những người đi trước về cuộc đời và sự ngiệp sáng tác của ông để làm rõ mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu. Chương 2 TỪ QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT ĐẾN QUÁ TRÌNH SÁNG TÁC TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ CỦA LAN KHAI 2.1. Quan niệm của Lan Khai về nhà văn và văn học 2.1.1. Quan niệm về nhà văn Trong nhiều bài phê bình văn học, Lan Khai đặc biệt chú ý tới vai trò quan trọng của nhà văn với nền văn hóa giáo dục của đất nước. Ông khẳng định nhà văn phải là người có tài năng, đạo đức, có trách nhiệm với nhân dân và lịch sử. Đồng thời, ông còn nhấn mạnh đến truyền thống dân tộc, ý thức bảo tồn bản sắc dân tộc của nhà văn. Lan Khai cũng là nhà văn sớm ý thức sâu sắc về bản chất sáng tạo của văn học. Ông phê phán lối viết sao chép “giống nhau như hai giọt nước” ở một số cây bút thiếu tự trọng “kéo lùi sự phát triển của văn học”. Lan Khai cũng là người sớm đặt ra yêu cầu về đạo đức nhà văn trong lao động nghệ thuật. Những quan niệm của Lan Khai cho thấy tầm nhìn và tâm huyết của một nghệ sĩ lớn, một tài năng đáng trân trọng. 2.1.2. Quan niệm về văn học Lan Khai đặc biệt đề cao tính dân tộc trong văn học và chức năng phản ánh hiện thực của văn học. Ông tuyên chiến kịch liệt với xu hướng thoát li hiện thực, thứ văn chương ru ngủ con người đang thịnh hành đương thời và phê phán loại nhà văn nô lệ. Ông đề cao tính nhân văn của văn học, nhà văn phải viết trên tinh thần nhân văn để hướng con người tới cái đẹp, cái thiện. Ông khẳng định sự bình đẳng văn học giữa các dân tộc như một con đường đi lên của sự phát triển xã hội. Quan niệm nghệ thuật đó đã thể hiện cái nhìn khách quan, vượt thời đại về nền văn hóa, văn học của 13
- các dân tộc thiểu số, đặt nền móng cho hoạt động sưu tầm và sáng tác về đề tài miền núi trong các giai đoạn sau. 2.1.3. Quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết lịch sử của Lan Khai TTLS của Lan Khai thể hiện những quan niệm nghệ thuật mới về người anh hùng, người phụ nữ. Người anh hùng không còn là những “người khổng lồ” mà là những “gương mặt người” đau đáu, trầm tư, khổ đau, hạnh phúc, nhục vinh cùng những thăng trầm của của dân tộc và thời đại. Lan Khai vẫn đề cao những vẻ đẹp của người phụ nữ truyền thống nhưng bên cạnh đó ông nhấn mạnh sự chủ động của người phụ nữ trong tình yêu với những khao khát của tinh thần và thể xác. Con người trong TTLS của Lan Khai còn được nhìn nhận từ những phạm trù đối lập về nhân cách, là một thế giới tinh thần phức tạp, là sản phẩm của lịch sử. 2.2. Quá trình sáng tác của Lan Khai 2.2.1. Sở trường sáng tác và thể tài lịch sử của Lan Khai Lan Khai đã để lại 26 tiểu thuyết, 3 truyện ngắn, một kí sự về đề tài lịch sử khẳng định tinh thần dân tộc mạnh mẽ, sở trường cũng như sức sáng tạo dồi dào của ông. 2.2.2. Hoàn cảnh sáng tác tiểu thuyết lịch sử Là một trí thức từng chịu ảnh hưởng của công cuộc Duy tân đầu thế kỉ XX, Lan Khai không chỉ quan tâm sâu sắc đến lịch sử đất nước mà còn “sớm tham gia vào những chuyển động lớn của lịch sử dân tộc” (Hữu Thỉnh), cộng với vốn tri thức lịch sử dày dặn đã thôi thúc ông sáng tác TTLS. Động lực khiến Lan Khai dồn tâm huyết viết TTLS còn xuất phát từ khát vọng phục hưng tinh thần dân tộc cho lớp người Việt Nam mới trong xã hội ngột ngạt, tăm tối đương thời. Xuất phát từ nhu cầu nhận thức xã hội và hiện đại hóa văn học, Lan Khai đã vượt qua những quy phạm khắt khe của tư duy truyền thống về TTLS để làm lịch sử sống động hơn, bổ sung cho những góc khuất trong tâm hồn nhân vật bằng cái nhìn đa chiều của con người đương đại. 2.2.3. Diễn trình sáng tác tiểu thuyết lịch sử của Lan Khai Nhà văn Lan Khai bắt đầu sáng tác tiểu thuyết lịch sử từ năm 1933 với tác phẩm Gái thời loạn và kết thúc với tác phẩm Việt Nam, ngươi đi đâu? (1943). Trong 10 năm sáng tác TTLS của Lan Khai có thể chia làm hai giai đoạn: Giai đoạn từ 1933 - 1939 và từ 1940 - 1943. 2.2.3.1. Giai đoạn từ 1933 đến 1939 Lan Khai sáng tác 8 tác phẩm, tập trung vào hai đề tài: chống ngoại xâm và nội trị. Ở đề tài chống ngoại xâm bên cạnh bức tranh lịch sử chính triều, tác giả còn mở rộng biên độ phản ánh lịch sử địa phương của nhân dân ở các tỉnh miền núi phía Bắc chống giặc Cờ Đen và giặc Pháp cuối thế kỉ XIX. Hầu hết TTLS của Lan Khai giai đoạn này đã vượt thoát ảnh hưởng của bút pháp của văn chương cổ điển, tiếp thu lối viết hiện đại của tiểu thuyết phương Tây, tham gia tích cực vào trào lưu hiện đại hóa văn học. 2.2.3.2. Giai đoạn từ 1940 đến 1943 Giai đoạn này ông sáng tác 18 TTLS với sự đổi mới, cách tân mạnh mẽ về cả nội dung và hình thức nghệ thuật. Tác giả đã phát huy tính dung hợp của thể loại, 14
- tạo tính đa dạng trong nội dung phản ánh, hình thức nghệ thuật cũng như quy mô tác phẩm, tiếp cận gần gũi hơn với cách nhìn con người như một số đặc điểm của tiểu thuyết hiện đại. 2.2.4. Tiểu thuyết lịch sử trong sự nghiệp sáng tác của Lan Khai và trong sự vận động của thể tài tiểu thuyết lịch sử Việt Nam 2.2.4.1. Tiểu thuyết lịch sử trong sự nghiệp sáng của Lan Khai TTLS chiếm vị trí quan trọng với 26 tác phẩm với dung lượng 2456 trang viết, 797 nhân vật đa dạng về thứ bậc, tầng lớp, tính cách đã cho thấy sự bứt phá mạnh mẽ về dung lượng và quy mô phản ánh. TTLS là thể tài thể hiện sâu sắc và rõ nét nhất tinh thần yêu nước mãnh liệt trong thế giới nội tâm của nhà văn và khơi dậy lòng yêu nước của nhân dân trong thời kì nước mất dân nô lệ. TTLS phát huy cao độ cá tính sáng tạo, thể hiện một lối tư duy mới và sự nỗ lực cách tân thể loại của Lan Khai. 2.2.4.2. Tiểu thuyết lịch sử của Lan Khai trong sự vận động của thể tài tiểu thuyết lịch sử Việt Nam TTLS của Lan Khai thể hiện những đổi mới mạnh mẽ về nội dung và hình thức, có ảnh hưởng nhất định tới sự phát triển của thể tài này ở giai đoạn sau. Từ việc chọn sự kiện và nhân vật tới lối kết cấu, Lan Khai đã đem đến cho TTLS một bức tranh mới lạ khác với các nhà văn tiền bối. Ông từ bỏ hình thức sáng tác của tiểu thuyết chương hồi cũng như sự mô phỏng lịch sử của những cây bút cùng thời. Nghệ thuật miêu tả, kể chuyện theo lối văn xuôi hiện đại phương Tây được Lan Khai vận dụng sáng tạo đã thực sự tạo ra những nhân tố mới mẻ cho thể tài TTLS. Tiểu kết chương 2 Quan niệm nghệ thuật của Lan Khai gắn với hoàn cảnh lịch sử và nhu cầu “xây dựng một tân văn hóa” cho đất nước. Lan Khai là cây bút đi tiên phong việc khám phá và đề cao di sản văn học dân gian các dân tộc thiểu số, ông đồng thời đề cao ngôn ngữ dân tộc và đề ra yêu cầu giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt; coi Tiếng Việt là nhân tố tham gia tích cực vào sự nghiệp đổi mới nền văn học Việt Nam hiện đại. TTLS của Lan Khai là sự kết tinh truyền thống văn hóa dân tộc với những tinh hoa của tiểu thuyết hiện đại trên thế giới, thể hiện vốn tri thức dồi dào của một nhà văn đối với nền văn học dân tộc. Chương 3 TỪ HIỆN THỰC LỊCH SỬ ĐẾN BỨC TRANH NGHỆ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ CỦA LAN KHAI 3.1. Cảm hứng sáng tác trong tiểu thuyết lịch sử của Lan Khai 3.1.1. Ca ngợi truyền thống yêu nước của dân tộc Cảm hứng ca ngợi truyền thống lịch sử của dân tộc trong TTLS của Lan Khai thể hiện tập trung thông qua việc biểu dương tinh thần yêu nước và khát vọng tự do của con người Việt Nam mọi thời đại. Đây là cảm hứng xuyên suốt trong nhiều tác phẩm của ông nhưng không vì thế mà nó trở nên khô cứng, giáo điều hay minh họa lịch sử. Cảm hứng trong tác phẩm của Lan Khai còn thể hiện ở sự căm thù tột độ với bọn giặc xâm lược và bè lũ tay sai bán nước. 15
- 3.1.2. Ca ngợi cái đẹp, cái thiện Mỗi tác phẩm của Lan Khai là một sự sáng tạo mới lạ về vẻ đẹp của con người và thiên nhiên tạo nên một thế giới nghệ thuật độc đáo. TTLS của Lan Khai còn ca ngợi sự chiến thắng của cái thiện trong tâm hồn mỗi con người và trong xã hội đen tối, biến loạn. Cảm hứng về cái đẹp, cái thiện cũng thống nhất với tư tưởng nhà văn hòa thấm trong các trang tiểu thuyết, thể hiện niềm trân trọng, tự hào của ông vào những giá trị truyền thống của dân tộc, vào bản chất tốt đẹp của con người Việt Nam qua những biến thiên lịch sử. 3.1.3. Phê phán xã hội phong kiến và chiến tranh phi nghĩa Khi miêu tả những cuộc chiến tranh phong kiến, Lan Khai đã thoát khỏi cái nhìn của nhà sử học để phản ánh chiến tranh ở nhiều góc độ. Ông chú ý làm nổi bật những tổn thất tinh thần của con người do chiến tranh, mở đường cho cảm hứng bi tráng của văn học Việt Nam hiện đại. Tác phẩm của ông cũng cực lực phê phán xã hội rối ren, đen tối làm tha hóa con người. Nhìn thẳng vào thực tại, tái hiện những mảng tối của đời sống cũng như của từng cá nhân con người cũng là một hình thức chống lại cái ác. 3.2. Sự kiện trong tiểu thuyết lịch sử của Lan Khai 3.2.1. Sự hoán đổi ngôi vị của các triều đại phong kiến Lan Khai luôn chú trọng khám phá những sự kiện chuyển giao hoặc tranh đoạt quyền lực của nhiều triều đại phong kiến làm nảy sinh những mâu thuẫn để xây dựng cốt truyện. Nhân vật lịch sử xuất hiện trong biến cố khốc liệt sẽ lộ ra con người thật mà khi mưa tạnh gió tan người ta khó có thể nhìn thấu. Cái ngưỡng chênh vênh, gập ghềnh, éo le của số phận trở thành duyên cớ để nhà văn khám phá chiều sâu tâm hồn nhân vật với những diễn biến tâm lí phức tạp. 3.2.2. Những cuộc nội chiến trong xã hội phong kiến TTLS của Lan Khai tái hiện những cảnh tượng “nồi da nấu thịt”, huynh đệ tương tàn trong xã hội phong kiến gây ra những thảm kịch đau xót. Đó là những cuộc tranh đoạt quyền lực đẫm máu của các triều đại phong kiến, những cuộc xung đột của một số phe phái ở vùng núi phía Bắc. 3.2.3. Những cuộc nổi dậy của nhân dân chống chế độ phong kiến Khi phản ánh những cuộc nổi dậy của nhân dân chống triều đình phong kiến, Lan Khai mở rộng phạm vi hư cấu và quy mô phản ánh những cuộc nổi dậy của nhân dân ở các vùng miền khác nhau. Những sự kiện đó khẳng định vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử, tiềm năng của người phụ nữ đối với lịch sử và thể hiện cái nhìn đa chiều của Lan Khai về con người xã hội. 3.2.4. Những cuộc đấu tranh chống kẻ thù xâm lược và bè lũ tay sai Nếu các nhà tiểu thuyết lịch sử khác thường chọn những sự kiện lớn với những chiến công rung chuyển để tái hiện lịch sử thì Lan Khai lại chọn những sự kiện còn thiếu vắng trong chính sử góp phần bù lấp những khoảng trống của sử học. Mặt khác, khi miêu tả cuộc nổi dậy của nhân dân chống giặc xâm lược, nhà văn chú ý khắc họa phẩm chất anh hùng của những con người đời thường để khẳng định vai trò lịch sử của nhân dân trong những cuộc chiến tranh vệ quốc. 16
- 3.3. Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết lịch sử của Lan Khai Khi mô tả nhân vật, nhà văn đã tránh lối miêu tả tính cách nhân vật một chiều như: trung - nịnh, thiện - ác mà các nhân vật lịch sử của ông được miêu tả bằng nhãn quan của nhà tiểu thuyết hiện đại. Các nhân vật trong TTLS của ông thể hiện rõ ở những loại hình sau: 3.3.1. Nhân vật vua chúa, quan lại và tướng lĩnh Nhân vật vua chúa trong tác phẩm của Lan Khai không phải là bản sao các nguyên mẫu lịch sử mà vô cùng đa dạng và sinh động. Cho dù ông vua đó là minh quân hay hôn quân, tài trí hay bất tài cũng đều được nhà văn khám phá chiều sâu nội tâm để trở thành những “nhân vật sống”. Nhân vật Hoàng tử, Thái tử, Thế tử trong triều đình với tất cả những bản tính đời thường hoặc bi kịch éo le của số phận. Họ đều bị cuốn vào vòng xoáy của những cuộc tranh đoạt ngai vàng hoặc những cuộc chiến khốc liệt làm lộ diện bản chất, tính cách. Hệ thống nhân vật quan lại được nhà văn tái hiện sinh động trong những biến cố lịch sử lớn, góp phần làm rõ hơn bản chất của chính quyền phong kiến qua các triều đại. 3.3.2. Nhân vật người anh hùng Hình tượng người anh hùng trong TTLS của Lan Khai không chỉ là những tướng lĩnh được sử sách lưu danh mà còn là những người anh hùng thảo dã sống thác với nhân dân mà lịch sử chưa bao quát hết để bức tranh quá khứ thêm toàn vẹn. Lan Khai cũng thành công trong việc khắc họa nhân vật những nữ anh hùng vượt khỏi sự trói buộc của lễ giáo phong kiến, khẳng định vị thế và khả năng tiềm tàng của người phụ nữ trong suốt chiều dài lịch sử. Nhân vật người anh hùng đã thoát ra khỏi “khuôn vàng thước ngọc” của mẫu hình nhân vật anh hùng trong văn học truyền thống và chạm tới những xúc cảm của con người đương đại. 3.3.3. Người phụ nữ trong xã hội phong kiến 3.3.3.1. Người phụ nữ chốn cung đình Nhân vật người phụ nữ trong hoàng tộc của Lan Khai đã bứt mình khỏi bộ áo triều phục và những lễ nghi cứng nhắc để hoàn nguyên con người trần thế. Khi viết về người cung nữ, thị tỳ, ông không chỉ miêu tả những phận tôi đòi chỉ biết cam chịu, tuân phục mà ông đặc biệt chú ý khắc họa những con người có cá tính mạnh mẽ, dám phản kháng hôn quân bạo chúa tiêu biểu cho tính cách phi thường của người cung nữ trong cung cấm. Hình ảnh những tiểu thư đài các con cái các quan lại chốn kinh kì đã vượt qua lễ giáo phong kiến với bản lĩnh phi thường để bày tỏ khao khát mãnh liệt về tình yêu tự do, hạnh phúc. 3.3.3.2. Người phụ nữ miền núi, thôn quê Hình ảnh những người phụ nữ miền núi, thôn quê xuất hiện trong tiểu thuyết lịch sử của Lan Khai là những nạn nhân của những cơn biến động lịch sử nhưng vẫn thể hiện tinh thần dân tộc mạnh mẽ. Họ cũng là những thủ lĩnh bước lên vũ đài chính trị, tham dự vào những chuyển động lịch sử. Tư tưởng nhân văn và ý thức về chủ nghĩa nữ quyền thể hiện những nhân tố mới mẻ, cảm động trong mỗi thiên tiểu thuyết 17
- của Lan Khai và có sức ảnh hưởng lớn tới đề tài người phụ nữ trong văn học các giai đoạn sau. 3.3.4. Nhân vật binh sĩ và dân chúng 3.3.4.1. Nhân vật binh sĩ Nhân vật binh sĩ trong tác phẩm của Lan Khai là những nhân chứng lịch sử, tham dự trực tiếp vào biến cố lịch sử lớn lao tạo nên diện mạo thời cuộc nhưng không ngạo mạn, hống hách như đám kiêu binh trong Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô Gia văn phái. Đặc biệt ông còn nhìn thấu những bi kịch khổ đau của những kẻ chinh phu cả đời xông pha trận mạc, nhiều khi họ chỉ là viên gạch lót đường cho những tham vọng đế vương. Đó cũng là nỗi đau khổ, bất hạnh của những phận người đằng sau ánh hào quang của các vương triều. 3.3.4.2. Nhân vật dân chúng Trong TTLS của Lan Khai, dân chúng là đám đông có sức mạnh vĩ đại, được nâng tầm vóc thành biểu tượng phi thường mang tính sử thi. Họ vừa là nhân chứng lịch sử vừa tham dự vào những chuyển biến của thời đại, vừa là hiện thân của truyền thống văn hóa, tinh thần dân tộc trong sự nghiệp chống giặc ngoại xâm và các thế lực bạo tàn. 3.3.5. Nhân vật kẻ thù cướp nước và bán nước Với cái nhìn đa chiều và khách quan, khám phá những phần nhân tính tốt đẹp trong con người, Lan Khai đã cho thấy kẻ thù cướp nước hầu hết đều hung bạo, tàn ác nhưng vẫn có kẻ còn có tính người, có kẻ là nạn nhân của chiến tranh. Điều đó thể hiện cái nhìn mới mẻ linh hoạt trong TTLS của ông, khẳng định những sáng tạo đột phá, táo bạo của nhà văn khi phản ánh lịch sử. Tiểu kết chương 3 Các nhân vật trong TTLS của Lan Khai có vị thế xã hội khác nhau được mô tả sinh động dưới góc độ đời tư và thế sự với chiều sâu tâm lí, với sự đa dạng về tính cách, hướng tới con người mang tính tổng hòa xã hội. Nhân vật trung tâm trong tác phẩm của Lan Khai là những con người nếm trải sóng gió và những biến thiên của thời đại. Hầu hết các nhân vật đều thể hiện cách nhìn sâu sắc và mới mẻ của tác giả, vượt lên giới hạn nhận thức đương thời. Trong đó cách nhìn về nhân vật người phụ nữ của nhà văn có nhiều phát hiện mới mẻ chứa đựng nhiều ý nghĩa nhân văn sâu sắc vượt lên quan niệm xưa về người phụ nữ cả trong đời sống và văn học. Nhân vật người dân tộc thiểu số miền núi được nhà văn khắc họa một cách điển hình sống động gây ấn tượng sâu với độc giả. Sự thành công trong việc lựa chọn chủ đề và cảm hứng, tái hiện nhân vật lịch sử, khám phá sâu sắc thế giới bên trong của con người đã khẳng định những cách tân mới mẻ, táo bạo của Lan Khai. Chương 4 CÁC PHƯƠNG THỨC VÀ BIỆN PHÁP BIỂU HIỆN NGHỆ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ CỦA LAN KHAI 4.1. Sự kết hợp hài hòa giữa lịch sử và hư cấu nghệ thuật trong tiểu thuyết lịch sử của Lan Khai 4.1.1. Nhân vật và sự kiện lịch sử 18
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: An ninh tài chính cho thị trường tài chính Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
25 p | 306 | 51
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Giáo dục học: Phát triển tư duy vật lý cho học sinh thông qua phương pháp mô hình với sự hỗ trợ của máy tính trong dạy học chương động lực học chất điểm vật lý lớp 10 trung học phổ thông
219 p | 289 | 35
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Chiến lược Marketing đối với hàng mây tre đan xuất khẩu Việt Nam
27 p | 183 | 18
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Hợp đồng dịch vụ logistics theo pháp luật Việt Nam hiện nay
27 p | 269 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu điều kiện lao động, sức khoẻ và bệnh tật của thuyền viên tàu viễn dương tại 2 công ty vận tải biển Việt Nam năm 2011 - 2012
14 p | 269 | 16
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Giáo dục Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học Cảnh sát nhân dân hiện nay
26 p | 154 | 12
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu tính toán ứng suất trong nền đất các công trình giao thông
28 p | 223 | 11
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế Quốc tế: Rào cản phi thuế quan của Hoa Kỳ đối với xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam
28 p | 182 | 9
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Vai trò của các tổ chức chính trị xã hội cấp cơ sở trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn: Nghiên cứu trường hợp tại 2 xã
28 p | 149 | 8
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế biển Kiên Giang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
27 p | 54 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam bộ: Tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa
27 p | 199 | 8
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phản ứng của nhà đầu tư với thông báo đăng ký giao dịch cổ phiếu của người nội bộ, người liên quan và cổ đông lớn nước ngoài nghiên cứu trên thị trường chứng khoán Việt Nam
32 p | 183 | 6
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường Đại học công lập ở Việt Nam hiện nay
26 p | 136 | 5
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam thông qua mô hình hấp dẫn thương mại
28 p | 17 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt
27 p | 119 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu cơ sở khoa học và khả năng di chuyển của tôm càng xanh (M. rosenbergii) áp dụng cho đường di cư qua đập Phước Hòa
27 p | 8 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc kỳ hạn nợ phương pháp tiếp cận hồi quy phân vị và phân rã Oaxaca – Blinder
28 p | 27 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển sản xuất chè nguyên liệu bền vững trên địa bàn tỉnh Phú Thọ các nhân tố tác động đến việc công bố thông tin kế toán môi trường tại các doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản Việt Nam
25 p | 173 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn