
4 0 NGHIỀ N CỨ U - TRAO Đổ l
MỘ T SỐ NHẬ N ĐỊ NH
VỂ HOẠ T BỌ NG
t r a o b ổ
I
HÀNG HỐ A GIỮ A CÁC
DÂN T ộ c ở TÂY NGUYÊN
TRẦ N HOÀI
M ở đ ầ u
Trong nhiề u công trình nghiên cứ u góp
phầ n đị nh hư ớ ng phát triể n Tây Nguyên sau
năm 19S6, vùng này vẫ n đư ợ c xem như nơ i
xa xôi, hẻ o lánh, khép kín, yên lành và tách
biệ t so vớ i đồ ng bằ ng trung tâm, văn minh,
màu mỡ . Theo cái nhìn đó, trong thờ i kì tiề n
thuộ c đị a, các dân tộ c vùng cao vố n tự trị
rộ ng rãi trên các phư ơ ng diệ n kỉ nh tế , chỉ nh
trị , văn hoá, và hư ở ng nhữ ng cuộ c số ng yên
bình cho tớ i khi họ bị “binh đị nh” bở i chỉ nh
quyề n thuộ c đị a (Oscar Saỉ emink, 2008a:
51). M ộ t trong nhữ ng nét củ a cuộ c sổ ng yên
bỉ nh đó là sự hạ n chế nhữ ng kế t nổ i, đi ỉ ạ ỉ ,
traọ đổ i kỉ nh tế , chỉ chú trọ ng vào các hoạ t
độ ng sả n xuẩ t tự cung tự cấ p và chư a có nề n
kinh tế hàng hóa, cầ n hòa nhậ p vào thị
trư ờ ng chung củ a kinh tế Việ t Nam.
Trong bài viế t này, tôi sẽ điể m qua
nhũng ghi chép, các nghiên cứ u dân tộ c họ c
khác cùng chủ đề nhằ m đua ra mộ t sổ thả o
luậ n trở lạ i đố i vớ i cách nhìn nhậ n trên về các
hoạ t độ ng trao đổ i hàng hóa ở Tây Nguyên.
Trư ớ c hế t, tôi sẽ điể m qua nhữ ng nộ i
dung chính toong cách đánh giá về kinh tế
hàng hóa ở Tây Nguyên củ a mộ t sổ công
trình nghiên cứ u góp phầ n đị nh hư ớ ng phát
triể n Tây Nguyên sau năm 1986. Trong các
phầ n tiế p theo, tôi sẽ từ ng bư ớ c dùng nhữ ng
nghiên cứ u khác để thả o luậ n trở lạ i vớ i các
nhậ n đị nh này.
1. M ộ t n ề n k ỉ n h tế t ự c u n g tự cáp
M ộ t toong nhũng luậ n đỉ ẻ m chung củ a
các ỷ kiế n này cho rằ ng, kinh tế truyề n
thố ng củ a các dân tộ c Tây Nguyên toong
thờ i kỉ tiề n thuộ c đị a, hay tiề n xã hộ i chủ
nghĩa, trao đổ i hàng hóa chư a thể đư ợ c xem
là phát triể n, chỉ dùng lạ i ở m ứ c độ tự cấ p
tự túc như bứ c tranh tẻ nhạ t đư ợ c phác họ a
dư ớ i đây.
“Trư ớ c thờ i Pháp, do dâ n cư thư a thớ t,
ch ợ bú a ch ư a x u ẩ t hiệ n, cá c ngành thủ
công chư a tách kh ỏ i n ô n g nghiệ p và nhấ t là
chư a ra đ ờ i m ộ t tầ ng lớ p thư ơ n g nhân bả n
đị a nên thư ơ ng n gh iệ p Tây N gu yên hầ u như
còn kém p h á t triể n. Đ ồ n g tiề n chư a thấ y
xu ấ t hiệ n. H ìn h th ứ c thư ơ n g nghiệ p d uy
nhấ t là h à n g đ ổ i h à n g ' (Bùi M inh Đạ o,
1986:185).
Như vậ y, bên cạ nh việ c ch ư a có tầ ng
lở p th ư ơ ng nhân, tỉ nh p h i hàn g h ỏ a củ a
nhữ ng sân p h ẩ m đư ợ c trao đổ i là m ộ t toong
nhữ ng quan điể m cơ bả n. Ngay cả toong
hinh thứ c thư ơ ng nghiệ p duy nhấ t củ a Tây
Nguyên “truyề n thố ng” thì nhũng vậ t đem
ra trao đổ i chỉ là “hàng hỏ a cấ n thiế t cho
đờ i số n g hà n g n gày" (Bùi M inh Đạ o, 1986:
185). Do đó “Việ c dù n g h à n g đổ i hàn g ở
đây chi m ang ý ngh ĩa trao đ ổ i lao đ ộ n g '
nên “vớ i ng ư ờ i T ây N guyên cổ truyề n, trao
đổ i chư a m ang m ụ c đ ich buôn bả n" (Bùỉ
M inh Đạ o, 1986:186-187).
Như vậ y, nhữ ng vậ t đư ợ c đem trao đổ i,
theo quan điể m củ a cách đánh giá này, chỉ
đư ợ c coi là nhũng vậ t chứ a đụ ng công lao
độ ng, chư a trở thành hàng hóa.
“N ế u đem trao đổ i sả n p h ẩ m lao độ ng,
cũng chư a đư ợ c qua n niệ m là hàn g hóa
(theo nghĩa hiệ n đợ i). V ậ y nên sả n p h ẩ m
bả n ra cũ ng giố ng n h ư sả n ph ấ m cho chỉ nh
m ình dùng. Sả n vậ t trao đ ổ i biể u th ị tình
hữ u nghị giữ a m ộ t bên là ngư ờ i sàn xuấ t,