
môn đệ, trở lại với chính mình, với số phận con người của chính họ. Vì vậy
người ta nói Socrate là người đỡ đẻ cho các linh hồn, để cho con người đư
giải thoát linh hồn và lại quy phục cái thiện. Xấp xỉ với thời Socrate, ở châu
á phương Đông, Khổng Tử (551 - 479tr.CN) nhà giáo dục vĩ đại Trung Hoa
bảo “Đạo làm người phải có Nhân - Trí - Dũng. Nhân, để luyện tình cảm.
Trí, để luyện trí tuệ. Dũng, để rèn nghị lực mà vư
ợt mọi khó khăn thách thức
mới thành người quân tử”. Thích Ca Mâu Ni (năm sinh khoảng 488 - 368
tr.CN) thì bảo “Muốn trở thành con người tự do, phải tu luyện, phải giác
ngộ, phải tự giải thoát. “Phật là người đã hoàn thành. Người là Phật chưa
hoàn thành “ - tức muốn thành Phật thì phải tự mình tu luyện. Tất cả những
điều vừa kể đều hướng về chân lý Chân - Thiện - Mỹ, lý tưởng mà nền giáo
dục cũng như nghệ thuật chân chính nào cũng luôn hướng tới.
Từ bên kia đại dương, ở nước Mỹ, John Dewey (1859 - 1952), tác giả công
trình “Dân chủ và Giáo dục” một trong những nhà giáo dục kiêm triết gia
bao trùm đời sống trí tuệ nước Mỹ suốt thế kỷ XX với học thuyết “Thực
dụng luận“, cũng là một trong ba nhà sáng lập học thuyết (trước đó có
Charles Peirce và William James). “Đó là sản phẩm đặc trưng của xã hội
Hoa Kỳ - bởi tính dân chủ, bởi mặc cảm không quá khứ vô tiền khoáng hậu,
dầu nền tảng tư tưởng của nó gắn liền với truyền thông duy lý ph
Chính từ những đặc điểm này ba triết gia kiêm giáo dục gia trên đã từ bỏ
siêu hình học, đề cao sự hữu ích cũng như tính hiệu quả - những ý tưởng
chính của thực dụng luận mà họ là tác giả”. Để tránh những quan niệm
không đúng về thực dụng luận mà từ lâu từ “chủ nghĩa thực dụng “ đã bị
hiểu theo nghĩa đen tiêu cực, để dịch từ Pragmatism - NTL - Tác giả bài viết
(Ngô Tự Lập. John Dewey giáo dục chính là cuộc sống. Tia sáng số 12 ng