
TỪ NGÔN TỪ TỤC Ô NHỤC PHỤ NỮ ĐẾN SỰ THỂ HIỆN QUYỀN
LỰC PHỤ QUYỀN TRONG VIỆC SỬ DỤNG NGÔN NGỮ
Cai Pei (Thái Bội)
Trần Duy Khương lược dịch
Một số người cho rằng, việc cấm kỵ nói tục chính là vì tôn trọng phụ nữ,
không nên “làm nhục mẹ của người khác”, nhưng điều mà chúng ta cần
quan tâm ở đây là: tại sao những từ ngữ này luôn chỉ đến phụ nữ? Hơn nữa,
người ta lại thường chỉ đến “mẹ” của đối phương mà không là “chị”, “em”
hay là “dì”? Khi liên kết với thân thể của người phụ nữ, tại sao luôn là
“sinh thực khí” mà không phải là “chân”, “tay” hay các bộ phận khác?
Việc sử dụng những từ ngữ như thế bị hạn định bởi thể hệ giá trị và hệ
thống tư tưởng nào? Quan hệ quyền lực được thể hiện ra là như thế nào? Ý
thức phản kháng cái bẩn, cái tục dường như là một sự giả dối, vì ở đây, sự
phản kháng cũng chính là hình thức thể hiện của sự thuần phục. Mặt khác,
những từ ngữ bị phản kháng ấy phải chăng là một kiểu xâm phạm đến phụ
nữ, nên vì thế mà cấm kỵ? Nhưng trên thực tế thì chắc chắn rằng, đó không
thể là một kiểu xâm phạm, đó không phải là những nơi có thể bị xâm phạm
(giá trị giới tính, sinh thực khí, vai trò của người mẹ), mà đó chính là sự hạn
định và sự thể hiện của phụ quyền, cơ hồ như hoàn toàn không phải là kết
quả từ sự tự cảm nhận của phụ nữ.
Thông thường, ngôn từ tục nằm ở vùng rìa của quy phạm ngôn ngữ chính
thống, nó vi phạm đến những quy tắc thông thường, nó khiêu chiến với cấm kỵ. Vì
vậy, việc nghiên cứu ngôn từ tục rất có khả năng sẽ xuất hiện những nguy cơ đối
với quyền lực và kết cấu thống trị tượng trưng trong ngôn ngữ. Điều giả dối ở đây
là, việc sử dụng và lưu truyền ngôn từ tục hoàn toàn không phải là dựa vào cái gọi
là “hình thái ý thức cơ quan nhà nước” để xây dựng tính chính đáng của nó, mà

ngôn từ tục bị đè ép bởi quyền uy chính thống. Dạng ngôn ngữ bị ức chế này,
trong cuộc sống đời thường luôn luôn được thẩm thấu, và cuối cùng thì nó vẫn
hình thành được một mô hình của một địa vị áp bức phụ nữ, và quyền lực đằng sau
nó nhất định là một chính quyền chí cao vô thượng mà không cần phải dựa vào bất
kỳ một cái gì, có thể tự mình hình thành nên một dạng quyền lực nằm tiềm ẩn
ngay trong chính nó.
Vì vậy, mục đích chủ yếu của bài viết này không phải là sưu tầm các ngôn từ
tục một cách toàn diện, mà tiêu điểm là nhắm vào những ngôn từ tục “làm cho
nhục nhã”, “làm cho xấu hổ” đối với phụ nữ. Đương nhiên, cách chọn lựa này khó
tránh khỏi hiện tượng luận chứng bằng thực chứng, vì ý thức phụ quyền trong
ngôn từ tục là điều hiển nhiên, cần gì phải bóc trần nó ra? Người viết cho rằng,
ngôn từ tục hoàn toàn không tồn tại khách quan (nhưng hiện tại nó đang được tồn
tại dạng khách quan), và ý thức phụ quyền cũng không hoàn toàn có thể khiến cho
chúng ta nắm rõ được cấu trúc của phụ quyền trong ngôn từ tục cuối cùng đã hình
thành một kết cấu quan hệ với quyền lực như thế nào. Ý nghĩa của “critical” (tính
phê phán) trong một vài hiện tượng nào đó hoặc trong điều kiện và hạn định xuất
hiện tri thức, cũng đã hàm ẩn ý nghĩa phản đối trật tự xã hội theo lẽ đương nhiên
của nó, nhưng đây không phải là bài nhận định tư tưởng chỉ có phá hoại mà không
có xây dựng, chúng ta cần sử dụng những chứng cứ thực tế, đưa vấn đề hàm ẩn
đằng sau của việc sử dụng ngôn từ tục và vấn đề quyền lực vào kính hiển vi để
phóng to lên, như thế mới có thể nhìn nhận và giải phóng sự phê phán này một
cách khách quan.
Đầu tiên, các cụm ngôn từ tục dạng như “quan hệ tính giao với mẹ của bạn” sử
dụng một số động từ như chữ “đ…”, “đút”, “nhét”, “giỡn”, mà không sử dụng
những từ khác, thì ở đây, chúng mang một nghĩa hàm ẩn là chiếm đoạt, xâm phạm
đến ý thức về giá trị “giới tính” của đối phương. Nếu người nói thuộc giới tính

khác nhau thì quan niệm phụ quyền được thể hiện ra sẽ giải thích bằng hai mặt
khác nhau.
Thứ nhất, nếu người chửi tục là nam giới, thì người hành động tàng ẩn không
được nói ra ở đây chính là bản thân người nói, cũng tức là “(tôi / tao) đ... mẹ mày”,
và kết quả của hành động đó là “trên tinh thần (tức trên lời nói) thì tôi / tao đã làm
tình với mẹ của bạn / mày”. Nhưng, điều đáng lưu ý ở đây là, người chửi tục kỳ
thực là muốn chửi “bạn”, vậy thì tại sao lại liên quan đến người thứ ba là “mẹ của
bạn”? Hành động “đ...” này là nhắm vào “bạn” hay là “mẹ của bạn”? Kết quả rõ
ràng là có thể đi từ việc nhằm vào “bạn” đã chuyển hướng sang “mẹ của bạn”, có
nghĩa là, trên một phương diện nào đó thì quyền lực của bạn mạnh hơn so với tôi,
trên thực tế thì tôi không thể đối kháng được với bạn, và e rằng, nếu trực tiếp chửi
rủa bạn thì sẽ tạo nên kết quả bất lợi cho tôi, vì thế mà hành động “đ...” này sẽ sẽ
được trút lên người của “mẹ bạn”, bởi vì, “mẹ bạn” thì dễ bắt nạt hơn bạn. Nhưng
cuối cùng, người thu được lợi ích từ hành động này là ai? “Tôi làm tình với mẹ
của bạn, vì vậy, tôi có tư cách là cha của bạn, và bạn trở thành con của kẻ cắm
sừng”, trên danh nghĩa (tinh thần) thì người chửi tục sẽ thu được lợi ích (tức phép
thắng lợi tinh thần của AQ). Mà quân tử thì không nói tục, nhưng có thể vì chửi
bằng lời lẽ tục tĩu mà người chửi cảm thấy chính bản thân mình bị hạ thấp địa vị,
nên cuối cùng, người thắng lợi cũng vẫn là “bạn”. Vả lại, nếu như vai “bạn” là
nam giới, thì hành vi nói tục sẽ làm tăng cường sức mạnh của kết cấu phụ quyền
lên đến hai lần (thế mạnh của nam giới áp bức thế yếu của nữ giới, nam áp bức nữ).
Thứ hai, người chửi tục là phụ nữ. Từ “đ...” mang đặc trưng của tư duy nam
tính khá rõ, nên người hành động ẩn ở đây không phải là “tôi” (bởi vì phụ nữ
không có dương vật thì không có cách nào để thực hiện động tác “đ...” được). Vì
vậy, khi phụ nữ chửi tục bằng câu “đ... mẹ mày” thì họ có tư duy như thế nào? Tư
duy này chính là phụ nữ giả định làm một người “đàn ông” (tức người hành động),
nhưng trên thực tế, người đàn ông ấy lại giúp cho cô ta thực hiện việc “quan hệ

tính giao với mẹ của bạn”. Ở hành động này, có vẻ như là phụ nữ (người chửi) là
người chủ động, nhưng kỳ thực, trên thực tế (chỉ có thể) là do người đàn ông thực
hiện, như thế thì cuối cùng, ai là người thu nhận được lợi ích? Chắc chắn đó chính
là “nam giới”. Bất kể đối tượng mà bạn chửi là nam hay là nữ, thì cuối cùng đều là
gây sự thương tổn cho giới phụ nữ của chính họ, và cái giành chiến thắng là tư
tưởng phụ quyền, có nghĩa là, phụ nữ đã hình thành ý vô thức về một sự dựa dẫm
vào phụ quyền mà họ không phát hiện ra.
Trong cuộc sống thức tế, nói tục không phải là độc quyền của nam giới, Liêu
Nhàn Nhã (1995) trong nghiên cứu mối quan hệ giữa sự khác biệt về giới tính và
tuổi tác đối với việc sử dụng những từ ngữ lăng mạ làm nhục đã phát hiện ra rằng,
cụm từ “đ… mẹ mày” nếu được những người có độ tuổi từ 13-25 sử dụng, thì tần
suất sử dụng từ này trong trường hợp người nữ mắng người nam thì ngày càng cao
hơn so với trường hợp người nữ mắng người nữ; và tần suất sử dụng từ này ở
trường hợp người nam mắng người nam cũng ngày càng nhiều hơn so với hiện
tượng người nam mắng người nữ; nhưng khách thể của bản thân những từ ngữ thô
tục này là ai? Là “mẹ của bạn”, “mẹ của nó”, điều này chứng minh rằng, ý thức
phụ quyền đã cắm rễ sâu đến mức nào. Bạn cho rằng, đối tượng để chửi là nam
giới, nhưng kỳ thực, tất cả đều nhằm vào việc làm giảm bớt và làm hạ thấp giá trị
của phụ nữ. Việc phụ nữ dùng “đ… mẹ mày” để chửi người khác, đó cũng là một
biểu hiện tòng phạm trong việc sử dụng hình thái ý thức phụ quyền! Những từ ngữ
tục tĩu làm bẩn ô nhục phụ nữ thường sẽ trở thành một loại từ ngữ thông dụng để
chửi người khác; thậm chí là ngay khi bản thân phụ nữ sử dụng, hiện tượng này
vẫn luôn hàm ẩn sự tồn tại của hành động hạ thấp giá trị của chính bản thân mình.
Vì vậy, nếu người nữ chửi tục xuất phát từ ý thức nam nữ bình đẳng giới hoặc
thậm chí là công kích vào nam giới, thì họ lại rơi vào tư duy phụ quyền, trở thành
kẻ tòng phạm bóc lột phụ nữ, và cũng có tư tưởng gián tiếp thừa nhận vai trò chúa
tể của nam giới đối với phụ nữ.

Đến cấu trúc “mẹ nó”, đây là một kết cấu khuyết động từ của mẫu câu sau:
(cái gì) --------- mẹ -------- (của) nó
Tức: Who ---- Mother ----- (something?)
Cách chuyển đổi này thực chất là người hành động tránh được trách nhiệm một
cách rất có hiệu quả. Câu nói tục này rất khác biệt với các câu nói tục khác, đây là
một kết cấu đại / danh từ – đại / danh từ, nhưng lại có thể đạt được mục đích chửi
mắng người khác, nên đây là quốc mạ (câu chửi mang tính quốc gia) của Trung
Quốc. Cũng chính vì ở đây có sự vắng mặt của cả động từ lẫn từ chỉ cơ quan sinh
thực khí, và đại / danh từ được lựa chọn ở đây không phải là “bạn / mày”, mà là
“nó”, người nói tránh được sự đối lập trực tiếp với đối phương ngay tại hiện
trường, càng có thể tranh luận là không có làm gì cả, hoặc giả đùn đẩy trách nhiệm
ấy. Đại / danh từ được lựa chọn không phải là “bạn / mày” mà là “nó”, điều này đã
gợi ý rằng, khi ấy, tình cảnh xã hội của bản thân là thấp hơn hoặc ngang bằng với
đối phương. Hai bên ngang nhau khi sử dụng ngôn ngữ có cùng chức năng, thì
cách nói này sẽ trở nên hòa dịu hơn là “đ… mẹ mày”, bởi vì cả hai đều không chỉ
đến mẹ của đối phương, nếu như phân định ra sức đối kháng giữa bên “bọn tao”
và “bọn mày” thì hiệu quả càng rõ ràng hơn. Điều đáng chú ý là, tại sao chữ “mẹ”
vẫn được giữ lại? Điều này có quan hệ với việc hạn định của hệ thống phụ quyền
đối với vai trò của người mẹ như thế nào?
Trần Khắc (1995: 305-30) chỉ ra rằng, Lỗ Tấn đưa “mẹ nó” làm thành lời chửi
của cả nước chính là vì lời chửi này phản ánh được nội dung hạt tâm của ngôn từ
tục truyền thống. Theo cách nói của Lỗ Tấn, thì “mẹ nó” đã tỉnh lược đi một động
từ và một danh từ, và đồng thời đổi sang ngôi nhân xưng thứ ba, nhưng ý nghĩa
muốn diễn đạt chính là “tôi đã phát sinh quan hệ tính giao với mẹ của bạn”. Dựa
theo quan niệm giá trị truyền thống, thì câu nói này có ba ý nghĩa hàm ẩn: Thứ
nhất, người Trung Quốc từ trước đến nay có cách nhìn nhận không bình đẳng về