
TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 543 - THÁNG 10 - SỐ ĐẶC BIỆT - 2024
365
ỨNG DỤNG THANG ĐIỂM NPI-Q TRONG ĐÁNH GIÁ RỐI LOẠN
TÂM THẦN KINH TRÊN BỆNH NHÂN SA SÚT TRÍ TUỆ
Ở ĐƠN VỊ TRÍ NHỚ VÀ SA SÚT TRÍ TUỆ BỆNH VIỆN 30-4
Trần Công Thắng1, Lương Phan Bảo Duy2, Nguyễn Thị Thúy Duy3
TÓM TẮT47
Đặt vấn đề: Hầu hết người bệnh sa sút trí tuệ
đều có những vấn đề về rối loạn hành vi tâm lí,
hay còn gọi là rối loạn tâm thần kinh, đặc biệt ở
giai đoạn trung bình-nặng của bệnh. Các triệu
chứng loạn thần, như hoang tưởng và ảo giác,
làm nặng thêm tình trạng người bệnh và tăng
gánh nặng cho người chăm sóc. Việc phát hiện,
đánh giá rối loạn tâm thần kinh là vô cùng quan
trọng để điều trị kịp thời, có hiệu quả cho người
bệnh. Ứng dụng thang điểm NPI-Q giúp cụ thể
hóa một cách hệ thống việc đánh giá này. Mục
tiêu: Áp dụng thang điểm NPI-Q cho người bệnh
sa sút trí tuệ tại Đơn vị Trí nhớ và sa sút trí tuệ -
Bệnh viện 30-4 để đánh giá các rối loạn tâm thần
kinh. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt
ngang mô tả trên 21 người bệnh sa sút trí tuệ về
các rối loạn tâm thần kinh của họ được ghi nhận
trong hồ sơ bệnh án và sau khi áp dụng thang
NPI-Q tại Đơn vị Trí nhớ và sa sút trí tuệ - Bệnh
viện 30-4 từ tháng 11 năm 2022 đến tháng 05
năm 2023. Kết quả: Nhóm tuổi 61-70 chiếm tỉ lệ
cao nhất (57,14%). Tỉ lệ nữ/nam là 1,625. Trình
độ học vấn trung học phổ thông và đại học chiếm
1Đại học Y Dược TPHCM
2Bệnh viện 30-4
3Trường Y Dược, Đại học Trà Vinh
Chịu trách nhiệm chính: Trần Công Thắng
ĐT: 0903674732
Email: trancongthang@ump.edu.vn
Ngày nhận bài: 14/8/2024
Ngày gửi phản biện: 14/8/2024
Ngày duyệt bài: 24/8/2024
28,57%. Việc phát hiện các triệu chứng tâm thần
kinh trước và sau khi dùng NPI-Q là không khác
biệt giữa các nhóm tuổi, giới tính, trình độ học
vấn (p>0,05). Số triệu chứng rối loạn tâm thần
kinh trung bình trước khi dùng NPI-Q là 1,38,
khi áp dụng NPI-Q là 4,86. Có sự khác biệt ý
nghĩa giữa số triệu chứng phát hiện được trước
và sau khi dùng NPI-Q (p<0,05). Các triệu chứng
tâm thần kinh phát hiện bằng NPI-Q độc lập với
mức độ sa sút trí tuệ theo thang điểm MMSE
(p>0,05). Kết luận: Rối loạn tâm thần kinh là
biểu hiện thường gặp ở nhóm người bệnh sa sút
trí tuệ bất kể nhóm tuổi, giới tính và trình độ học
vấn. Trước khi sử dụng NPI-Q, tỉ lệ phát hiện các
rối loạn tâm thần kinh trên người bệnh là rất
thấp. Sau khi dùng NPI-Q, tỉ lệ trên tăng hơn 3,5
lần.
Từ khoá: NPI-Q, sa sút trí tuệ, rối loạn tâm
thần kinh
SUMMARY
APPLICATION OF NPI-Q SCALE IN
ASSESSING
NEUROPSYCHOLOGICAL
DISORDERS ON PATIENTS WITH
DEMENTIA IN THE MEMORY AND
DEMENTIA UNIT 30-4 HOSPITAL
Background: Most people with dementia
have problems with psychological behavioral
disorders, also known as neuropsychiatric
disorders, especially in the moderate-severe
stages of the disease. Psychotic symptoms such
as delusions and hallucinations contribute to the
worsening of the patient's condition and increase

HỘI NGHỊ KHOA HỌC TOÀN QUỐC CHUYÊN NGÀNH ĐỘT QUỴ VÀ CÁC BỆNH THẦN KINH LIÊN QUAN LẦN THỨ X
366
the burden on caregivers. Detecting and
assessing neuropsychiatric disorders is extremely
important for timely and effective treatment for
patients. Applying the NPI-Q scale helps to
systematically specify this assessment.
Objectives: Applying the NPI-Q scale to patients
with dementia at the Memory and Dementia Unit
- 30-4 Hospital to assess neuropsychiatric
disorders. Methods: Cross-sectional descriptive
study of 21 patients with dementia on their
neuropsychiatric disorders recorded in their
medical records and after applying the NPI-Q
scale at the Memory and Dementia Unit - 30-4
Hospital from 2022 to 2023. Results: The age
group 61-70 accounted for the highest proportion
(57.14%). The female/male ratio was 1.625. The
level of education of high school and university
accounted for 28.57%. The detection of
neuropsychiatric symptoms before and after
using NPI-Q was not different between age
groups, gender, and education level (p>0.05).
The average number of neuropsychiatric
symptoms before using NPI-Q was 1.38, when
applying NPI-Q was 4.86. There was a
significant difference between the number of
symptoms detected before and after using NPI-Q
(p<0.05). Conclusion: Neuropsychiatric
disorders are common in patients with dementia
regardless of age, gender, and educational level.
Before using NPI-Q, the rate of neuropsychiatric
disorders in patients was very low. After using
NPI-Q, the rate increased more than 3.5 times..
Keywords: NPI-Q, dementia,
neuropsychiatric disorders
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ước tính trên toàn cầu, tỉ lệ mắc sa sút trí
tuệ lên đến 7% số người trên 65 tuổi. Tuổi
cao, di truyền và bệnh mạch máu là những
yếu tố nguy cơ chính gây ra bệnh này1,7 Hiện
nay, 90% người bệnh sa sút trí tuệ mắc phải
các rối loạn tâm thần kinh, chẳng hạn như
trầm cảm, lo âu, dễ kích động.2,3 Đặc biệt,
chúng ta phải đề cập đến hoang tưởng và ảo
giác, góp phần vào quá trình nặng thêm của
sa sút trí tuệ và tăng gánh nặng cho người
chăm sóc.2,4 Hai triệu chứng loạn thần này có
xu hướng gia tăng theo thời gian và theo mức
độ bệnh.
Điều trị các rối loạn tâm thần kinh là một
trong ba phần không thể thiếu, bên cạnh điều
trị yếu tố nguy cơ và điều trị suy giảm nhận
thức, giúp bao phủ các vấn đề mà người bệnh
gặp phải, từ đó hướng đến những phương
pháp điều trị có hiệu quả, giúp người bệnh
cải thiện chất lượng cuộc sống và giảm gánh
nặng cho gia đình, xã hội.
Chính vì thế, việc ứng dụng một công cụ
đánh giá nhằm phát hiện các rối loạn tâm
thần kinh là cần thiết trong việc quản lí
người bệnh, giúp bác sĩ đưa ra hướng điều trị
phù hợp, giảm gánh nặng cho người nhà.
Một trong số đó là NPI-Q. Thang điểm này
đánh giá sự hiện diện của 12 triệu chứng rối
loạn tâm thần kinh ở người bệnh có sa sút trí
tuệ, đồng thời cung cấp một chỉ số để đánh
giá mức độ căng thẳng mệt mỏi của người
chăm sóc. Trong những năm qua, NPI-Q đã
trở nên phổ biến, được dịch và áp dụng ở
một số quốc gia trên thế giới.
Tại Việt Nam trong thực hành lâm sàng,
việc phát hiện và đánh giá rối loạn tâm thần
kinh trên người bệnh sa sút trí tuệ hầu như
không được chú ý hoặc đánh giá một cách
rời rạc. Bằng chứng là chưa đơn vị nào ứng
dụng những công cụ một cách quy củ, có hệ
thống để quản lí các rối loạn trên ở người
bệnh. Chính vì những lí do trên, chúng tôi
tiến hành nghiên cứu này.

TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 543 - THÁNG 10 - SỐ ĐẶC BIỆT - 2024
367
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu: Người bệnh
đã được chẩn đoán sa sút trí tuệ đến tái khám
cùng người chăm sóc trực tiếp tại Đơn vị Trí
nhớ và sa sút trí tuệ của bệnh viện 30-4 từ
tháng 11/2022 đến tháng 05/2023.
Tiêu chuẩn chọn mẫu: Người bệnh được
chẩn đoán sa sút trí tuệ, được người chăm
sóc trực tiếp dẫn đến tái khám tại Đơn vị Trí
nhớ và sa sút trí tuệ, và cả hai đều đồng ý
tham gia nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ: tiền căn mắc bệnh
trầm cảm, các triệu chứng loạn thần như
hoang tưởng, ảo giác trước khi có chẩn đoán
sa sút trí tuệ; tiền căn sử dụng chất kích
thích.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu tiến cứu, cắt ngang mô tả,
được thực hiện từ tháng 11/2022 - 05/2023
tại Đơn vị Trí nhớ và sa sút trí tuệ Bệnh viện
30-4
Phương pháp thu thập và xử lý số liệu
Các bước thu thập: Người bệnh và người
chăm sóc trực tiếp sau khi được giải thích rõ
ràng về mục tiêu, phương pháp tiến hành và
điều kiện khi tham gia, nếu đồng ý sẽ kí vào
một bản đồng ý tham gia. Người chăm sóc
người bệnh sẽ tự trả lời trực tiếp bằng cách
đánh dấu vào các ô tương ứng trong bộ câu
hỏi, hoặc trả lời gián tiếp thông qua người
phỏng vấn.
Xử lý số liệu: Các số liệu thu thập sẽ
được nhập liệu bằng phần mềm Excel, sau đó
được xử lý trên phần mềm Stata 14.2, tính tỉ
lệ phần trăm, trung bình, độ lệch chuẩn. So
sánh tỉ lệ bằng kiểm định ANOVA, kiểm
định t. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi p
< 0,05.
Y đức: Nghiên cứu được thông qua bởi
Hội đồng Đạo đức trong Nghiên cứu Y sinh
học của Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh,
số 837/HĐĐĐ-ĐHYD, ngày 08 tháng 11
năm 2022
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Chúng tôi thu thập được 21 mẫu đủ tiêu
chuẩn chọn tại Đơn vị Trí nhớ và sa sút trí
tuệ Bệnh viện 30-4 từ tháng 11/2022 đến
tháng 05/2023. Chúng tôi ghi nhận được kết
quả như sau: tỉ lệ nữ 62% và nam 38%, tuổi
người bệnh từ 50 đến 90, trong đó 57,14%
tập trung vào nhóm 61-70 tuổi, hơn 50% đối
tượng nghiên cứu có học vấn cao (THPT và
đại học).
3.1. Tỉ lệ phát hiện rối loạn tâm thần
kinh trước và sau khi dùng NPI-Q
Bảng 1. Số triệu chứng phát hiện trước và sau khi áp dụng NPI-Q (n=21)
TB ± ĐLC
Tỉ lệ
Trước khi dùng NPI-Q
1,38 ± 1,36
3,52
Sau khi dùng NPI-Q
4,86 ± 2,22
Trước khi dùng NPI-Q, số triệu chứng trung bình phát hiện được là 1,38. Sau khi dùng
NPI-Q, số triệu chứng trung bình tăng lên thành 4,86. Tỉ lệ phát hiện rối loạn tâm thần kinh
sau khi dùng NPI-Q gấp 3,52 lần so với không dùng.
3.2. Mối liên quan giữa đặc điểm dịch tễ học với các rối loạn tâm thần kinh trên
người bệnh sa sút trí tuệ

HỘI NGHỊ KHOA HỌC TOÀN QUỐC CHUYÊN NGÀNH ĐỘT QUỴ VÀ CÁC BỆNH THẦN KINH LIÊN QUAN LẦN THỨ X
368
Bảng 2. Mối liên quan giữa đặc điểm dịch tễ học với số triệu chứng trung bình phát
hiện bẳng NPI-Q
Đặc điểm dịch tễ học
Số triệu chứng TB ĐLC
p
Giới
Nam
Nữ
4,38 2,26
5,15 2,23
0,45*
Tuổi
50 – 55
56 – 60
61 – 65
66 – 70
71 – 75
76 – 80
> 80
5,5 0,71
1 0
6,17 1,33
6 1,55
4 0
6 0
1,75 0,96
0,001**
Trình độ học vấn
Tiểu học
THCS
THPT
Đại học
Sau đại học
3,75 3,4
5,25 3,1
6 0,89
3,83 1,17
7 0
0,31**
*Kiểm định t với phương sai đồng nhất, ** Kiểm định ANOVA
Có sự khác biệt giữa số triệu chứng trung
bình phát hiện được giữa các nhóm tuổi khi
khảo sát bằng NPI-Q (p=0,001). Số triệu
chứng trung bình phát hiện thay đổi tùy theo
nhóm tuổi của người bệnh. Không có sự khác
biệt về số triệu chứng trung bình ở các nhóm
có trình độ học vấn khác nhau (p=0,31) và
giữa hai nhóm giới tính (p=0,45)
3.3. So sánh sự khác biệt của trung
bình số triệu chứng phát hiện trước và sau
khi áp dụng NPI-Q
Bảng 3. Kết quả so sánh trung bình số triệu chứng trước và sau khi áp dụng NPI-Q
Số triệu chứng TB ĐLC
p
Trước khi dùng NPI-Q
1,38 1,36
0,000*
Sau khi dùng NPI-Q
4,86 2,22
*Kiểm định t bắt cặp
Chúng tôi ghi nhận số triệu chứng trung bình được phát hiện sau khi áp dụng bảng NPI-Q
tăng có ý nghĩa thống kê (p<0,05)

TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 543 - THÁNG 10 - SỐ ĐẶC BIỆT - 2024
369
3.4. So sánh số ca mắc triệu chứng tâm thần kinh phát hiện được bằng NPI-Q so với
khi không dùng NPI-Q
Bảng 4. Số ca mắc triệu chứng được phát hiện trước và sau khi dùng NPI-Q
Triệu chứng
Số ca phát hiện trước khi
dùng NPI-Q
Số ca phát hiện khi
dùng NPI-Q
Hoang tưởng
3
6
Ảo giác
1
3
Kích động
4
12
Trầm cảm
0
7
Lo âu
1
12
Hưng cảm
2
4
Thu rút
3
10
Mất kiềm chế
0
5
Dễ kích thích
9
15
Hành vi bất thường
1
11
Rối loạn hành vi ban đêm
4
11
Thói quen ăn uống khác thường
1
6
Bằng công cụ NPI-Q, chúng tôi phát hiện
thêm người bệnh đang mắc các rối loạn tâm
thần kinh mà nếu không dùng thì không phát
hiện được. Trong đó, nhóm triệu chứng trầm
cảm và mất kiềm chế không được báo cáo
trong bệnh án trước khi áp dụng NPI-Q
3.5. Khảo sát mối liên quan giữa số
triệu chứng tâm thần kinh trung bình
phát hiện bằng NPI-Q và mức độ sa sút trí
tuệ người bệnh dựa trên điểm MMSE
Bảng 5. Mối liên quan giữa rối loạn tâm thần kinh và mức độ sa sút trí tuệ dựa trên
MMSE
Mức độ sa sút trí tuệ dựa
trên MMSE
Tần suất (người)
Tỉ lệ phần trăm
Số triệu chứng
TB ĐLC
p
Nhẹ (20-24 điểm)
Trung bình (10-19 điểm)
Nặng (≤ 10 điểm)
5 (23,81%)
9 (42,86%)
7 (33,33%)
5,4 ±1,51
4,11 ± 2,42
5,43 ± 2,37
0,43*
*Kiểm định ANOVA
Số triệu chứng rối loạn tâm thần kinh
phát hiện bằng NPI-Q không phụ thuộc vào
mức độ sa sút trí tuệ dựa trên MMSE (p=
0,43)
IV. BÀN LUẬN
Hiện nay, các thang điểm cũng như
phương pháp đánh giá rối loạn tâm thần kinh
trên người bệnh sa sút trí tuệ được đề ra rất
nhiều. Một trong những công cụ phổ biến
nhất để phát hiện và đánh giá rối loạn tâm
thần kinh trong sa sút trí tuệ là NPI.5 Công cụ
này rất hữu ích và được sử dụng rộng rãi
trong nghiên cứu. Tuy nhiên, một bảng NPI
đầy đủ sẽ mất 60 phút để hoàn thành, dẫn
đến tốn nhiều thời gian đối với chuyên gia y