3
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Tổng quan nghiên cứu về ứng phó với căng thẳng và sức khỏe tâm thần của trẻ
mắc bệnh mạn tính
1.1.1. Tổng quan nghiên cứu về ứng phó với căng thẳng của trẻ mắc bệnh mạn tính
Trong quá trình mắc bệnh, trẻ vị thành niên có thể chịu tác động bởi nhiều tác
nhân gây căng thẳng liên quan tới bệnh. Những hệ quả của căng thẳng kéo dài lên sức
khoẻ thể chất và SKTT đã được nghiên cứu và thừa nhận qua nhiều bằng chứng khoa học.
Những căng thẳng này còn có thể tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tới sự tuân thủ điều trị
và hiệu quả điều trị, là những yếu tố nguy cơ đối với sự thích ứng và phục hồi khi mắc
bệnh. Cách trẻ ứng phó có thể là một yếu tố điều tiết, làm thay đổi tác động của căng
thẳng tới trạng thái tâm lý xã hội của trẻ (Jaser, 2017).
Theo Rodriguez (2012): có 3 nhóm tác nhân gây căng thẳng là những thay đổi
trong cuộc sống; các tác động của bệnh trên cơ thể; sự không chắc chắn về tiến triển của
bệnh. Có những tác nhân có thể kiểm soát được, và một số tác nhân là không thể kiểm
soát. Ứng phó giải quyết vấn đề thường ít hiệu quả với tác nhân không kiểm soát, thay
vào đó, những ứng phó giúp trẻ thích ứng với căng thẳng như tái cấu trúc nhận thức, làm
xao nhãng dường như có ý nghĩa hơn.
Các nghiên cứu của Olson (1993), Spirito (1995) và một số nhà khoa học khác đã
chỉ ra không có sự khác biệt giữa mẫu hình ứng phó với căng thẳng giữa trẻ mắc bệnh và
trẻ không mắc bệnh, và đây là một mẫu hình tương đối bền vững theo thời gian, cả hai
nhóm trẻ này đều sử dụng các ứng phó tập trung vào vấn đề, tập trung vào cảm xúc và né
tránh với tỷ lệ và mức độ tương đương nhau. Tuy nhiên, Hampel (2005) cho biết trẻ mắc
bệnh mạn tính thường ứng phó tốt hơn trẻ không mắc bệnh và ít sử dụng các chiến lược
né tránh thụ động hơn.
Một số yếu tố liên quan tới ứng phó ở trẻ vị thành niên mắc bệnh mạn tính:
- Giới tính: Một số nghiên cứu cho thấy có sự khác biệt về các chiến lược ứng phó
với bệnh mạn tính nói chung giữa nam và nữ, trong khi một số nghiên cứu khác chưa
chứng minh được điều này. Theo Spirito (1995), trẻ nữ thường sẽ tìm những trợ giúp xã
hội hoặc né tránh, tập trung vào cảm xúc, còn trẻ nam thường sử dụng nhiều tái cấu trúc
nhận thức và tự trách bản thân.