Vài chỉ số tiêu dùng của

người Á Châu

Không chắc chắn về tương lai, tiết kiệm mà muốn có nhiều tiền

hơn. Đó là những phát hiện mới nhất của Grey Group châu Á –

Thái Bình Dương trong cuộc khảo sát người tiêu dùng chấu Á có

tên là Eye on Asia 2009. Nghiên cứu này tập trung vào hy vọng

và mơ ước của người dân tại 16 quốc gia tại khu vực châu Á –

Thái Bình Dương, trong đó có Việt Nam.

Không chắc chắn về tương lai

Theo khảo sát của Eye on Asia, nhìn chung sư lạc quan của

người châu Á đã giảm đi đáng kể. Tâm trạng chán nản về tài

chính khiến thái độ của họ trở nên tiêu cực. Sự bi quan dẫn đến

gia tăng xu hướng làm việc và tiết kiệm nhiều hơn. Có đến 76%

người dân châu Á tin rằng tương lai sẽ tốt đẹp hơn quá khứ trong

khi chỉ có 30% tin tưởng chắc chắn điều này. Mức độ lạc quan

này chủ yếu được tìm thấy tại Bangladesh, Sri Lanka và Việt

Nam.

Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng người châu Á không chắc chắn về

tương lai, chỉ 30% bằng lòng hơn năm ngoái trong khi 39% lại

kém hài lòng hơn. Rõ ràng nhất là mức độ hài lòng ở Đài Loan

(60%) và Hàn Quốc (50%) đã giảm đi. 63% người châu Á hài

lòng với cuộc sống hiện tại, nhưng con số cụ thể ở các quốc gia

có sự chênh lệch rất lớn, đặc biệt là tại những quốc gia có phần

lớn dân số không thỏa mãn với cuộc sống hiện tại như Đài Loan,

Indonesia, Hồng Kông và Nhật Bản.

Muốn có nhiều tiền nhưng sẽ bận rộn hơn

Cuộc suy thoái kinh tế khiến 80% dân số châu Á phải tiết kiệm

cho tương lai. 50% hưởng ứng những biện pháp cắt giảm chi phí

và tích cực tìm kiếm hàng hóa có mức giá phù hợp để tiết kiệm

tiền. Chỉ 45% thấy thoải mái về tài chính hiện tại trong khi có đến

97% muốn có nhiều tiền hơn nữa.

Nghiên cứu cũng cho thấy 46% người dân châu Á rất quan tâm

đến tiền bạc trong nhà. Sức ép từ những khó khăn về tài chính

thúc đẩy các bà mẹ trước kia không đi làm thì nay cũng tham gia

vào lực lượng lao động. 89% đồng ý rằng với tình hình kinh tế

ngày nay, phụ nữ cần đi làm để tăng thu nhập cho gia đình. Tuy

nhiên, điều này cũng dẫn đến tình trạng tiến thoái lưỡng nan bởi

họ phải làm tốt cả hai vai trò trong sự nghiệp và gia đình. 81%

cảm thấy các bà mẹ ngày nay quá bận rộn và không có đủ thời

gian dành cho con cái. Nếu được lựa chọn, nhiều người sẽ thích

ở nhà chăm sóc con cái. Nhưng cũng có không ít bà mẹ khác cho

rằng có một sự nghiệp thành đạt giúp họ cân bằng và thích nghi

với vai trò làm mẹ tốt hơn. 62% phụ nữ châu Á cảm thấy hài lòng

về vai trò làm mẹ của mình. Mức độ hài lòng cao nhất ở những

quốc gia đang phát triẻn như Bangladesh và Việt Nam, trong khi

mức độ hài lòng thấp nhất tồn tại ở quốc gia giàu có như Nhật

Bản, Hàn Quốc và Đài Loan.

Mua hàng online nhiều hơn

Suy thoái kinh tế cũng tạo ra những biến đổi mạnh mẽ trong thói

quen mua sắm của người châu Á và xuất hiện nhiều hành vi mua

hàng mới. Khủng hoảng làm cho người tiêu dùng trì hoãn các

quyết định mua hàng cho đến khi thấy hàng hóa hiện hữu trước

mặt. Với suy nghĩ và tâm lý phức tạp của người mua hàng ngày

nay, ít nhất 75% các quyết định mua hàng được thực hiện trong

khu vực bán lẻ.

81% các bà mẹ châu Á cảm thấy thiếu thời gian, do vậy, cần làm

cho môi trường bán lẻ trở nên thú vị và đơn giản hơn. Hoạt động

marketing phải thúc đẩy niềm cảm hứng của cả khách hàng,

người mua hàng và thương hiệu.

Thế hệ người châu Á mới cũng tiếp thu thông tin, tin tức và giải trí

bằng nhiều kênh khác nhau. 51% những người được hỏi đã mua

hàng qua mạng, 92% tại Hàn Quốc và Nhật Bản, so với 73% tại

Úc. Lý do chính là việc so sánh giá cả dễ dàng được thực hiện tại

kênh mua bán này. Nhưng điều đó không có nghĩa giá cả là yếu

tố quyết định. Trên thực tế, thông điệp truyền tải giá trị sản phẩm

mới là yếu tố quan trọng và việc các thương hiệu ảnh hưởng tạo

ra giá trị như thế nào mới là yếu tố quyết định.

Các nhóm tiêu dùng thương hiệu tại châu Á: gồm có năm

phân khúc riêng biệt.

• Những người thích thương hiệu “mới” (21%): thích cái mới,

bởi nó là mới lạ và khác biệt.

• Những người tìm kiếm giá trị đích thực (23%): Tìm kiếm giá

trị gia tăng, sự kết nối tình cảm và sự tin cậy, khao khát giá trị

ngoài chức năng thông thường.

• Những người tin vào chủ nghĩa cá nhân (21%): Thích những

thương hiệu sành điệu, hợp thời trang nhưng nổi tiếng, đặt

những tiêu chuẩn cao nhất cho các thị hiếu của mình.

• Những người tìm kiếm địa vị (19%): Chạy theo những thương

hiệu hàng đầu, cần sự đảm bảo và chứng nhận rằng họ đang sở

hữu những gì tốt nhất.

• Những người coi trọng chức năng của sản phẩm (16%):

Thực tế và thực dụng, bị thu hút bởi chất lượng và độ bền.