348
XÂY DNG ĐI HC S - NHỮNG ĐIỀU CN BIT
Nguyễn Quốc Khánh*, Đỗ Cao Minh
Khoa Công ngh thông tin, Trường Đại hc Công nghip Vit Trì
*Email: khanhmckm@gmail.com
Tóm tắt
Cùng với su thế phát triển của hội loài người, giáo dục cũng cần phải thay đổi
phát triển cho cập, đặc biệt việc xây dựng các trường đại học trong thời đại công nghệ
số để tiến tới đại học số. Trong bài viết này tác giả đưa ra cái nhìn đúng đắn về mô hình
đại học số và từ đó đề xuất việc xây dựng môi trường dạy học số, phương pháp dạy học
số và giảng viên trong trường đại học số.
Từ kha: Đại học số, môi trường dạy học số, phương pháp dạy học số, giảng viên đại
học số.
BUILDING DIGITAL UNIVERSITY - THINGS YOU NEED TO KNOW
Abstract
Along with the development trend of human society, education also needs to change
and develop accordingly, especially the construction of universities in the digital age to
progress to digital universities. . In this article, the author gives a correct view of the
digital university model and then proposes the construction of a digital teaching
environment, digital teaching methods and lecturers in a digital university.
Keywords: Digital university, digital teaching environment, digital teaching methods,
digital university lecturers.
1. ĐẶT VN Đ
Tháng 6 năm 2020 Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định phê duyệt Chương trình
Quốc gia về Chuyển đổi số [1]. Chuyển đổi số đang trở thành một xu thế tất yếu trên
phạm vi toàn thế giới, là giải pháp quan trọng để đưa Việt Nam phát triển nhanh và bền
vững. Trong bối cảnh đó, các Trường Đại học ở Việt Nam đang tiến đến Đại học số [2]
để duy trì được sứ mạng đào tạo của mình trong tương lai. Vấn đề đặt ra đây Đại
học số gì, phương pháp giảng dạy trong Đại học số như thế nào nội dung bài
viết sẽ giải đáp.
2. NI DUNG NGHIÊN CU
2.1. Mô hình Đại học số trên nền tảng Công nghệ số
Đại học số là một khái niệm mới, mô hình mới của thời đại số, chưa có tiền lệ, chưa
có hình mẫu, đang được hình thành và chưa được định nghĩa tường minh. Nội hàm của
Đại học số phụ thuộc vào bước phát triển của công nghệ số.
Ti thi đim hin tại, đang tồn ti các công ngh:
- IOT (kết ni vn vt). IOT cho phép mi đ vt, mỗi con người được cung cp mt
định danh ca riêng mình và tt c đều có kh năng truyền tải trao đổi thông tin d liu
349
qua mng không cn s tương tác trc tiếp giữa người với người hay người vi
máy tính.
- Đin thoi thông minh iPod. S dụng iPod thông minh ngưi hc th d dàng
tìm ra câu tr lời nhanh hơn bất c giáo sư nào và lúc này tri thức cơ bản không phi là
nhng s kin cn phi ghi nhớ. Lúc đó ngưi hc không cần đến lp ch cn
điện thoi kết ni internet là có th theo dõi được bài ging.
- Điện toán đám mây (cloud computing). Đó là các “trang trại server(server farm)
ln do Amazon, Google các công ty khác qun lý, nơi một lượng d liu cc ln
được tn tr để ngưi dùng th ly v ti bt c nơi nào trên thế gii. Đây là s kết
hp gia công ngh thế gii thc, thế gii o thế gii sinh vt cho phép thông tin,
kiến thc, tri thc ca nhân loại thường xuyên đưa lên “mây” cho bt c mọi ngưi tra
cu.
- Trí tu nhân to (AI) là nn tảng cơ bản to nên CM công nghip 4.0. AI Chatbot
nn tảng đổi mi giáo dc th thu thp thông tin v s thích, thói quen, phương
pháp hc của ngưi hc. Chatbot th hiểu là chương trình y tính da trên AI
phng các cuc hi thoi của con ngưi…
Vy th d nhn thy IOT, Điện thoại thông minh, Điện toán đám y, Ttu
nhân tạo ….là những “viên gạch” tạo nn tảng cơ bản hình thành Đại hc số. Do đó
th định nghĩa một cách chung nhất đó Đại học số hình Đại học mới
đ toàn bộ nội dung giảng dạy và hoạt động uản l của Trường Đại học được đưa
lên môi trường số thông ua các nền tảng số và các phương tiện kỹ thuật số”.
2.2. Xây dựng môi trưng s xoay uanh sinh viên trong Đại hc s [2],[3]
Để hình thành Đại học số thì việc đầu tiên đưa toàn bộ các bài giảng của giảng viên
cùng mọi hoạt động của Trường Đại học lên môi trường số. AI, điện toán đám y,
điện thoại thông minh, IOT không chỉ công cụ phương tiện còn trở thành tác
nhân (actor) môi trường số. Cũng giống như cá sng được là nh môi trường nước,
Đại học số tn ti là nh môi trường số.
Xây dựng môi trường slà nhằm tạo một hệ sinh thái số xoay quanh sinh viên. Mỗi
sinh viên, giảng viên, các bộ phục vụ, những đồ vật hữu hình (giảng đường, lớp học,
phòng thí nghiệm ), những đồ vật hình (thời khóa biểu, thư viện số, học liệu số,
lịch kiểm tra, lịch thi …)... được cung cấp một định danh số của riêng mình. NhIOT
(kết nối vạn vật) tất cả những định danh sđó đều khả năng truyền tải trao đổi
thông tin dữ liệu với nhau.
Khi đã hình thành môi trường số với một hệ sinh thái số, thì mọi hoạt động học tập
giảng dạy, quản giáo dục đều thực hiện trên môi trường số. Do mỗi sinh viên đã
một định danh số nên mọi sinh hoạt trong trường của sinh viên đều thể được thực
hiện thông qua smartphone hoặc iPod thông minh. Sinh viên ngồi nhà thể kết nối
350
và tương tác với toàn bộ quá trình đào tạo (thời khóa biểu, tiến trình học tập, thư viện,
học liệu số, thực tập, thi kiểm tra) và các dịch vụ tại Trường (ký túc xá, căng tin, nhà xe,
khu thể thao; dịch vụ tiện ích, làm thêm…). thể sử dụng các bảng tương tác thông
minh, sử dụng học liệu số, quản trị học tập số để học trực tuyến (e-learning), để gia
tăng hiệu quả học tập.
Sinh viên s dụng đnh danh s để kim tra xem m nay mình hc lp nào,
phòng nào, hc môn gì, giảng viên ai, đăng môn học, đăng thi lại,… Ngi ti
nhà, dùng định danh, kết ni vi app (ng dng) ca iPod thông minh, sinh viên thc
hin các th tc, các dch v cho vic ging dy hc tp trc tuyến,.. th n
sách, hoc đ kiểm tra xem mình đã đóng học phí chưa, buổi trưa nhà ăn có những món
gì, giá bao nhiêu, bui ti nhà ăn phục v những gì trước khi hc ca ti, th đặt trước
và thanh toán online,… Ngoài ra, mỗi mã định danh ca sinh viên có th được tích hp
vào mt th sinh viên đa năngtích hp tài khon ngân hàng. T đó sinh viên th
đóng học phí, gi xe, mua đồ ăn, sách vở tt c các dch v xut hiện trong trường
hc. Ngoài ra, th y gắn chip định danh theo giao tiếp gn hoc xa. Sinh viên
th tham gia lp hc và thi c theo các v trí được xác lp sn ca h thng.
Môi trường số được thực hiện trong môi trường Đại học sẽ giảm tải các phòng ban
trong trường. Giảm tải việc phân công cán bộ phục vụ sinh viên. Sinh viên sẽ chủ động
hơn trong cuộc sống. Lúc y sinh viên nmột người lao động thực thụ dễ dàng
tiếp cận với hội sau khi hoàn thành khóa học trường. Khi mọi hoạt động đã được
đưa lên môi trường số, sinh viên trở thành trung tâm của quá trình phục vụ đào tạo. Sinh
viên làm các thủ tục nhập học, thủ tục đăng học phần, thủ tục ra trường tốt nghiệp
một cách dễ dàng. Nhờ đó sinh viên điều kiện tập trung thời gian nhiều năng ợng
hơn để toàn tâm cho việc học tập.
Trong Đại học số, từ người gác cổng (nhân viên bảo vệ), giảng viên, đến Hiệu
trưởng… suy cho cùng cũng chỉ là người phục vụ sinh viên. Sinh viên trở thành thượng
đế, là người đóng học phí để nuôi Đại học số, đồng nghĩa họ chính là người phát lương
nuôi bộ máy của Trường.
2.3. Phương pháp dy học trong Đại hc s
2.3.1 Thay đổi tư duy trong dy hc
Trong Đại hc s, mi bài ging truyn thống cũng như bài giảng online ca mi
thế h ging viên, mi môn học đều được đưa lên hệ sinh thái số, để sinh viên có th
la chn hc bt c đâu, bất c khi nào. Trong Đại học số, thầy trò có định danh số từ
khắp nơi có thể tương tác được với nhau như đang ngồi trong lớp học. Khoảng cách về
địa lý, về không gian thời gian đã bị xóa nhòa. duy giáo dục truyền thống n
“đến trường” điểm danh mới là “đi học”, không đến trường là "không đi học" đã không
còn đúng nữa... Lúc y, trong sinh viên s xut hiện tư tưởng cc đoan: không cn thy
351
(vì sinh viên có th hc qua mng), không cn giảng đường (vì sinh viên không cn lên
lp), không cần thư viện (vì mi hc liệu đã được cung cp qua mạng) … vv. Sinh viên
s đến lớp “face to face” làm nếu lp ging viên dy không mới hơn các bài
giảng điện t trên môi trường s?
Trong bi cảnh đó, giảng viên trong đại hc s phải thay đổi hoàn toàn duy
cũng như phương pháp giảng dạy, thay đổi cách truyền đat kiến thc, k năng phù
hp nht cho mi sinh viên để thu hút ngưi hc.
2.3.2. Thay đổi vị thế của giảng viên thành người truyền cảm hứng cho sinh viên
Muốn có một Đại học số phải có các giảng viên tương thích với môi trường số, thích
ứng và làm chủ công nghệ số để phục vụ cho công tác giảng dạy. Cách đây 40 năm, khi
xuất hiện máy vi tính trong trường học, các giảng viên Đại học phải đi xóa tin học
để học cách sử dụng y vi tính làm phương tiện dạy học, thì ngày nay, trong môi
trường số, giảng viên Đại học phải m chủ công nghệ AI, để tạo ra các giảng viên ảo
hỗ trợ giảng dạy.
Cần phân biệt 2 khái niệm mới. Giảng viên thật người đi dạy. Giảng viên thật sử
dụng AI chatbot tạo ra giảng viên ảo, là bản sao (nhân bản) của giảng viên thật nhằm hỗ
trợ giảng viên thật. Những giảng viên thật với chuyên môn k năng phạm tốt sẽ
dạy giảng viên ảo những kiến thức chuẩn để giảng viên ảo truyền đạt kiến thức đó đến
với sinh viên. Mức độ “thông minh”, “trình độ”, “khả năng sư phạm” … của giảng viên
ảo phụ thuộc vào trình độ và cách dạy của giảng viên thật đối với giảng viên ảo.
Tại cùng một thời điểm, trên lớp học truyền thông (face to face) hay lớp học online,
rất nhiều sinh viên cùng lắng nghe bài giảng của Giảng viên thật. Nhưng khi tương tác
với sinh viên, tại một thời điểm, giảng viên thật chỉ thể trao đổi giải đáp thắc mắc cho
một sinh viên. Trong khi đó giảng viên ảo có thể “phân thân”, “nhân bản” thành nhiều
giảng viên ảo khác tương tác với nhiều sinh viên tại ng một thời điểm để trả lời các
câu hỏi mà sinh viên thường hỏi. Đặc biệt Giảng viên ảo có thể theo dõi tiến độ học tập
của từng sinh viên, cung cấp cho từng sinh viên những phản hồi được cá nhân hóa.
thể giới thiệu cho sinh viên những nội dung học tập phù hợp hơn bằng cách phân tích
những kỹ năng học tập những điểm còn thiếu sót. Giảng viên ảo sgiúp giảng viên
thật rất nhiều công việc đơn giản nhưng lại tiêu tốn nhiều thời gian như truyền thụ kiến
thức, chấm điểm, hướng dẫn sinh viên giải một số loại bài tập cơ bản, lưu trữ thông tin
về điểm số, theo dõi qtrình học tập của sinh viên… Tóm lại nhờ giảng viên ảo
giảng viên thật “cá thể hóa” việc học tập của sinh viên, hướng ti mi sinh viên mt
chương trình, giáo dục cho một người (Education of One). Lúc này Giảng viên thật mỗi
lần đến lớp (face to face) không còn người truyền thụ kiến thức mà trở thành người
truyền cảm hứng cho sinh viên, hướng dẫn thảo luận theo chđề đã được sinh viên
chuẩn bị ở nhà. Giảng viên là người dn dắt, để tránh cho sinh viên không b chìm ngp
352
trong đại dương thông tin, ng dẫn ngưi hc la chn thông tin kiến thc cn
thiết cho mình. Trước khi được th ra đại dương thông tin và tri thức s, sinh viên cn
được trang b nhng kiến thc cn thiết để biết cách la chn kiến thc phù hp cho
mình để tránh tình huống đứng trong rng mà không chọn đưc cây.
Giảng viên thật chỉ làm những việc mà giảng viên ảo chưa thể thay thế.
2.3.3. Đi học số định vị li phương thức Đào to Thc sĩ và Tiến sĩ
Tương tự như sinh viên, các học viên cao học nghiên cứu sinh (NCS) cũng được
cung cấp bởi một định danh tất cả các quy trình đào tạo từ nộp hồ đầu vào, bảo
vệ đề cương … đến lúc bảo vệ luận án đều thực hiện trên môi trường số. Học viên cao
học và NCS có thể ở nhà trao đổi online với giáo sư hướng dẫn, các thành viên hội đồng
trong buổi bảo vệ luận án. Với công nghệ số hiện này, NCS, học viên cao học, giáo viên
hướng dẫn hoàn toàn nhìn thấy nhau như cách học face to face. Tất cả các quy chế, quy
trình đào tạo Thạc sĩ và Tiến sĩ cần phải xây dựng lại để phù hợp với Đại học số.
3. KT LUN V TRAO ĐỔI
Như trên đã viết: Đại học số một khái niệm mới, chưa được định nghĩa tường
minh. Hiện tại nhiều người ngộ nhận dạy online một thành tố của Đại học số. Khi mà
Covid hoành hành d di trên toàn thế gii, giáo dc thế giới như lên cơn st, thì dy
hc online trong Đại hc s không đối th. Đây nhận định hoàn toàn sai. Theo
quan điểm của tác giả, cách thức dạy học online như đang diễn ra một số trường đại
học hiện nay (sử dụng MS Teams, Zoom Meeting,...) trường hợp bất đắc trong bối
cảnh covid bất ngờ ập đến. Việc giảng dạy online này đã gặp phải những phản ứng tiêu
cực từ sinh viên. Một sinh viên đã thốtn, học online bật loa rồi đi ngủ… vv.
mi ln điểm danh, hay khi các SV vào hc cùng mt lúc toàn b h thng b treo,
ging viên cũng không th kim soát được SV đang hc thc s hay không.... vv. Các
Trường Đại học chưa một nghiên cứu tầm khi triển khai online nên gặp phải
nhiều nhận xét giống nhận xét của một PGS “…..môn toán đặc trưng logic trừu
tượng nhất trong các môn, với môn này dạy offline sinh viên đã rất khó khăn để hiểu,
thi khi dùng "Đại số học", chắc chắn sinh viên sẽ khó hiểu hơn mất nhiều thời gian
hơn”.
Dưới góc độ của người đang nghiên cứu ứng dụng “AI in education”, tôi tin tưởng
rằng khi “nhúng” AI vào bài giảng online, khi nhân hóa được người học, thì bài
giảng online với trợ ảo sẽ hóa giải khó khăn trong quá trình dạy học online hiện nay
(sinh viên không tự giác học, giảng viên không kiểm soát được hết sinh viên,…)
Đại học số chỉ thực sự hình thành khi AI một thành tố trong dạy học. Trong Đại
học số, việc quản học tập của SV thông qua kiểm tra đánh giá. Nếu trong dạy học
truyền thống, đánh giá một SV thông qua một bài thi cuối kỳđiểm giữa kỳ, thì trong