
Ảnh hưởng của lạm phát đối với thuế TNCN GVHD: PGS-TS. Nguyễn Ngọc Hùng
SVTH: Lương Trung Quý 1
TIỂU LUẬN THUẾ
ẢNH HƯỞNG CỦA LẠM PHÁT ĐỐI VỚI THUẾ
THU NHẬP CÁ NHÂN
GVHD : PGS-TS. Nguyễn Ngọc Hùng
SVTH : Lương Trung Quý
Lớp : Ngân hàng Đêm 6 – K20

Ảnh hưởng của lạm phát đối với thuế TNCN GVHD: PGS-TS. Nguyễn Ngọc Hùng
SVTH: Lương Trung Quý 2
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
VÀ LẠM PHÁT
1. Khái quát chung về thuế thu nhập cá nhân (TNCN)
1.1. Khái niệm thuế thu nhập cá nhân
a. Định nghĩa thu nhập
Tùy theo mục đích nghiên cứu, các nhà kinh tế quan niệm về thu nhập dưới các góc độ khác
nhau. Hai nhà kinh tế Anh là R.M Haig và H.G Simons đầu thế kỷ 20 đã đưa ra định nghĩa về thu
nhập (sau này gọi là định nghĩa Haig-Simons) cho rằng thu nhập là tổng giá trị của cải ròng tăng
lên của một cá nhân cộng với sự tiêu dùng của người đó trong một thời gian nhất định, thường là
một năm. Quan điểm này mang tính lý thuyết và được chấp nhận rộng rãi. Tuy nhiên, trên thực tế
rất khó thực hiện, vì giá trị tăng thêm mới chỉ tồn tại ở tiềm năng, mặt khác lại biểu hiện dưới các
hình thức khác nhau như tiền, hàng hóa và dịch vụ song lại chỉ được thực hiện khi có sự chuyển
dịch quyền sở hữu.
Dựa trên cơ sở định nghĩa của Haig-Simons, các nhà kinh tế hiện đại đưa ra quan niệm mới
về thu nhập làm cơ sở đánh thuế TNCN
- Khái niệm bao quát: thu nhập là mọi khoản thu nhập ròng từ các nguồn sau khi khấu trừ
các chi phí tạo ra chúng.
- Quan niệm hạn hẹp: dựa trên cơ sở thu nhập chỉ giới hạn trong những lợi ích phát sinh lặp
đi lặp lại, có tính liên tục để hình thành phương thức đánh thuế thu nhập từ các nguồn phát
sinh thu nhập.
Dựa trên các định nghĩa trên có thể nhận thấy thu nhập có đặc điểm chung sau: Thu nhập là
tổng các tài sản và của cải được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ là một chủ thể nào đó trong nền
kinh tế - xã hội tạo ra và nhận được từ các nguồn lao động, tài sản hay đầu tư thông qua quá trình
phân phối tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân trong một khoảng thời gian nhất định

Ảnh hưởng của lạm phát đối với thuế TNCN GVHD: PGS-TS. Nguyễn Ngọc Hùng
SVTH: Lương Trung Quý 3
(thường là một năm).
b. Thuế thu nhập cá nhân
Thuế TNCN phát sinh, tồn tại và phát triển cùng với sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà
nước. Thuế xuất hiện khi trong xã hội xuất hiện sản phẩm thặng dư cùng với sự phân chia giai
cấp, Thuế được giai cấp thống trị dùng như một công cụ để tạo ra nguồn thu chủ yếu cho mọi nhu
cầu chi tiêu của bộ máy nhà nước nói chung hay của giai cấp thống trị nói riêng.
Trên cơ sở những khái niệm về Thuế, chúng ta có thể rút ra khái niệm về thuế TNCN theo
pháp luật hiện hành như sau: “Thuế thu TNCN là loại thuế chủ yếu đánh vào thu nhập của cá
nhân nhằm thực hiện công bằng xã hội, động viên một phần thu nhập của cá nhân vào ngân sách
nhà nước và có thể được sử dụng để điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua việc khuyến khích làm
việc hay nghỉ ngơi, thông qua việc thu hay không thu thuế đối với các khoảng thu nhập từ kinh
doanh, đầu tư,…. Thuế này được coi là loại thuế đặc biệt vì có lưu ý đến hoàn cảnh của các cá
nhân có thu nhập phải nộp thuế thông qua việc xác định miễn, giảm thuế hoặc khoản miễn trừ đặc
biệt.
1.2. Đặc điểm thuế thu nhập cá nhân
- Thuế TNCN là thuế trực thu, đánh vào thu nhập chính đáng của từng cá nhân. Do là thuế
trực thu nên nó phản ánh sự đồng nhất giữa đối tượng nộp thuế theo luật và đối tượng chịu
thuế theo ý nghĩa kinh tế. Người nộp thuế cũng là người chịu thuế, người chịu thuế TNCN
không có khả năng chuyển giao gánh nặng thuế sang cho các đối tượng khác tại thời điểm
đánh thuế.
- Thuế TNCN có diện đánh thuế rất rộng, thể hiện trên hai khía cạnh:
Thứ nhất, đối tượng đánh thuế TNCN là toàn bộ các khoản thu nhập của cá nhân thuộc
diện đánh thuế, không phân biệt thu nhập đó có nguồn gốc phát sinh trong nước hay ở
nước ngoài.
Thứ hai, đối tượng phải kê khai nộp thuế TNCN là toàn bộ những người có thu nhập
từ hoạt động kinh doanh, bao gồm tất cả công dân của nước sở tại và những người
nước ngoài cư trú thường xuyên hay không thường xuyên nhưng có số ngày có mặt,
làm việc, có thu nhập theo mức độ quy định của pháp luật thuế TNCN.
- Thuế TNCN là một hình thức động viên mang tính bắt buộc trên nguyên tắc theo luật

Ảnh hưởng của lạm phát đối với thuế TNCN GVHD: PGS-TS. Nguyễn Ngọc Hùng
SVTH: Lương Trung Quý 4
định. Phân phối khoản thu nhập qua thuế TNCN gắn với quyền lực, sức mạnh của Nhà
nước.
- Thuế TNCN là khoản đóng góp không hoàn trả trực tiếp cho người nộp. Nó vận động
một chiều, không phải là khoản thù lao mà người nộp thuế phải trả cho Nhà nước do được
hưởng các dịch vụ Nhà nước cung cấp.
- Thuế TNCN luôn gắn với chính sách xã hội của mỗi quốc gia. Hầu hết các quốc gia đều
gắn chính sách thuế TNCN với một số chính sách xã hội khác (như phúc lợi công cộng,
chăm sóc sức khỏe…).
Thuế TNCN có diện thu thuế rất rộng, tất cả các cá nhân có thu nhập bao gồm: công dân
nước sở tại và người nước ngoài cư trú thường xuyên hay không thường xuyên tại nước đó và
hầu như tất cả số thu nhập có được của các cá nhân đều phải tính thuế không kể nguồn thu nhập
phát sinh trong nước hay ngoài nước. Chính vì vậy, khả năng tạo nguồn thu cho ngân sách của
thuế TNCN rất cao.
Việc đánh thuế TNCN thường áp dụng theo nguyên tắc thuế suất lũy tiến từng phần. Đặc
điểm này xuất phát từ vai trò chủ yếu của thuế TNCN là điều tiết mạnh người có thu nhập cao,
góp phần thực hiện công bằng xã hội. Do vậy, việc sử dụng thuế suất lũy tiến từng phần sẽ đáp
ứng được nhu cầu đó vì phần thu nhập tăng thêm càng cao thì sẽ phải tính thuế suất càng cao.
Xét về góc độ kinh tế, thuế TNCN có tính trung lập cao hơn so với các loại thuế khác vì việc
tăng hay giảm thuế TNCN hầu như không kéo theo những biến đổi về cơ cấu kinh tế.
1.3. Vai trò của thuế TNCN
Trước bối cảnh đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế và những sự biến đổi lớn của điều kiện
kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay, việc ban hành Luật thuế TNCN ở nước ta là hết sức cần thiết
và có vai trò quan trọng về nhiều mặt. Là một bộ phận của hệ thống thuế nên thuế TNCN vừa
mang vai trò chủ yếu của thuế nói chung, vừa có các vai trò riêng mà các loại thuế khác không có
được.
1.3.1 Đối với nền kinh tế- xã hội
* Tạo lập nguồn tài chính cho ngân sách nhà nước
Thuế TNCN là một trong những bộ phận quan trọng cấu thành thuế nói chung nên cũng góp
một phần quan trọng để tạo nguồn tài chính cho nhà nước. Thuế TNCN được tính với diện rộng,

Ảnh hưởng của lạm phát đối với thuế TNCN GVHD: PGS-TS. Nguyễn Ngọc Hùng
SVTH: Lương Trung Quý 5
khả năng tạo nguồn thu cho ngân sách rất lớn. Bên cạnh đó, thuế TNCN tác động trực tiếp vào
thu nhập của dân cư mà người dân của bất kỳ quốc gia nào cũng đều mong muốn và cố gắng có
thu nhập ngày càng cao để nâng cao đời sống vật chất tinh thần. Thuế TNCN luôn có sự gia tăng
nhanh chóng cùng với sự tăng lên của thu nhập bình quân đầu người.
* Góp phần thực hiện công bằng xã hội
Trong mỗi quốc gia, thu nhập của mỗi cá nhân phụ thuộc chủ yếu vào các yếu tố như khả
năng và trình độ lao động, vị trí công tác, quyền sở hữu về tài sản của cá nhân đó. Tuy nhiên, các
yếu tố nói trên của mỗi cá nhân thường không giống nhau nên đã tạo ra sự khác nhau về thu nhập
của mỗi người. Chính sự khác nhau ấy là nguồn gốc tạo ra sự phân cực giàu nghèo, là sự bất bình
đẳng trong xã hội. Để giải quyết vấn đề này, các nước đã dùng nhiều hình thức và biện pháp khác
nhau trong đó thuế TNCN được xem như một công cụ hữu hiệu để điều tiết bớt thu nhập của
những người có thu nhập cao, đảm bảo công bằng xã hội.
Hình: Ảnh hưởng của thuế đến sự công bằng trong phân phối thu nhập
Để thấy rõ vai trò của thuế TNCN , có thể sử dụng đường cong Lorenz sau đây. Trên đồ thị,
đường cong Loenz càng gần đường phân giác thì càng phản ánh sự phân phối công bằng. Điều đó
được trợ giúp bởi thuế lũy tiến thông qua thực hiện thuế TNCN để đảm bảo rút ngắn khoảng cách
phân hóa giàu nghèo xã hội.
* Điều tiết thu nhập, tiêu dùng và tiết kiệm
Thuế TNCN là một công cụ rất cần thiết để thực hiện việc kiểm soát thu nhập của các tầng