Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
MÔ HÌNH TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG
Bài 5
Nội dung
Mục tiêu
Phân tích được hệ thống kinh tế vĩ mô được đặc trưng bởi tổng cầu, tổng cung và hộp đen kinh tế vĩ mô.
Phân tích và xây dựng đường IS.
Phân tích và xây dựng đường LM.
Trình bày được mô hình IS-LM, mô hình AD- AS và vận dụng các mô hình đó vào phân tích kinh tế vĩ mô.
Đánh giá cơ chế tác động của sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ.
Phân tích và đánh giá được các cú sốc của tổng cung và tổng cẩu trong ngắn hạn và dài hạn; xem xét tác động của nó như thế nào đến sản lượng, giá cả, và việc làm của nền kinh tế.
Trong bài này, người học sẽ được tiếp cận các nội dung:
Hướng dẫn học
Sinh viên nên đọc kỹ nguồn tài liệu tham khảo để chọn ra những tài liệu tham khảo hữu ích nhất cho mình.
Xem các nguồn tài liệu và thứ tự tài liệu được cung cấp cho môn học này để biết được trình tự học tập.
Trong bài này, chúng ta giả định rằng mô hình IS-LM được phân tích trong điều kiện tỷ giá hối đoái không tác động đến các biến số kinh tế vĩ mô khác và luồng tư bản vận động hoàn toàn tự do.
Để học tốt bài này sinh viên cần:
145 ECO102_Bai5_v2.0018102208
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
T
rong giai đoạn 2007-2008 lạm phát xảy ra với tỷ lệ cao, lạm phát 2 con số, Chính phủ Việt Nam đã sử dụng chính sách tài khóa thắt chặt và chính sách tiền tệ thắt chặt đề kiềm chế lạm phát bằng việc cắt giảm chi tiêu của Chính phủ, tăng lãi suất cơ bản,… Các chính sách này đã đem lại hiệu quả tích cực cho nền kinh tế, chỉ số giá tiêu dùng CPI giảm, giá cả của nhiều loại mặt hàng ổn định, đời sống của các hộ gia đình bớt khó khăn hơn. Như vậy, vai trò của Chính phủ trong việc sử dụng các công cụ thuế và chi tiêu của Chính phủ trong chính sách kinh tế vĩ mô là gì? Chính sách tài khóa có thể sẽ làm giảm sự giao động của chu kỳ kinh doanh không? Chính sách tài khóa có ảnh hưởng như thế nào đến tổng cung? Tại sao nhiều người lại thích giữ tiền? Lượng cung tiền trong nền kinh tế ánh hưởng như thế nào đến cơ hội tìm kiếm việc làm, khả năng chi trả một chiếc ô tô mới, lãi suất của các khoản vay? Chính phủ sẽ sử dụng chính sách tiền tệ để điều tiết giá cả, công ăn việc làm, và sản lượng của nền kinh tế như thế nào? Tất cả các câu hỏi nêu trên đều được giải đáp cụ thể trong bài này.
Mô hình IS-LM mà chúng ta phân tích trong bài này giả định mức giá không đổi và chỉ ra nguyên nhân làm cho thu nhập thay đổi. Mô hình IS-LM cho biết nguyên nhân làm cho đường tổng cầu dịch chuyển. Hai bộ phận của mô hình chính là đường IS và đường LM. Ký hiệu IS để chỉ “đầu tư” và “tiết kiệm”. Đường IS biểu thị thị trường hàng hóa và dịch vụ mà chúng ta đã phân tích ở bài 3. Ký hiệu LM để chỉ “tính thanh khoản” và “tiền”. Đường LM biểu thị cung cầu về tiền mà chúng ta đã phân tích ở bài 4. Vì lãi suất tác động đến cả đầu tư và nhu cầu về tiền, nên chính nó liên kết các bộ phận của mô hình IS-LM lại với nhau. Mô hình này chỉ rõ phương thức xác định tổng cầu thông qua tác động qua lại giữa các thị trường. Để hiểu hết vai trò của mô hình IS – LM trước hết chúng ta hãy xem xét thị trường hàng hóa, hay bộ phận IS của mô hình, sau đó sẽ xem xét thị trường tiền tệ hay bộ phận LM và cuối cùng ghép hai bộ phận lại với nhau để hoàn chỉnh mô hình. Mô hình IS – LM nắm bắt được nhiều tư tưởng của Keynes hơn mô hình số nhân chi tiêu vì nó đưa thêm thị trường tiền tệ và thị trường hàng hóa vào và coi đầu tư là biến nội sinh.
Khủng hoảng kinh tế thế giới đã, đang và sẽ ảnh hưởng đến nhiều quốc gia trên thế giới. Có nhiều quốc gia sẽ bị ảnh hưởng rất nặng nề, có thể mất thời gian rất dài mới khôi phục lại nền kinh tế được. Hầu như, các nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế là do các “cú sốc cung” hoặc “cú sốc cầu”. Vậy, cú sốc cung và cú sốc cầu là gì? Nguyên nhân xảy ra? Làm thế nào để hạn chế đến mức thấp nhất các cú sốc cung và cầu? Sau khi nghiên cứu bài học này, chúng ta sẽ có thể trả lời và giải thích được những câu hỏi này. Hiện nay, phần lớn các nhà kinh tế đều dựa vào mô hình tổng cầu và tổng cung để phân tích các tác động của các chính sách vĩ mô đến sản lượng, giá cả, công ăn việc làm,... của nền kinh tế. Hiểu mô hình và biết cách vận dụng mô hình này để phân tích ảnh hưởng của các cú sốc và chính sách của Chính phủ là rất quan trọng đối với các nhà kinh tế.
5.1. Mô hình IS-LM trong nền kinh tế đóng
Mô hình IS-LM nắm bắt được nhiều tư tưởng của Keynes hơn mô hình số nhân chi tiêu vì nó đưa thêm thị trường tiền tệ và thị trường hàng hóa hay thị trường sản phẩm vào và coi đầu tư là biến nội sinh. Thuật ngữ IS-LM được phổ thông hóa bởi Hansen (1949), nhưng kỹ thuật mà chúng ta sử dụng hiện nay xuất phát từ một bài báo do Hicks (1937) xuất bản vài tháng sau khi xuất bản cuốn Lý thuyết tổng quát và ngày nay đã trở thành một bản tóm tắt chuẩn của nó. Dĩ nhiên, chính Keynes đã viết cho Hicks rằng ông “cảm thấy nó rất thú vị và thực sự không có gì đáng phê phán cả”.
146 ECO102_Bai5_v2.0018102208
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
Để hiểu hết vai trò của mô hình IS-LM trong nền kinh tế đòng, trước hết chúng ta hãy xem xét thị trường hàng hóa, hay bộ phận IS của mô hình, sau đó sẽ xem xét thị trường tiền tệ hay bộ phận LM và cuối cùng ghép hai bộ phận lại với nhau để hoàn chỉnh mô hình.
5.1.1. Đường IS và các yếu tố tác động đến đường IS
a. Thiết lập đường IS và độ dốc của đường IS
Xây dựng đường IS
Thị trường hàng hóa cân bằng khi tổng cầu bằng thu nhập tương ứng với một mức lãi suất cho trước. Khi lãi suất thay đổi đường tổng cầu sẽ dịch chuyển và cho một mức thu nhập cân bằng mới. Như vậy, nếu tập hợp những tổ hợp khác nhau giữa lãi suất và thu nhập phù hợp với sự cân bằng của thị trường hàng hóa sẽ được một đường gọi là đường IS. Trạng thái cân bằng trên thị trường hàng hóa có nghĩa là, nếu một mức sản lượng nhất định, ví dụ Y1, được sản xuất ra, thì khi đó lãi suất cũng cần phải được duy trì ở một mức nhất định, ví dụ mức lãi suất là r1. Như vậy, khái niệm cân bằng của thị trường hàng hóa không hoàn toàn giống khái niệm thông thường của kinh tế vi mô về giao điểm của đường cung và cầu.
AE=Y AE=Y
AE AE
E2 E2
AE2 =C +I (r2 )+G AE2 =C +I (r2 )+G
AE1 =C+I (r1 )+G AE1 =C+I (r1 )+G
E1 E1
II I
Y Y
Y1 Y1
Y2 Y2
r r
E1’ E1’
r1 r1
E2’ E2’
r2 r2
IS IS
Y Y
Y2 Y2
Y1 Y1
Hình 5.1. Xây dựng đường IS
Trong điều kiện có giả định đơn giản hóa là chi tiêu của Chính phủ và các khoản thu về thuế độc lập với mức thu nhập, chúng ta dễ dàng chỉ ra rằng, vị trí của đường IS tùy thuộc vào mức chi tiêu của Chính phủ và thuế. Sự tăng lên (hay giảm xuống) của G đẩy đường IS về phía phải so với đường gốc (hay phía trái, hướng tới điểm gốc), vì nó làm tăng (hay giảm) các khoản chi tiêu dự kiến chuyển thành nhu cầu tại bất kỳ mức lãi suất nào và do đó, đòi hỏi mức thu nhập cao hơn (hay thấp hơn) để duy trì sự cân bằng giữa các khoản rút ra dự kiến chuyển thành nhu cầu. Ở mức lãi suất r1 tổng chi tiêu là AE1 sản lượng cân bằng là Y1, điểm cân bằng trên thị trường hàng hóa là E1. Từ đó ta xác định được điểm E1’ có tọa độ (r1,Y1). Giả sử lãi suất giảm xuống mức r2 khi đó đầu tư tăng thêm một lượng là I, tổng chi tiêu của nền
147 ECO102_Bai5_v2.0018102208
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
Đường IS dốc xuống, có độ dốc âm
kinh tế tăng lên từ AE1 đến AE2, sản lượng cân bằng của nền kinh tế tăng từ Y1 đến Y2. Từ đó ta xác định được E2’ có tọa độ (r2,Y2). Đường đi qua 2 điểm E0’ và E0’ chính là đường IS.
Đối với sự cân bằng của thị trường hàng hóa, lãi suất cao hơn sẽ kéo theo mức thu nhập thấp hơn do đường cầu phải thấp hơn. Độ dốc của đường IS sẽ phụ thuộc vào độ nhạy cảm của nhu cầu đầu tư và nhu cầu tiêu dùng tự định đối với lãi suất. Nhu cầu đầu tư và nhu cầu tiêu dùng tự định càng bị giảm xuống do lãi suất tăng, khi lãi suất tăng sẽ càng làm giảm mức thu nhập cân bằng và độ dốc của đường IS càng thoải. Ngược lại, nếu những thay đổi trong lãi suất chỉ đưa đến những dịch chuyển nhỏ của đường tổng cầu, mức thu nhập cân bằng sẽ hầu như không bị ảnh hưởng gì, và đường IS sẽ rất dốc.
r
Y
A d
Hàm số của đường IS:
;
m '
1 d m ' 1 1 MPC(1 t) nhạy cảm của đầu tư so với lãi suất thực tế r. Nếu d tăng thì đường IS thoải hơn.
; hệ số d là hệ số phản ánh mức độ Trong đó: A C I G
1 d m '
Nhìn vào phương trình của đường IS chúng ta thấy rằng, chính là độ dốc
của đường IS. Nếu giá trị của d hoặc m’ càng lớn thì đường IS càng thoải và nếu chúng càng nhỏ thì đường IS càng dốc. Như vậy, nếu tỷ suất thuế tăng lên hoặc MPC giảm xuống đều làm cho giá trị của m’ giảm xuống và đường IS trở nên dốc hơn và ngược lại. Phân tích độ dốc của đường IS cho chúng ta biết được mức độ tác động của chính sách tài khóa hoặc chính sách tiền tệ đến thu nhập, lãi suất, thất nghiệp, lạm phát trong nền kinh tế như thế nào.
Như vậy, đường IS là quỹ tích của các kết hợp giữa mức sản lượng Y và mức lãi suất r, và bất kỳ điểm nào trên đó cũng làm cho thị trường hàng hóa cân bằng, nhưng nó không chỉ ra điểm nào trong những kết hợp trên tạo ra trạng thái cân bằng chung của nền kinh tế. Để tìm được mức sản lượng và lãi suất cho trạng thái cân bằng chung, chúng ta còn phải xem xét thị trường tiền tệ. Khác với mô hình cổ điển thuần túy, ở đây không có sự phân đôi giữa thị trường hàng hóa và thị trường tt. Trong mô hình IS-LM của Keynes, giá trị của các biến số thực tế, ví dụ thu nhập, phụ thuộc vào cung ứng tiền tệ.
b. Các điểm nằm ngoài đường IS
Chúng ta sẽ dễ dàng hiểu được tại sao biện pháp cắt giảm (hay tăng) thuế đẩy đường IS sang phải (hay sang trái) và rằng các điểm nằm ngoài đường IS về bên phải là điểm biểu thị tình trạng dư cung về hàng hóa (các khoản rút ra dự kiến vượt quá các khoản dự kiến chuyển thành nhu cầu), còn các điểm nằm ngoài đường IS về phía trái biểu thị tình trạng dư cầu về hàng hóa (các khoản dự kiến chuyển thành nhu cầu vượt quá các khoản rút ra dự kiến). Khi hiểu được điều này, chúng ta cũng dễ dàng hiểu được những ảnh hưởng của thuế tới sự thay đổi của đường IS.
146 ECO102_Bai5_v2.0018102208
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
AE AE
AE2 AE2
AE1 AE1
r r
r1 r1
r2 r2
Hình 5.2. Các điểm nằm ngoài đường IS
Dựa vào đồ thị chúng ta nhận thấy, điểm E3 trên thị trường hàng hóa biểu thị chi tiêu vượt quá thu nhập. Đối với thị trường hàng hóa, đây là hiện tượng thiếu hàng. Như vậy, các điểm nằm dưới đường IS biểu thị tình trạng thiếu hàng (dư cầu), các điểm nằm phía trên (bên ngoài) đường IS biểu thị tình trạng thừa hàng (dư cung).
c. Sự trượt dọc và dịch chuyển đường IS
Đường IS là quỹ tích của tất cả các kết hợp giá trị thu nhập và lãi suất mà tại đó, tiết kiệm dự kiến bằng đầu tư dự kiến. Chúng ta xuất phát từ trạng thái cân bằng ban đâu của nền kinh tế, thị trường các khoản vay cân bằng (đầu tư bằng tiết kiệm), xác định mức lãi suất cân bằng là r1 và mức thu nhập của nền kinh tế là Y1. Nếu tiết kiệm dự kiến giảm xuống cùng với thu nhập, chắc chắn lãi suất sẽ tăng lên và làm mức đầu tư dự kiến nhỏ hơn, nhằm duy trì trạng thái cân bằng, tại đó tiết kiệm dự kiến bằng đầu tư dự kiến. Mức lãi suất cân bằng mới là r2 và mức thu nhập cân bằng mới là Y2, xảy ra hiện tượng di chuyển từ điểm E1 đến điểm E2 trên đường IS. Ngược lại, nếu lãi suất là r2 và mức thu nhập là Y2, thì khi đó đầu tư dự kiến sẽ bằng tiết kiệm dự kiến; lãi suất giảm xuống r1 thì mức thu nhập sẽ tăng lên Y1, xảy ra hiện tượng di chuyển (hay còn gọi là trượt dọc theo đường IS) các điểm trên đường IS từ E2 xuống E1.
149 ECO102_Bai5_v2.0018102208
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
r r r
S2 S2 S2
S1 S1 S1
r r r
E2 E2 E2
r2 r2 r2
r2 r2 r2
E1 E1 E1
r1 r1 r1
r1 r1 r1
I(r)I(r) I(r) I(r)
IS IS IS
0 0 0
S, I S, I S, I
0 0 0
Y Y Y
Y1 Y1 Y1
Y2Y2 Y2 Y2
Hình 5.3. Sự di chuyển các điểm trên đường IS
Sự dịch chuyển của đường IS: Với một mức lãi suất nhất định, sự gia tăng niềm lạc quan của các hãng về những khoản lợi nhuận trong tương lai sẽ dịch chuyển đường nhu cầu đầu tư đi lên, làm tăng nhu cầu đầu tư tự định; sự gia tăng trong ước tính của các hộ gia đình về thu nhập trong tương lai sẽ dịch chuyển hàm tiêu dùng lên trên, làm tăng nhu cầu tự định; hay sự gia tăng trong chi tiêu của Chính phủ có thể trực tiếp làm tăng cấu phần của Chính phủ trong nhu cầu tự định. Bất kỳ sự gia tăng nào như thế này cũng sẽ dịch chuyển đường tổng cầu lên trên tại một mức lãi suất nhất định. Do đó khoản thu nhập cân bằng sẽ tăng thêm ở bất kỳ lãi suất nào.
AE=Y AE=Y
AE AE
AE2 =C +I (r1 )+G2 AE2 =C +I (r1 )+G2
AE2=C+I (r1 )+G1 AE2=C+I (r1 )+G1
Y Y
Y1 Y1
Y2 Y2
0 0 r r
r1 r1
YY Y
IS2 IS2
IS1 IS1
Y Y
0 0
Y1 Y1
Y2 Y2
Hình 5.3. Chi tiêu của Chính phủ tăng lên đường IS dịch chuyển sang phải
r
Y
A d
1 d m '
Hình 5.4 chỉ rõ sự gia tăng chi tiêu của Chính phủ G1 đến G2 trong điều kiện lãi suất không đổi r1. Tổng chi tiêu của nền kinh tế tăng lên từ AE1 đến AE2, thu nhập của nền kinh tế tăng lên từ Y1 đến Y2, dẫn tới đường IS dịch chuyển từ IS1 đến IS2. Chúng ta có thể phân tích sự dịch chuyển của đường IS qua phương trình đường IS:
146 ECO102_Bai5_v2.0018102208
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
A d
Khi giá trị các khoản chi tiêu tự định (không phụ thuộc vào thu nhập) thay đổi sẽ làm
cho đường IS dịch chuyển sang vị trí mới.
5.1.2. Đường LM và các yếu tố tác động đến đường LM
a. Thiết lập đường LM và độ dốc của đường LM
1
Khái niệm: Đường LM là đường bao gồm tập hợp tất cả các điểm phản ánh mối quan hệ giữa lãi suất và thu nhập khi thị trường tiền tệ cân bằng. Cách xây dựng đường LM:
MS 1
M P
Giả sử rằng mức cung tiền cố định tại , với mức thu nhập ở Y1, đường cầu
(a) Thị trường tiền tệ cân bằng (a) Thị trường tiền tệ cân bằng (a) Thị trường tiền tệ cân bằng
(b) Đường LM (b) Đường LM (b) Đường LM
tiền là MD(r,Y1) và điểm cân bằng của thị trường tiền tệ là E1 với lãi suất cân bằng là r1, từ đó có thể xác định điểm E1’ của tổ hợp (r1, Y1).
r r r
r r r
MS MS
LMLM LM LM
E2 E2 E2
r2 r2 r2
r2 r2 r2
E2’ E2’ E2’
MD (r,Y2) MD (r,Y2) MD (r,Y2) MD (r,Y2)
r1 r1 r1
r1 r1 r1
E1 E1 E1
E1’ E1’ E1’
MD (r,Y1) MD (r,Y1) MD (r,Y1) MD (r,Y1)
0 0 0
0 0 0
Y Y Y
M/P M/P M/P
Y1Y1 Y1 Y1
Y2Y2 Y2 Y2
1M 1M 1M 1M P P P P
Hình 5.4. Xây dựng đường LM
Khi thu nhập tăng đến Y2, đường cầu tiền dịch chuyển lên MD(r, Y2) với điểm cân bằng E2 có lãi suất cân bằng r2. Từ đó có thể xác định điểm E2’ của tổ hợp (r2, Y2). Đường đi qua hai điểm E1’, E2’ trên đồ thị là đường LM. Đường LM có độ dốc dương, điều đó chứng tỏ khi thu nhập Y tăng thì lãi suất r tăng và ngược lại. Đường LM phản ánh mối quan hệ tỷ lệ nghịch giữa thu nhập và lãi suất.
r
(k Y
)
1 h
M P
Hàm số của đường LM:
1M P
Trong đó: tại là cung tiền thực tế; h là độ nhạy cảm của cầu tiền với lãi suất; k là độ
nhạy cảm của cầu tiền và thu nhập.
151 ECO102_Bai5_v2.0018102208
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
k h
k h
Giá trị độ dốc của đường LM là . Do đó, khi tăng lên đường LM sẽ trở nên dốc
hơn và ngược lại. Điều này có nghĩa là, nếu độ nhạy cảm của cầu tiền với lãi suất (h) càng lớn thì đường LM càng thoải và ngược lại; nếu độ nhạy cảm của cầu tiền và thu nhập (k) càng lớn thì đường LM càng dốc và ngược lại. Phân tích độ dốc của đường LM cho chúng ta biết được mức độ tác động của chính sách tài khóa hoặc chính sách tiền tệ đến thu nhập, lãi suất, thất nghiệp, lạm phát trong nền kinh tế như thế nào.
b. Các điểm nằm ngoài đường LM
r r r
Thị trường tiền tệ ban đầu cân bằng tại điểm E1, khi thu nhập tăng, cầu tiền tăng, lãi suất cân bằng trên thị trường tiền tệ tăng từ r1 đến r2, chúng ta xây dựng được đường LM. Đường LM là một tập hợp các điểm biểu thị mối quan hệ giữa thu nhập và lãi suất khi thị trường tiền tệ cân bằng. Các điểm nằm phía trên đường LM, ví dụ như điểm E3, biểu thị trạng thái dư cung tiền. Các điểm nằm phía dưới đường LM, ví dụ như điểm E4, biểu thị trạng thái dư cầu tiền tệ.
MS MS
r r r
r2 r2 r2
r1 r1 r1
MD MD MD
MD MD MD
0 0 0
M/P M/P M/P
0 0 0
Hình 5.5. Các điểm nằm ngoài đường LM
c. Sự trượt dọc và dịch chuyển đường LM
Khi thu nhập tăng lên đòi hỏi một lượng cầu tiền tăng thêm dẫn đến tăng lãi suất do cung tiền không đổi. Như vậy, khi thu nhập thay đổi, xảy ra hiện tượng di chuyển (trượt dọc) các điểm trên đường LM. Khi thu nhập tăng lên từ Y1 đến Y2, cầu tiền tăng, lãi suất cân bằng trên thị trường tiền tệ tăng từ r1 đến r2, đường LM không thay đổi vị trí, xảy ra hiện tượng di chuyển từ điểm E1 đến E2 trên đường LM.
146 ECO102_Bai5_v2.0018102208
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
r r
LMLM LM
r2 r2
E2 E2
r1 r1
E1 E1
0 0
Y Y
Y1 Y1
Y2 Y2
Hình 5.6. Sự di chuyển các điểm trên đường LM
Đường LM có độ dốc nghiêng đi lên bởi khi thu nhập tăng, lãi suất phải tăng theo để giảm bớt cầu tiền nhằm duy trì sự cân bằng của thị trường tiền tệ khi cung tiền không đổi. Khi cầu tiền nhạy cảm với thu nhập và kém nhạy cảm với lãi suất thì đường LM sẽ rất dốc. Nếu mức cung tiền giảm xuống, đường LM sẽ dịch chuyển sang trái.
Hình 5.7. Sự dịch chuyển đường LM khi cung tiền thay đổi
Hình 5.8 minh họa trường hợp cung tiền giảm (Ví dụ: giả sử ngân hàng trung ương tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc), đường cung tiền dịch chuyển từ MS1 đến MS2, ứng với mức thu nhập không đổi Y1. Lãi suất cân bằng trên thị trường tiền tệ tăng lên từ r1 đến r2, đường LM dịch chuyển sang trái từ LM1 đến LM2.
5.1.3. Phân tích chính sách dựa trên mô hình IS-LM
a. Cân bằng đồng thời hai thị trường hàng hoá và tiền tệ Đường IS phản ánh các trạng thái cân bằng của thị trường hàng hóa với các tổ hợp khác nhau giữa lãi suất và thu nhập. Đường LM phản ánh các trạng thái cân bằng của thị trường tiền tệ cũng của những tổ hợp này. Tác động qua lại giữa hai thị trường ấn định mức lãi suất và thu nhập cân bằng đồng thời cho cả hai thị trường tại (r0, Y0).
153 ECO102_Bai5_v2.0018102208
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
r
LM
E0
r0
IS
0
Y
Y0
Hình 5.8. Trạng thái cân bằng đồng thời trên cả thị trường hàng hóa và tiền tệ
r
LM
B
A
r1
E0
r0
B
D
r2
IS
0
Y
Y1 Y2
Y’
Y0
1 Y’ 2
Nhìn vào hình 5.10, giả sử mức lãi suất tại r1, ta có mức thu nhập Y1 trên đường IS. Tổ hợp (r1, Y1) đưa đến sự cân bằng của thị trường hàng hóa. Song, với mức lãi suất r1 thì cần phải có mức thu nhập Y1’ cho sự cân bằng của thị trường tiền tệ. Với mức lãi suất r1, mức thu nhập Y1 là quá thấp đối với sự cân bằng của thị trường tiền tệ. Nhu cầu về tiền trở nên thấp hơn lượng cung ứng tiền sẵn có. Khi lượng cung ứng tiến quá cao, lãi suất sẽ giảm. Quá trình này cứ tiếp diễn cho tới lúc lãi suất giảm xuống tới r0. Tại mức này, tổng cầu và tổng thu nhập đã tăng lên đủ mức làm cho nhu cầu về tiền tăng đủ để dẫn tới sự cân bằng trên cả hai thị trường.
Hình 5.9. Cân bằng đồng thời trên cả thị trường hàng hóa và tiền tệ
Ngược lại, với mức lãi suất r2, mức thu nhập Y2’ cần thiết cho thị trường hàng hóa cân bằng là lớn hơn mức thu nhập Y2 cần thiết để thị trường tiền tệ cân bằng. Khi thu nhập quá cao đối với sự cân bằng của thị trường tiền tệ, nhu cầu về tiền sẽ quá cao và đẩy lãi suất lên. Tiến trình này tiếp diễn đến khi đạt mức lãi suất r0, thu nhập Y0 thì cả hai thị trường đều cân bằng.
146 ECO102_Bai5_v2.0018102208
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
b. Tác động của chính sách tài khóa Trong nền kinh tế đóng, giả sử chính phủ sử dụng chính sách tài khóa mở rộng, bằng việc tăng chi tiêu của Chính phủ thêm một lượng là G, khi đó tổng chi tiêu của nền kinh tế tăng, tổng cầu tăng, đường IS dịch chuyển sang phải từ IS1 đến IS2 (xem hình 5.11). Nếu lãi suất không đổi là r1, sản lượng cân bằng sẽ tăng lên là Y3. Tuy nhiên, lãi suất trong trường hợp này sẽ tăng lên từ r1 đến r2, lượng cầu đầu tư sẽ giảm, tổng cầu tăng thêm một lượng là
G
1 1 MPC(1 t)
Do lãi suất tăng sẽ làm giảm đầu tư (hiện tượng này gọi là hiện tượng thoái lui đầu tư). Trạng thái cân bằng ban đầu của nền kinh tế là E1, bây giờ sẽ là E2. Đầu tư giảm kéo theo sản lượng của nền kinh tế chỉ tăng từ Y1 đến Y2. Mức sản lượng tăng Y = Y2 - Y1
G
1 1 MPC(1 t)
này nhỏ hơn mức tăng thêm của tổng cầu là: .
Hình 5.10. Tác động của chính sách tài khóa mở rộng trong mô hình IS-LM
c. Tác động của chính sách tiền tệ Trong nền kinh tế đóng, giả sử chính phủ sử dụng chính sách tiền tệ mở rộng, bằng việc hoặc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, hoặc giảm lãi suất chiết khấu, hoặc mua trái phiếu trên thị trường mở, khi đó cung tiền trong nền kinh tế sẽ tăng lên. Cung tiền tăng, đường LM dịch chuyển sang phải (xuống dưới), trạng thái cân bằng của nền kinh tế thay đổi từ E1 đến E2, lãi suất cân bằng giảm từ r1 xuống r2, đầu tư tăng lên làm cho thu nhập cân bằng trong nền kinh tế tăng lên từ Y1 đến Y2 (xem hình 5.12).
155 ECO102_Bai5_v2.0018102208
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
Hình 5.11. Chính sách tiền tệ mở rộng, đường LM dịch chuyển sang phải
Như vậy, chính sách tiền tệ mở rộng trong nền kinh tế đóng làm tăng đầu tư, tăng thu nhập của nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
d. Sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
Sự phối hợp chính sách tài khóa mở rộng và chính sách tiền tệ mở rộng
Trong nền kinh tế đóng, sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ tùy thuộc vào các công cụ mà Chính phủ đưa ra, phụ thuộc vào độ dốc của đường IS và đường LM, đồng thời phụ thuộc vào mức độ phản ứng, mức độ tác động của hai chính sách này. Chúng ta có thể xem xét một số trường hợp sau:
Khi Chính phủ sử dụng chính sách tài khóa lỏng (tăng chi tiêu, giảm thuế) thì tổng cầu sẽ tăng lên, đường IS sẽ dịch chuyển sang phải từ IS1 đến IS2 (xem hình 5.13), nền kinh tế đạt trạng thái cân bằng tại E1. Kết quả là lãi suất tăng từ r0 đến r1, sản lượng cân bằng tăng từ Y0 đến Y1. Do lãi suất tăng, đầu tư giảm, xảy ra hiện tượng tháo lui đầu tư.
r r
LM1 LM1
LM2 LM2
E1 E1
r1 r1 r0 r0
E0 E0
E2 E2
IS2 IS2
IS1 IS1
Y Y
Y0 Y0
0 0
Y1 Y1
Y2 Y2
Hình 5.12. Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ mở rộng
Để tránh được hiện tượng tháo lui đầu tư phải kết hợp chính sách tiền tệ lỏng. Chính sách tiền tệ lỏng: đó là việc Chính phủ tăng mức cung tiền và duy trì mức lãi suất r0,
146 ECO102_Bai5_v2.0018102208
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
Sự phối hợp giữa chính sách tài khóa chặt và chính sách tiền tệ chặt
đường LM dịch chuyển sang phải từ LM1 đến LM2 nền kinh tế đạt trạng thái cân bằng mới tại E2, lúc này lãi suất giảm từ r1 về mức lãi suất ban đầu r0, sản lượng cân bằng tăng từ Y1 đến Y2. Kết quả của việc phối hợp hai chính sách là: thu nhập tăng nhanh từ Y0 đến Y2 và ổn định được lãi suất.
Chính sách tài khóa chặt (chính sách tài khóa thắt chặt) là chính sách sử dụng nhằm tăng thuế T, giảm chi tiêu G để giảm tổng cầu AD và thu hẹp phạm vi phát triển của nền kinh tế.
r r
LM2 LM2
LM1 LM1
E2 E2
r0 r0
E0 E0
r1 r1
E1 E1
IS1 IS1
IS2 IS2
0 0
Y Y
Y0 Y0
Y2 Y2
Y1 Y1
Hình 5.13. Chính sách tài khóa và tiền tệ thắt chặt
Sự phối hợp giữa chính sách tài khóa lỏng và chính sách tiền tệ chặt
Chính sách tiền tệ chặt (chính sách tiền tệ thắt chặt) sử dụng nhằm giảm mức cung tiền MS, tăng lãi suất r để giảm tổng cầu, giảm sản lượng cân bằng Y. Khi Nhà nước sử dụng chính sách tài khóa chặt đường IS sẽ dịch chuyển sang trái, IS giảm từ IS1 đến IS2 nền kinh tế đạt trạng thái cân bằng mới, sản lượng cân bằng giảm từ Y0 đến Y1, lãi suất giảm từ r0 đến r1 (xem hình 5.14). Để kìm hãm bớt tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế tránh nền kinh tế rơi vào tình trạng quá nóng, Nhà nước có thể phối hợp với chính sách tiền tệ thắt chặt. Nhà nước giảm mức cung tiền, tăng lãi suất thực tế r, đường LM sẽ dịch chuyển sang trái LM giảm từ LM1 đến LM2. Nền kinh tế đạt trạng thái cân bằng mới là E2, lãi suất tăng từ r1 đến r0, sản lượng giảm từ Y1 đến Y2. Kết quả của việc phối hợp hai chính sách đã làm cho sản lượng giảm nhanh, lãi suất r không thay đổi, tránh được nền kinh tế rơi vào trạng thái tăng trưởng quá nóng.
Để tăng tốc độ phát triển kinh tế, tăng sản lượng cân bằng Y của nền kinh tế, Chính phủ phải sử dụng chính sách tài khóa lỏng (tăng G, giảm T), đường IS dịch chuyển từ IS0 đến IS1, điểm cân bằng mới là E1, lãi suất tăng, sản lượng cân bằng tăng nhanh từ Y0 đến Y1 (xem hình 5.15).
157 ECO102_Bai5_v2.0018102208
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
r r
IS1 IS1
IS0 IS0
LM1 LM1
E2 E2
LM0 LM0
r2 r2
r1 r1
E1 E1
E0 E0
r0 r0
0 0
Y Y
Y1 Y1
Y0 Y0
Y2 Y2
Hình 5.14. Chính sách tài khóa lỏng và chính sách tiền tệ chặt
Nền kinh tế tăng trưởng quá nhanh, lạm phát cao. Nhà nước cần sử dụng chính sách tiền tệ chặt, để hỗ trợ cho chính sách tài khóa lỏng. Nền kinh tế đang đạt trạng thái cân bằng tại điểm E1. Khi sử dụng chính sách tiền tệ chặt, mức cung tiền giảm, lãi suất tăng, đầu tư có xu hướng giảm, nền kinh tế chuyển sang trạng thái cân bằng mới tại E2, lãi suất tăng từ r1 r2, sản lượng cân bằng giảm từ Y1 Y2. Kết quả của việc phối hợp hai chính sách là làm cho sản lượng tăng lên ở mức độ hợp lý, đạt được tốc độ tăng trưởng dài hạn, không gây lạm phát cao: sản lượng cân bằng tăng từ Y0 Y2, lãi suất tăng từ r0 r2.
5.2.
Xây dựng đường tổng cầu
5.2.1. Xây dựng đường tổng cầu dựa trên mô hình IS-LM
AD AE C I G
Đường tổng cầu trong mô hình Cổ điển được thiết lập trên cơ sở lý thuyết số lượng tiền tệ. Nó biểu thị mối quan hệ giữa mức cầu về sản lượng thực tế Y và mức giá P, được xác định bởi phương trình:
Y
M V P
Tổng cầu là tổng chi tiêu hàng hóa và dịch vụ của một nước. Trong một nền kinh tế đóng, tổng cầu bao gồm ba bộ phận cấu thành: Tiêu dùng của các hộ gia đình (C), đầu tư của các doanh nghiệp (I) và chi mua hàng của Chính phủ (G). Khi thu nhập thực tế bằng chi tiêu dự kiến thì tổng cầu của nền kinh tế được xác định bằng:
So với lý thuyết số lượng, mô hình IS – LM là một mô hình phức tạp hơn về tổng cầu. Nhìn chung, mô hình IS – LM cho phép cả chính sách tài chính và tiền tệ đều có một vai trò trong việc xác định tổng cầu, mặc dù những trường hợp đặc biệt của mô hình IS – LM cũng tạo ra những trường hợp đặc biệt của đường tổng cầu, trong đó, tùy từng trường hợp đặc biệt, mà chính sách tài chính hoặc chính sách tiền tệ không có tác dụng làm thay đổi mức tổng cầu. Đường tổng cầu được rút ra từ mô hình IS – LM cho thấy mối quan hệ giữa mức tổng cầu thực tế và mức giá.
Trong đó: M là khối lượng tiền tệ danh nghĩa; V là tốc độ lưu thông của tiền.
146 ECO102_Bai5_v2.0018102208
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
Chúng ta có thể thiết lập đường tổng cầu như sau:
Hình 5.15. Đường tổng cầu. (I) IS – LM. (II) AD
Khi mức giá thấp hơn, ví dụ bằng P1, khối lượng tiền tệ thực tế lớn hơn, làm cho lãi suất giảm xuống (r1) và mức thu nhập cao hơn (Y1). Đồ thị 5.16 (II) ghi các điểm phản ánh mức giá tương ứng với các mức thu nhập được tạo ra trong phần (I), nhờ việc xác định các giao điểm của đường LM và IS.
Chúng ta đã chỉ ra rằng, đường LM dịch chuyển khi có những thay đổi trong cung ứng tiền tệ thực tế. Cho đến nay, những thay đổi này là do sự thay đổi trong cung ứng tiền tệ danh nghĩa gây ra, vì giá cả được cố định ở một mức giá nhất định. Tuy nhiên, những thay đổi trong mức giá cũng làm thay đổi cung ứng tiền tệ thực tế và làm dịch chuyển đường LM, cho dù khối lượng tiền tệ danh nghĩa vẫn như cũ. Khi mức giá tăng lên, khối lượng tiền tệ thực tế giảm và đường LM dịch chuyển sang trái. Hình 5.16 minh họa cho lập luận này. Ba đường LM trong phần (I) đều được vẽ cho cùng một khối lượng tiền tệ danh nghĩa, nhưng với mức giá khác nhau là P0, P1 và P2. Vị trí của đường IS không phụ thuộc vào mức giá, bởi vì như chúng ta đã thấy, các yếu tố quy định mối liên hệ IS đều là những biến số thực tế, không bị ảnh hưởng bởi những thay đổi của giá cả.
Vị trí của đường LM trong phần (I) rõ ràng phụ thuộc vào mức giá. Mức giá càng cao, đường LM càng dịch chuyển về phía trái, bởi vậy lãi suất càng cao và mức thu nhập thực tế càng thấp. Chúng ta có thể khẳng định điều này khi quan sát giao điểm của các đường LM với đường IS là r0 và Y0. Khi mức giá thấp hơn, ví dụ bằng P1, khối lượng tiền tệ thực tế lớn hơn, làm cho lãi suất giảm xuống tới mức r1 và mức thu nhập tăng lên mức Y1. Hình 5.16 (II) ghi các điểm phản ánh mức giá tương ứng với các mức thu nhập được tạo ra trong phần (I), nhờ việc xác định các giao điểm của
159 ECO102_Bai5_v2.0018102208
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
Mô hình IS – LM còn được dùng để xác định lãi suất, ví dụ như lãi suất r0 trong trường hợp P0 và Y0. Chú ý rằng, trong khi chúng ta diễn giải đường tổng cầu Cổ điển bằng cách nói “nếu giá cả là P0 tổng cầu sẽ bằng Y0”, mà không cần nhắc đến đường tổng cung, thì đường tổng cầu của Keynes hay đường tổng cầu được thiết lập trên cơ sở mô hình IS – LM phải được diễn giải một cách chặt chẽ bằng cách nói rằng, “nếu giá cả là P0 và tổng cung là Y0, tổng cầu sẽ bằng Y0”. Việc nhắc tới đường tổng cung là rất cần thiết, bởi vì đường AD của Keynes phụ thuộc vào giao điểm của IS và LM, trong đó, đường IS biểu thị trạng thái cân bằng của thị trường hàng hóa. Đương nhiên, chúng ta không thể nói nếu giá cả là P0, tổng cung sẽ chỉ bằng Y0 mà không cần biết tới đường tổng cung. Phần sau đây sẽ chỉ ra cách thức phát huy ảnh hưởng đối với đường tổng cầu của chính sách tài chính và tiền tệ, trước khi hoàn chỉnh mô hình theo cách này.
đường LM và IS. Đường tổng cầu AD cho thấy rằng, đối với một đường IS và khối lượng tiền tệ danh nghĩa cho trước, khi có một mức giá nhất định, ví dụ P0, mức tổng cầu do mô hình IS – LM tạo ra cũng là một giá trị nhất định, ví dụ như Y0.
5.2.2. Chính sách tài khóa và đường tổng cầu
Hình dạng và vị trí của đường AD phụ thuộc vào những yếu tố làm cơ sở cho đường IS và LM. Bởi vậy, bất cứ sự thay đổi nào trong các yếu tố tác động tới đường IS và LM cũng ảnh hưởng tới đường AD. Ví dụ, bất kỳ sự gia tăng nào trong mức chi tiêu thực tế của Chính phủ được tài trợ bằng trái phiếu mà làm dịch chuyển đường IS về phía phải, thì cũng làm cho đường AD dịch chuyển về phía phải (hình 5.17).
Hình 5.16. Chính sách tài khóa và đường AD: (I) IS – LM. (II) AD
146 ECO102_Bai5_v2.0018102208
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
Tác động của chính sách tài khóa mở rộng là làm tăng tổng cầu, khi đó đường IS
Hình 5.17 miêu tả hai đường IS là IS và IS’, trong đó mức chi tiêu thực tế của Chính phủ được tài trợ bằng trái phiếu cao hơn trong trường hợp của đường IS. Cách vẽ đường AD cho thấy, đường AD’ tương ứng với IS nằm đâu đó ở phía phải của một đường IS nào đó. Chúng ta có thể hiểu được điều này bằng trực giác: Mức chi tiêu thực tế của Chính phủ được tài trợ bằng trái phiếu càng cao, mức tổng cầu thực tế cũng càng cao tại mọi mức giá.
dịch chuyển từ IS IS’, đường tổng cầu dịch chuyển từ AD AD’.
5.2.3. Chính sách tiền tệ và đường tổng cầu
Tương tự như vậy, sự gia tăng trong khối lượng tiền tệ danh nghĩa – điều làm cho đường LM dịch chuyển về phía phải đối với mọi mức giá – cũng làm cho đường AD dịch chuyển về phía phải.
Hình 5.17. Chính sách tài khóa và đường AD: (I) IS – LM. (II) AD
0M
Chính sách tiền tệ mở rộng (lỏng) làm tăng cung tiền thêm một lượng là M (hình 5.18). Với mức giá không đổi là P0, đường tổng cầu sẽ dịch chuyển từ AD → AD’; làm sản lượng cân bằng tăng từ Y0 →Y1. Hình 6.4 vẽ hai đường LM cho mức giá P0, nhưng ở đây, khối lượng tiền tệ danh nghĩa tăng thêm một lượng bằng ΔM trong trường hợp đường LM’. Chúng ta có thể thấy rằng, khi mức giá bằng P0, tổng cầu sẽ bằng Y0 với điều kiện đường IS cho trước và khối lượng tiền tệ danh nghĩa bằng M0, nhưng cao hơn (bằng Y1) khi khối lượng tiền tệ danh nghĩa cao hơn (bằng M ). Hình 5.18 (II) chỉ ra rằng, nếu khối lượng tiền tệ danh nghĩa cao hơn, điểm nằm ngang trên đường AD’ tại mức giá P0 sẽ ở bên phải điểm nằm trên đường AD tại mức giá đó. Tương tự như vậy, đối với tất cả các mức giá khác, các điểm trên đường AD’ đều nằm bên phải của các điểm tương ứng trên đường AD, như được chỉ ra trong hình vẽ.
161 ECO102_Bai5_v2.0018102208
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
Bây giờ, chúng ta đã thấy rõ rằng mô hình IS – LM thực sự là mô hình về tổng cầu trong điều kiện có giả định giá cả cố định và đường AD mở rộng phân tích của chúng ta để chỉ ra cách thức biến đổi của tổng cầu thực tế, khi mức giá thay đổi. Để hoàn chỉnh mô hình, chúng ta cần phải đưa thêm đường tổng cung vào mô hình. Đường tổng cung cổ điển thuần túy được thiết lập trên cơ sở giả định về sự cân bằng thị trường và quá trình điều chỉnh tiền lương thực tế. Đường AS được thiết lập trên cơ sở giả định về tính cứng nhắc của tiền lương danh nghĩa. Vì phần lớn phân tích trong cuốn Lý thuyết tổng quát đều giả định tiền lương danh nghĩa cứng nhắc và Keynes cho rằng, để mức tổng cung thực tế tăng lên, nhất thiết giá cả phải tăng lên, cho nên, đường AS còn được gọi là đường tổng cung của Keynes, vì nó kết hợp tiền lương cứng nhắc với giá cả linh họat.
5.3.
Xây dựng đường tổng cung
5.3.1. Đường tổng cung trong ngắn hạn và dài hạn
Tổng cung cho biết mối quan hệ giữa mức giá chung và khối lượng hàng hóa được cung ứng. Chúng ta cần xem xét hai trường hợp sau: Trong dài hạn – khi giá cả của tất cả hàng hóa và dịch vụ hoàn toàn linh hoạt; và trong ngắn hạn – khi giá cả của một số hàng hóa lại cứng nhắc.
a. Dài hạn: Đường tổng cung thẳng đứng Chúng ta biết rằng cung về hàng hóa trong dài hạn phụ thuộc vào công nghệ, khối lượng tư bản và lực lượng lao động sẵn có. Nói cách khác, cung hàng hóa trong dài hạn không phụ thuộc vào mức giá trong nền kinh tế. Điều này có nghĩa là đường tổng cung về hàng hóa trong dài hạn (LRAS) thẳng đứng tại mức sản lượng tự nhiên.
Hình 5.18. Đường tổng cung dài hạn
Đường tổng cung dài hạn LRAS là đường thẳng đứng, cắt trục hoành tại mức sản lượng tiềm năng Y* (hình 5.19). Trong mô hình này, tăng trưởng kinh tế được biểu thị bằng sự dịch chuyển của đường tổng cung dài hạn sang phải theo thời gian. Khi công nghệ được cải thiện và nền kinh tế có nhiều lao động và tư bản hơn, nhiều hàng hóa và dịch vụ được sản xuất hơn.
b. Ngắn hạn: Đường tổng cung dốc lên
Các nghiên cứu kinh tế vĩ mô hiện đại đặc biệt quan tâm giải thích hành vi của tổng cung trong ngắn hạn. Mặc dù có nhiều mô hình tổng cung khác nhau, nhưng rất may giữa chúng cũng có nhiều điểm chung và do vậy chúng ta có thể khái quát hóa và giới thiệu
146 ECO102_Bai5_v2.0018102208
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
các kết luận chung rút ra từ các mô hình đó. Đường tổng cung trong ngắn hạn SRAS có xu hướng dốc lên, biểu thị mối quan hệ ngược chiều giữa mức giá P và sản lượng thực tế Y (hình 5.20). Khi mức giá là P1 thì sản lượng thực tế là Y1, mức giá tăng lên từ P1 đến P2 thì sản lượng thực tế sẽ tăng lên từ Y1 đến Y2.
Hình 5.19. Đường tổng cung ngắn hạn
5.3.2. Phương trình của đường tổng cung
a. Phương trình đường tổng cung
Đường tổng cung trong ngắn hạn SRAS là đường dốc lên về phía phải biểu thị mối quan hệ cùng chiều giữa mức giá chung và sản lượng cân bằng. Nhìn chung, các phân tích hiện đại về tổng cung đều có chung kết luận là đường tổng cung ngắn hạn có độ dốc dương. Phương trình cơ bản về đường tổng cung ngắn hạn của chúng ta là:
* Y Y
e (P P )
.
Thứ ba, tham số đo lường phản ứng của sản lượng với chênh lệch giữa giá cả 0 thì đường tổng cung có dạng thẳng đứng; nếu
trong đó, là một số dương và Pe biểu diễn kỳ vọng về giá. Phương trình này chỉ ra rằng sản lượng (Y) có thể khác mức tự nhiên dài hạn (Y*) nếu như mức giá trên thực tế khác với mức giá mà mọi người dự kiến. Có ba kết luận có thể rút ra từ phương trình đường tổng cung ở trên. Thứ nhất, đường tổng cung có độ dốc dương. Thứ hai, vị trí của đường tổng cung phụ thuộc vào Pe. Đường tổng cung ngắn hạn cắt đường tổng cung dài hạn tại mức giá Pe, do đó khi Pe tăng thì đường tổng cung sẽ dịch chuyển lên phía trên và sang bên trái.
thực tế và giá cả dự kiến. Nếu trở nên rất lớn, thì đường tổng cung ngắn hạn gần như nằm ngang.
b. Cơ sở xây dựng phương trình đường tổng cung ngắn hạn
Có bốn mô hình khác nhau giải thích về đường tổng cung ngắn hạn: Mô hình tiền lương cứng nhắc; Mô hình nhận thức sai lầm của công nhân; Mô hình thông tin không hoàn hảo;
163 ECO102_Bai5_v2.0018102208
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
Mô hình giá cả cứng nhắc. Các mô hình này có một số đặc điểm chung, và mỗi mô hình chỉ giải thích được một số khía cạnh nhất định của thực tế.
Mô hình tiền lương cứng nhắc giả thiết rằng khi mặc cả tiền lương, cả doanh nghiệp và công nhân đều có trong đầu một mục tiêu nhất định về tiền lương thực tế mà họ sẽ thỏa thuận. Mức tiền lương này phụ thuộc vào sức mạnh mặc cả tương đối giữa doanh nghiệp với các công nhân trên cơ sở cân nhắc về tiền lương hiệu quả… Như vậy, mức việc làm tại mức tiền lương thực tế này tương ứng với trạng thái đầy đủ việc làm. Tuy nhiên, trong hợp đồng được ký kết các điều khoản được viết theo tiền lương danh nghĩa chứ không theo tiền lương thực tế. Để xác định tiền lương danh nghĩa, các doanh nghiệp và công nhân dựa trên kỳ vọng về mức giá chung. Cuối cùng, họ quyết định tiền lương danh nghĩa trên cơ sở sử dụng công thức sau:
e
W
w P
Mô hình tiền lương cứng nhắc Mô hình tiền lương cứng nhắc nhấn mạnh đến quá trình thỏa thuận tiền lương giữa doanh nghiệp và công nhân. Các quan sát thực tế cho thấy trong các ngành công nghiệp có sự hoạt động của công đoàn, tiền lương thường được quy định trước trong các hợp đồng. Hơn nữa, ngay cả trong các ngành không có công đoàn cũng có các thỏa thuận ngầm hoàn toàn tương tự. Nhiều công nhân hiểu ngầm với các thân chủ của họ về mức tiền lương được xem xét lại một lần nữa trong mỗi năm, ngay cả khi họ không ký các hợp đồng chính thức. Tiền lương của công nhân không thay đổi cùng với sự kiện tác động đến lợi nhuận của các doanh nghiệp nơi họ làm việc.
Giả thiết cuối cùng của mô hình là cầu về lao động quyết định số việc làm. Nói cách khác, quá trình thương lượng giữa công nhân và doanh nghiệp không quyết định trước số lao động được thuê, mà trái lại công nhân đồng ý cung ứng số lao động mà các doanh nghiệp muốn thuê tại mức lương đã quyết định từ trước. Theo lý thuyết tân cổ điển, họ sẽ lựa chọn bằng cách cân bằng sản phẩm cận biên của lao động với tiền lương thực tế thực hiện:
e
w (
)
MP L
W P
P P
Trong đó, w là mục tiêu về tiền lương thực tế.
d L
)
d W L ( P
eP
*
P , thì W / P w , do đó Ld (W/P) = L và Trước hết, cần lưu ý rằng nếu Y Y . Bây giờ, giả thiết mức giá hiện hành cao hơn mức dự kiến. Khi đó, tiền lương thực tế thực hiện thấp hơn mức dự kiến. Lao động trở nên rẻ hơn, do đó các doanh nghiệp sẽ thuê nhiều công nhân hơn và sản lượng sẽ tăng. Hoàn toàn ngược lại nếu mức giá hiện hành thấp hơn mức dự kiến. Các doanh nghiệp nhận ít thu nhập hơn từ sản lượng của họ so với dự kiến, do đó họ sẽ cắt giảm mức sản xuất. Chúng ta
Chúng ta có thể viết hàm cầu về lao động như sau:
146 ECO102_Bai5_v2.0018102208
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
W
d e L (P P )
eWP
d e L (P P )
d e L (P P )
0
L
L
có thể minh họa điều này bằng đồ thị thị trường lao động với tiền lương danh nghĩa được biểu diễn trên trục tung. Trong trường hợp này, đường cầu lao động dịch chuyển khi mức giá thay đổi:
Hình 5.20. Mô hình tiền lương cứng nhắc: Sự gia tăng bất ngờ của mức giá
* Y Y
e (P P )
Mức tiền công danh nghĩa là W = w×Pe được biểu diễn trên trục tung. Cầu lao động sẽ dịch chuyển khi mức giá thay đổi. Mô hình này hàm ý rằng chúng ta có thể biểu diễn đường tổng cung bằng phương trình sau:
Nếu mức giá cao hơn mức công nhân dự kiến, thì họ sẽ sẵn sàng cung ứng nhiều lao động hơn tại mọi mức tiền lương thực tế, bởi vì họ tin rằng tiền lương thực tế của họ cao hơn mức thực hiện, và do đó sản lượng tạo ra nhiều hơn. Điều ngược lại sẽ đúng nếu giá cả thấp hơn mức công nhân dự kiến. Giống như trước, lập luận này có thể được biểu diễn trong một đồ thị với tiền lương danh nghĩa trên trục tung:
Như vậy, tổng cung phụ thuộc vào sản lượng tiềm năng Y*, mức giá chung P, và kỳ vọng về giá Pe. Mô hình nhận thức sai lầm của công nhân Mô hình thứ hai về tổng cung tương tự như mô hình tiền lương cứng nhắc. Mô hình nhận thức sai lầm của công nhân một lần nữa nhấn mạnh đến thị trường lao động. Tuy nhiên, nó khác mô hình tiền lương cứng nhắc ở hai điểm. Thứ nhất, trong mô hình này, tiền lương được giả thiết hoàn toàn linh hoạt, và do đó điều chỉnh đủ mạnh để cân bằng thị trường lao động. Thứ hai, mô hình này giả thiết công nhân không thể nhận thức đúng về mức giá và do đó cung về lao động phụ thuộc vào tiền lương thực tế dự kiến. Vì công nhân và các doanh nghiệp có thông tin khác nhau về mức giá (các doanh nghiệp được giả thiết có thông tin chính xác về mức giá, trong khi công nhân chỉ có dự kiến về mức giá), do đó cầu về lao động phụ thuộc vào tiền lương thực tế thực hiện, trong khi đó cung về lao động lại phụ thuộc vào tiền lương thực tế dự kiến.
165 ECO102_Bai5_v2.0018102208
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
W
sL
d L (P
e P )
eW P
d L (P
e P )
d L (P
e P )
0
L
L
Hình 5.21. Mô hình nhận thức sai lầm của công nhân – Sự gia tăng của mức giá
Đường tổng cung trong mô hình này dốc hơn so với mô hình tiền lương cứng nhắc (α nhỏ hơn), bởi vì tiền lương danh nghĩa thay đổi khi mức giá thay đổi. Một câu hỏi được đưa ra là liệu có hợp lý không khi cho rằng công nhân có ít thông tin về mức giá hơn so với doanh nghiệp. Công nhân quan tâm đến mức giá chung, một loại chỉ số giá của tất cả các hàng hóa mà họ mua.
Kết luận rút ra từ mô hình này là đường tổng cung dốc lên. Đường tổng cung trong mô hình này dốc hơn so với mô hình tiền lương cứng nhắc (nhỏ hơn), bởi vì tiền lương danh nghĩa thay đổi khi mức giá thay đổi. Một câu hỏi được đưa ra là liệu có hợp lý không khi cho rằng công nhân có ít thông tin về mức giá hơn so với doanh nghiệp. Công nhân quan tâm đến mức giá chung, một loại chỉ số giá của tất cả các hàng hóa mà họ mua. Họ có thể không biết điều này một cách chắc chắn. Ngược lại, các doanh nghiệp quan tâm trước hết đến giá bán đối với các sản phẩm của họ và nhìn chung họ có thể biết chính xác. Trong phân tích kinh tế vĩ mô, chúng ta thường không cần phân biệt giá cả mà các công ty cá biệt bán và mức trung bình trong nền kinh tế, nhưng trong trường hợp này sự phân biệt là cần thiết .
Mô hình thông tin không hoàn hảo Mô hình tổng cung thứ ba giống mô hình nhận thức sai lầm của công nhân, vì nó một lần nữa dựa trên giả thiết có sự nhầm lẫn giữa mức giá thực tế và mức giá dự kiến. Tuy nhiên, lý thuyết này không phân biệt công nhân và các doanh nghiệp và không dựa vào giả thiết cho rằng một số người có được thông tin tốt hơn những người khác.
Trong mô hình thông tin không hoàn hảo, mọi người không có đủ thông tin. Mô hình này do R. Lucas đưa ra, một phần nhằm chính thức hóa mô hình nhận thức sai lầm của công nhân. M.Friedman đưa ra mô hình nhận thức sai lầm của công nhân năm 1968 và R. Lucas đưa ra mô hình thông tin không hoàn hảo vào đầu những năm 1970. Vì lý do này, đường tổng cung đưa ra dựa trên mô hình này đôi khi được gọi là đường tổng cung Lucas.
Xét một tình huống trong đó những người sản xuất không thể phân biệt một cách hoàn hảo giữa một cú sốc về giá cả cho các sản phẩm của họ (làm thay đổi giá tương đối và do đó họ phải thay đổi mức sản xuất) và cú sốc về mức giá chung (không làm thay đổi giá tương đối và do đó phản ứng tốt nhất là không thay đổi mức sản xuất). Giả sử một cú sốc nào đó
146 ECO102_Bai5_v2.0018102208
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
làm tăng giá, phản ứng tốt nhất của người sản xuất có lẽ nằm đâu đó giữa hai khả năng trên. Quyết định chính xác khối lượng sản phẩm cần sản xuất thêm phụ thuộc vào đánh giá của anh ta về cơ hội kiếm lợi nhuận từ mỗi cú sốc. Nói một cách chính xác hơn, mô hình giả thiết rằng những người sản xuất có một dự kiến nhất định về mức giá chung (Pe). Sau đó, họ sẽ quan sát giá cả mà họ có thể bán sản phẩm của mình. Nếu mức giá đó cao bất thường, họ có thể kết luận rằng giá cả của mọi hàng hóa đã tăng (có thể do tăng cung tiền). Trong trường hợp này, họ sẽ điều chỉnh dự đoán của họ về mức giá chung và không thay đổi mức sản xuất của họ. Trái lại, họ có thể nghĩ rằng cầu về sản phẩm của họ đã tăng, và họ sẽ sản xuất nhiều hơn. Bất cứ sự khác nhau nào giữa giá cả thực tế và dự kiến đều có thể do một hoặc cả hai khả năng này. Trong những trường hợp đó, phản ứng tốt nhất của các doanh nghiệp với sự gia tăng giá cả không được dự kiến trước là tăng sản lượng.
* Y Y
e (P P )
Tóm lại, mô hình thông tin không hoàn hảo khẳng định rằng khi giá cả cao hơn mức dự kiến, các nhà cung cấp tăng sản lượng của họ. Do vậy, mô hình có đường tổng cung dưới dạng mà chúng ta đã biết:
Sản lượng lệch khỏi mức tự nhiên khi mức giá lệch khỏi mức giá dự kiến.
Mức giá chung P: Một sự gia tăng trong mức giá chung làm giá cả của các đối thủ cạnh tranh và giá cả các yếu tố đầu vào tăng lên và do đó, doanh nghiệp cũng cần tăng giá cho các sản phẩm của mình.
Tổng thu nhập Y: Mức thu nhập cao làm tăng cầu về sản phẩm của doanh nghiệp. Vì chi phí cận biên tăng khi mức sản xuất cao hơn, nên cầu càng lớn, thì doanh nghiệp càng muốn định giá cao hơn. Chúng ta có thể viết giá mà doanh nghiệp muốn quy định như sau:
e
P P
(Y Y*)
Mô hình giá cả cứng nhắc Cuối cùng, chúng ta trở lại với mô hình giá cả cứng nhắc. Đây là một lý thuyết tương đối phức tạp hơn so với ba mô hình đã trình bày ở trên. Mô hình giá cả cứng nhắc đưa ra một quan niệm rất khác về hành vi của các doanh nghiệp. Cho đến nay chúng ta luôn nghĩ rằng các doanh nghiệp lựa chọn mức sản xuất mà họ có thể bán được tại mức giá được coi là cho trước. Tuy nhiên, trong thực tế các doanh nghiệp thường định giá bán cho các sản phẩm của mình. Để phân tích tình huống này một cách chính xác, chúng ta cần sử dụng mô hình cạnh tranh không hoàn hảo, trong đó các doanh nghiệp có một sức mạnh thị trường nhất định. Xét quyết định của một doanh nghiệp. Giá P mà doanh nghiệp muốn quy định phụ thuộc vào hai biến số:
trong đó, là tham số lớn hơn không. Phương trình này chỉ ra giá mong muốn P phụ thuộc vào mức giá chung và chênh lệch giữa sản lượng thực tế và sản lượng tự nhiên.
Bây giờ, giả thiết rằng có hai loại doanh nghiệp trong nền kinh tế. Tỷ trọng (1 – s) có giá cả linh hoạt và điều chỉnh giá cả theo những điều kiện kinh tế hiện tại dựa trên cơ sở phương trình này. Số còn lại, có tỷ trọng là s, được đặc trưng bởi giá cả cứng nhắc. Họ ấn định giá cả trước và duy trì nó trong một khoảng thời gian nhất định có thể do chi phí thực đơn hay vì một lý do nào khác. Họ định giá trên cơ sở kỳ vọng về những
167 ECO102_Bai5_v2.0018102208
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
e
*e (Y Y )
e
điều kiện kinh tế tương lai. Điều này liên quan đến dự đoán cả về cầu và mức giá chung. Để đơn giản, chúng ta giả định các doanh nghiệp này dự kiến sản lượng ở mức tự nhiên, bằng không. Khi đó, giá mà các doanh nghiệp này nên biểu thức cuối cùng
P P
. Mức giá thực tế trong nền kinh tế là số trung bình gia quyền của
e
P sP
(l
Y Y *
s) P
quy định sẽ là hai tập hợp giá cả này:
e
P P
s) / s (Y Y*)
Chúng ta có thể giải phương trình này và thu được:
(l
Kết luận đầu tiên mà chúng ta có thể rút ra từ phương trình này là nếu sản lượng ở mức tự nhiên, giá cả thực tế đúng bằng mức dự kiến. Điều này rất có ý nghĩa. Các doanh nghiệp với giá cả cứng nhắc đơn giản định giá cho sản phẩm của họ bằng mức giá dự kiến, trong khi nếu sản lượng ở mức tự nhiên, các doanh nghiệp với giá cả linh hoạt định giá đúng bằng mức giá thực tế.
*
Y Y
e (P P )
Phương trình này cũng chỉ ra rằng nếu tổng cầu cao, do đó Y cao hơn Y*, thì mức giá thực tế sẽ cao hơn mức giá dự kiến. Cầu cao làm cho các doanh nghiệp có giá cả linh hoạt tăng giá. Nếu mọi doanh nghiệp điều có giá cả linh hoạt, thì sản lượng sẽ không bao giờ vượt quá mức tự nhiên. Hành vi của các doanh nghiệp với mức giá cả cứng nhắc có vai trò hạn chế sự biến động của giá cả. Sự phản ứng của mức giá chung đối với các cú sốc về sản lượng phụ thuộc vào hỗn hợp giữa hai loại doanh nghiệp trong nền kinh tế. Khi chúng ta biến đổi phương trình này, chúng ta nhận được phương trình quen thuộc biểu diễn đường tổng cung:
s (1 s)
Trong đó:
Giống như các mô hình khác, mô hình giá cả cứng nhắc cũng hàm ý rằng đường tổng cung ngắn hạn dốc lên. Phương trình này chỉ ra đường tổng cung thoải hơn (sản lượng phản ứng mạnh hơn với sự thay đổi giá cả) khi s lớn và nhỏ. Khi có nhiều doanh nghiệp với giá cả cứng nhắc trong nền kinh tế, mức giá sẽ ở gần mức giá dự kiến của nó ngay cả khi sản lượng ở rất xa mức tự nhiên. Trên một số phương diện mô hình này về đường tổng cung rất khác so với ba mô hình trước đây. Trong khi hình dáng đường tổng cung thực ra giống nhau, nhưng luận cứ không phải là giá cả cao bất thường dẫn đến mức sản lượng cao mà trái lại là khi sản lượng cao, giá cả có xu hướng cao. Tuy nhiên, hãy ghi nhớ là cả mức giá và sản lượng đều là các biến nội sinh.
5.4.
Giới thiệu hệ thống kinh tế vĩ mô
5.4.1. Hệ thống kinh tế vĩ mô
Có nhiều cách mô tả họat động của nền kinh tế. Theo cách tiếp cận hệ thống, nền kinh tế được xem là như một hệ thống - gọi là hệ thống kinh tế vĩ mô. Hệ thống này - như
146 ECO102_Bai5_v2.0018102208
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
Những tác động từ bên ngoài, bao gồm chủ yếu các biến số phi kinh tế: thời tiết, dân
P.A.Samuelson mô tả - được đặc trưng bởi ba yếu tố: đầu vào, đầu ra và hộp đen kinh tế vĩ mô. Các yếu tố đầu vào bao gồm:
Những tác động của các biến số kinh tế như các chính sách, bao gồm các công cụ của Nhà nước nhằm điều chỉnh hộp đen kinh tế vĩ mô, hướng tới các mục tiêu đã định trước. Các yếu tố đầu ra bao gồm: sản lượng, việc làm, giá cả, xuất nhập khẩu. Đó là các biến do họat động của hộp đen kinh tế vĩ mô tạo ra. Yếu tố trung tâm của hệ thống là hộp đen kinh tế vĩ mô, còn gọi là nền kinh tế vĩ mô (Macroeconomy). Họat động của hộp đen như thế nào sẽ quyết định chất lượng của các biến đầu ra. Hai lực lượng quyết định sự họat động của hộp đen kinh tế vĩ mô là tổng cung và tổng cầu.
số, chiến tranh,...
Tổng cung và tổng cầu là hai thuật ngữ được các nhà kinh tế sử dụng khá thường xuyên. Chúng là những lực lượng làm cho nền kinh tế thị trường hoạt động. Mô hình tổng cung và tổng cầu chỉ ra sản lượng hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra và mức giá chung của nền kinh tế. Bây giờ, chúng ta sẽ lần lượt xem xét qua các khái niệm cơ bản và các yếu tố tác động đến tổng cung và tổng cầu.
5.4.2. Giới thiệu về tổng cầu (AD)
Tổng cầu là tổng khối lượng hàng hóa và dịch vụ mà các tác nhân trong nền kinh tế muốn mua và có khả năng mua ở mức giá cả, thu nhập và các biến số kinh tế khác nhau đã cho. Tổng khối lượng hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân là tổng giá trị nền kinh tế quốc dân. Ví dụ: Năm 2017 tổng sản phẩm quốc dân (tổng giá trị) hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam là 200 tỷ USD. Đường tổng cầu AD là đường dốc xuống, có độ dốc âm; trục tung biểu thị mức giá chung (chẳng hạn là chỉ số CPI) ký hiệu là P, còn được gọi là mặt bằng giá; Y là sản lượng (hoặc thu nhập), ta thường dùng GNP thực tế để tính.
169 ECO102_Bai5_v2.0018102208
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
Hình 5.22. Đường tổng cầu
Tại sao đường cầu dốc xuống? Trong trường hợp một sản phẩm cá biệt, dạng dốc xuống của đường cầu sản phẩm là tương đối dễ giải thích. Nếu giá của một loại nước ngọt nào đó tăng thì khối lượng cầu của loại nước ngọt đó giảm vì người tiêu dùng sẽ chuyển sang sử dụng các loại nước ngọt khác. Cũng có thể giải thích tương tự đối với dạng dốc xuống của đường cầu của tất cả các sản phẩm cùng một loại. Ví dụ: Nếu giá của tất cả các loại nước ngọt đều tăng, thì khối lượng cầu của mặt hàng nước ngọt giảm vì người tiêu dùng sẽ chuyển sang tiêu dùng các loại nước giải khát khác hoặc các loại sản phẩm khác. Nếu giá của tất cả các loại sản phẩm và dịch vụ đều tăng (mức giá tăng) thì khối lượng chi tiêu của toàn bộ nền kinh tế có xu hướng tăng lên, tổng cầu tăng lên? Nguyên nhân dẫn đến điều đó là do khi giá cả giảm, thu nhập thực tế của công chúng tăng lên, tiêu dùng thực tế sẽ cao hơn, tổng cầu cũng sẽ cao hơn.
Mức giá cả chung trong nền kinh tế quốc dân: Giá cả tăng thì tổng mức cầu giảm và
Tổng cầu chịu tác động của nhiều yếu tố khác nhau, chúng ta có thể bắt đầu bằng việc xác định hàm tổng chi tiêu trong nền kinh tế mở: AE = C + I + G + X – IM. Khi thu nhập thực tế bằng chi tiêu dự kiến, thì tổng cầu chính là tổng chi tiêu của nền kinh tế. Điều này cho thấy, tổng cầu được cấu thành bởi cầu về hàng hóa dịch vụ, cầu đầu tư của các hãng tư nhân, cầu chi tiêu của Chính phủ và cầu về xuất khẩu ròng. Các yếu tố tác động đến tổng cầu bao gồm:
Các nhân tố khác: Các nhân tố này thay đổi sẽ làm cho đường tổng cẩu dịch chuyển
ngược lại, xảy ra hiện tượng trượt dọc các điểm trên đường tổng cầu.
o Nhân tố lãi suất: Nếu tất cả các yếu tố khác không đổi, lãi suất tăng sẽ làm giảm
sang vị trí mới.
o Lạm phát được dự đoán: Khi tỷ lệ lạm phát được dự đoán tăng, tổng cầu tăng, nếu
tổng cầu.
o Tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng đến tổng cầu vì nó chi phối đồng thời giá mà người nước ngoài phải trả để mua sản phẩm sản xuất ở trong nước và giá mà người trong nước phải trả để mua sản phẩm của nước ngoài. Khi đồng nội tệ tăng giá so với đồng ngoại tệ, tổng cầu sẽ giảm.
o Lợi nhuận dự đoán: Khi xuất hiện những nhân tố làm tăng mức dự đoán về lợi nhuận, tổng cầu tăng, vì một tình hình kinh doanh lạc quan hơn sẽ kích thích các
các yếu tố khác không đổi.
146 ECO102_Bai5_v2.0018102208
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
o Khối lượng tiền (Mức cung tiền): Một sự thay đổi của mức cung tiền sẽ có sự thay
doanh nghiệp tăng đầu tư, đổi mới thiết bị, công nghệ. Mặt khác triển vọng tăng thu nhập khuyến khích người ta tăng chi tiêu.
o Thu nhập của người tiêu dùng tăng: Thu nhập của người tiêu dùng tăng, chi tiêu
đổi của lãi suất và tác động tới tổng cầu.
o Cầu về hàng hóa và dịch vụ của Chính phủ: tác động trực tiếp tới tổng cầu. Giả định thuế không đổi, khi Chính phủ tăng chi tiêu cho các công trình như xây dựng cầu và đường thì tổng cầu sẽ tăng.
o Ngoài ra còn có các nhân tố: thuế và chi chuyển nhượng; xuất nhập khẩu; dân
về hàng hóa và dịch vụ sẽ tăng, tổng cầu sẽ tăng.
o Đầu tư của của các hãng tư nhân.
số,... cũng có tác động rất lớn đến tổng cầu.
Mức giá và tiêu dùng: Hiệu ứng Pigou. Với mức giá thấp hơn, lượng tiền mà các hộ gia đình đang nắm giữ trở nên có giá trị hơn. Các hộ gia đình cảm thấy giàu có hơn và chi tiêu nhiều hơn, làm tăng tiêu dùng.
Mức giá và đầu tư: Hiệu ứng Keynes. Với mức giá thấp hơn, các hộ gia đình cần giữ ít tiền hơn để mua lượng hàng hóa như cũ. Họ cho vay một phần số tiền thừa, làm cho lãi suất giảm và có tác dụng kích thích đầu tư.
Mức giá và xuất khẩu ròng: Hiệu ứng tỷ giá hối đoái. Việc giảm giá trong nước làm cho hàng hóa Việt Nam trở nên rẻ một cách tương đối so với hàng ngoại. Điều này có tác dụng khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu và làm tăng thành phần xuất khẩu ròng trong tổng cầu.
Đường tổng cầu cho biết tổng khối lượng hàng hóa và dịch vụ được mua tại những mức giá khác nhau. Nói cách khác, đường tổng cầu biểu thị mối quan hệ giữa lượng tổng cầu và mức giá. Để hiểu tại sao đường tổng cầu dốc xuống, chúng ta xem xét ảnh hưởng của sự thay đổi mức giá đối với tiêu dùng, đầu tư, và xuất khẩu ròng. Việc cắt giảm mức giá sẽ làm tăng tiêu dùng, đầu tư, và xuất khẩu ròng vì các lý do sau:
Cả ba hiệu ứng này đều hàm ý rằng có mối quan hệ ngược chiều giữa mức giá và khối lượng hàng hóa và dịch vụ được mua. Nói cách khác, đường tổng cầu dốc xuống. Sự trượt dọc trên một đường tổng cầu được gọi là di chuyển. Khi một sự kiện làm thay đổi lượng tổng cầu tại mỗi mức giá cho trước, thì đường tổng cầu sẽ dịch chuyển.
5.4.3. Giới thiệu về tổng cung (AS)
Đường tổng cung dài hạn (LRAS) là đường song song với trục tung và cắt trục hoành
Tổng cung bao gồm tổng khối lượng sản phẩm quốc dân mà các doanh nghiệp sẽ sản xuất và bán ra trong một thời kỳ tương ứng với giá cả, khả năng sản xuất và chi phí sản xuất đã cho. Tổng cung liên quan đến khái niệm sản lượng tiềm năng. Đó là sản lượng tối đa mà nền kinh tế có thể sản xuất ra trong điều kiện toàn dụng nhân công, mà không gây nên lạm phát. Sản lượng tiềm năng phụ thuộc vào việc sử dụng các yếu tố sản xuất, đặc biệt là lao động.
Đường tổng cung ngắn hạn (SRAS): Đường tổng cung ban đầu tương đối nằm
ở mức sản lượng tiềm năng.
ngang, khi vượt qua điểm sản lượng tiềm năng, đường tổng cung sẽ dốc lên.
171 ECO102_Bai5_v2.0018102208
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
Điều này nói lên rằng, ở dưới mức sản lượng tiềm năng, một sự thay đổi nhỏ về giá cả đầu ra sẽ khuyến khích các hãng tăng nhanh sản lượng để đáp ứng nhu cầu tăng lên. Sở dĩ có các hành động như vậy vì trong khoảng thời gian ngắn, đứng trước giá đầu vào cố định, họ có thể đồng thời tăng sản lượng và tăng giá nhẹ để thu lợi nhuận. Về mặt dài hạn, chi phí đầu vào đã điều chỉnh thì các hãng không còn động lực để tăng sản lượng. Giá cả sẽ tăng lên nhanh chóng để đáp ứng với sự thay đổi của tổng mức cầu. Đường cung dài hạn do đó là đường thẳng đứng.
Hình 5.23. Đường tổng cung trong ngắn hạn và dài hạn
o Nguồn nhân lực: Nguồn nhân lực càng đông, khối lượng sản phẩm và dịch vụ sản
Tổng cung phụ thuộc vào chủ yếu vào giá cả và chi phí. Khi giá cả và chi phí sản xuất thấp, các doanh nghiệp có thể sản xuất ít hơn sản lượng tiềm năng. Với mức giá cao hơn, thì ngược lại. Tuy nhiên, các doanh nghiệp luôn muốn tăng sản lượng của mình để đạt tới sản lượng tiềm năng. Do vậy, ngoài yếu tố giá cả và chi phí, tổng cung còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố làm tăng sản lượng tiềm năng. Cụ thể, tổng cung phụ thuộc vào các yếu tố sau: Các yếu tố làm thay đổi đồng thời tổng cung ngắn hạn và tổng cung dài hạn:
o Cơ sở vật chất kỹ thuật, tiến bộ công nghệ: Máy móc thiết bị, cơ sở vật chất càng nhiều, càng hiện đại, năng suất lao động càng cao và khối lượng sản phẩm dịch vụ sản xuất càng lớn. Trình độ công nghệ có ảnh hưởng quan trọng đối với tổng cung. Việc phát minh các phương pháp sản xuất mới, hiệu quả hơn, cho phép các xí nghiệp sản xuất nhiều hơn với cùng một khối lượng yếu tố sản xuất. Ngay cả khi dân số và cơ sở vật chất không đổi, tiến bộ kỹ thuật có thể làm tăng sản lượng và tổng cung.
o Vốn con người: Nguồn nhân lực có trình độ học vấn cao, thành thạo nghề nghiệp
xuất càng lớn.
o Nguồn nguyên liệu: Sự dồi dào, phong phú của nguồn nguyên liệu có tác động rất đáng kể đối với sản lượng. Việc phát hiện ra các nguồn nguyên liệu mới góp phần làm giảm chi phí sản xuất và tăng sản lượng. Ngược lại, sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên sẽ có tác động làm giảm sản lượng.
thì năng suất lao động càng cao.
146 ECO102_Bai5_v2.0018102208
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
o Thời tiết, khí hậu: Thời tiết chắc chắn có ảnh hưởng đối với sản lượng, đặc biệt trong nông nghiệp. Thời tiết thuận lợi làm tăng sản lượng, thời tiết bất lợi làm giảm sản lượng.
o Những thay đổi trong thành phần của GDP thực: Khi các vùng và các thành phần của nền kinh tế phát triển theo cùng một nhịp thì thành phần của GDP thực ổn định. Ngược lại khi có một vài khu vực tăng trưởng nhanh trong khi một số khu vực khác sa sút thì thành phần của GDP thực thay đổi nhanh chóng. Trong trường hợp này, nguồn nhân lực sẽ chuyển dịch để thích ứng với sự thay đổi của cơ cấu kinh tế, làm cho tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên tăng, tổng cung giảm xuống.
o Những yếu tố kích thích: Đây là những yếu tố (thường là các chính sách) có tác dụng khuyến khích hoặc ngăn cản người ta đi đến một hành động nào đó. Những yếu tố này cũng có thể có ảnh hưởng đối với tổng cung. Một mức thuế quá cao có thể không khuyến khích dân chúng làm việc, không khuyến khích tiết kiệm hoặc tích lũy vốn. Do đó chính sách tăng thuế có tác dụng làm giảm tổng cung.
Những yếu tố chỉ làm thay đổi tổng cung ngắn hạn:
o Tiền lương: Có ảnh hưởng đối với tổng cung ngắn hạn vì tiền lương là một bộ phận quan trọng của chi phí sản xuất. Tiền lương càng cao, phí tổn sản xuất của các xí nghiệp càng lớn và do đó xí nghiệp sẽ giảm khối lượng sản phẩm cung ứng đối với mọi mức giá.
o Giá của các yếu tố sản xuất khác: Giá của các yếu tố sản xuất khác cũng có tác động tương tự như tác động của tiền lương đối với tổng cung ngắn hạn. Mọi mức tăng giá của các yếu tố sản xuất đều làm tăng chi phí sản xuất của xí nghiệp và xí nghiệp sẽ giảm sản lượng đối với mọi mức giá.
5.4.4. Cân bằng trên mô hình AD-AS
a. Trạng thái cân bằng của nền kinh tế
Nếu đưa hai đồ thị AD và AS vào cùng một hệ trục ta sẽ thấy hai đường đó cắt nhau tại E0 (hình 5.25). Điểm E0 gọi là điểm cân bằng trong cả ngắn hạn và dài hạn của nền kinh tế. Cân bằng tổng cung - tổng cầu còn gọi là cân bằng của thị trường hàng hóa và dịch vụ của quốc gia.
Hình 5.24. Trạng thái cân bằng của nền kinh tế trong mô hình AS-AD
173 ECO102_Bai5_v2.0018102208
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
Điểm E0 là điểm cân bằng dài hạn của nền kinh tế, tại đó AD = LRAS = SRAS. Mức giá P0 gọi là giá cân bằng của nền kinh tế, tại điểm E0, nền kinh tế đạt trạng thái cân bằng, các hãng luôn luôn đáp ứng đầy đủ mọi nhu cầu của nền kinh tế. Tại trạng thái cân bằng dài hạn, mức sản lượng Y0 bằng mức sản lượng tiềm năng Y*, tại đó tỷ lệ lạm phát bằng lạm phát dự kiến, giá cả bình ổn, tỷ lệ thất nghiệp là tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Hầu hết các quốc gia đều muốn đạt được trạng thái cân này.
b. Sự trượt dọc và dịch chuyển đường tổng cung và tổng cầu
Sự trượt dọc (di chuyển) theo đường AS và AD biểu thị những thay đổi trong tổng
Khi phân tích sự trượt dọc và dịch chuyển đường tổng cung và tổng cầu, chúng ta cần phân biệt sự di chuyển tổng cung và tổng cầu và sự dịch chuyển toàn bộ hai đường đó trong hệ trục:
Sự dịch chuyển toàn bộ đường AS và AD biểu thị những thay đổi của tổng cung hoặc
mức cung hoặc tổng mức cầu tuỳ thuộc vào giá cả thay đổi.
tổng cầu, phụ thuộc vào tác động của những biến số khác.
Đường tổng cầu dịch chuyển sang trái hoặc sang phải chủ yếu tuỳ thuộc vào tác động của các biến chính sách như thuế, chi tiêu của Chính phủ, lãi suất,... Đường tổng cung dịch chuyển sang trái hoặc sang phải phụ thuộc vào tác động của lao động, tài nguyên, kỹ thuật và các chi phí đầu vào khác. Khi nghiên cứu tác động của một yếu tố nào đó đến AD hoặc AS người ta thường cố định những nhân tố khác, làm cho việc phân tích trở nên dễ dàng hơn. Ví dụ: Sự tác động của tổng cung, tổng cầu đến sản lượng cân bằng của nền kinh tế
Trường hợp 1: Giả sử nền kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái, các doanh nghiệp lâm vào tình trạng làm ăn đình đốn trì trệ, họ không muốn đầu tư thêm, các hộ gia đình không muốn chi tiêu thêm cho tiêu dùng do đó tổng cầu của nền kinh tế đạt ở mức thấp so với sản lượng tiềm năng, người lao động bị đẩy vào tình trạng mất việc làm bởi vậy thất nghiệp gia tăng. Mục tiêu đặt ra của Chính phủ trong trường hợp này là phải giảm thất nghiệp và mở rộng tổng cầu bằng một số cách sau:
Hình 5.25. Sự dịch chuyển đường tổng cầu (a)
o Chính phủ tăng mức chi tiêu (G) do đó làm cho tổng cầu (AD) tăng từ AD1 đến AD0. Sản lượng cân bằng của nền kinh tế tăng từ Y1 lên Y* (sản lượng tiềm
146 ECO102_Bai5_v2.0018102208
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
o Chính phủ giảm thuế (T), do đó để khuyến khích tiêu dùng của dân chúng và đầu tư của các doanh nghiệp tăng lên làm cho tổng cầu (AD) cũng tăng từ AD1 đến AD0, dẫn đến giá tăng từ P1 đến P*, sản lượng cân bằng sẽ tăng từ Y1 đến Y*, thất nghiệp giảm.
Trường hợp 2: Khi nền kinh tế phát triển “quá nóng”, phát triển đạt quá mức sản lượng tiềm năng (Y*), lạm phát tăng, gây ra những bất lợi cho nền kinh tế nói chung và mọi họat động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nói riêng. Trong trường hợp này, mục tiêu của Chính phủ là phải làm giảm lạm phát bằng cách cắt giảm chi tiêu hoặc tăng thuế, nhờ đó mà mức chi tiêu chung (tổng cầu) giảm, sản lượng cũng giảm và lạm phát chững lại.
năng), giá tăng từ P1 đến P* (giá cân bằng của thị trường). Do giá cả thị trường tăng, các doanh nghiệp đầu tư nhiều hơn để phát triển sản xuất tìm kiếm lợi nhuận, do đó đã tạo ra nhiều việc làm góp phần làm cho thất nghiệp giảm.
Hình 5.26. Sự dịch chuyển đường tổng cầu (b)
Trên đồ thị cho thấy, do tổng cầu của nền kinh tế tăng từ AD0 đến AD1, sản lượng Y1 vượt quá mức sản lượng tiềm năng Y* (hình 5.27), do đó giá tăng từ P0 đến P1 và gây ra lạm phát. Để chống lạm phát, Chính phủ đã sử dụng chính sách tài khóa để can thiệp vào nền kinh tế bằng cách cắt giảm chi tiêu (G) hoặc tăng thuế (T). Do đó, tổng cầu của nền kinh tế giảm, đường tổng cầu dịch chuyển từ AD1 xuống AD0, điểm cân bằng dịch chuyển từ E1 xuống E0, sản lượng cân bằng giảm từ Y1 xuống Y*, giá giảm từ P1 xuống P0, lạm phát cũng chững lại nền kinh tế đạt trạng thái cân bằng dài hạn tại E0.
5.5. Mối quan hệ giữa các mô hình AD-AS và IS-LM trong ngắn hạn và dài hạn
5.5.1. Trong ngắn hạn
Để giải thích những biến động kinh tế trong ngắn hạn, phần lớn các nhà kinh tế đều dựa trên giả thiết là giá cả không hoàn toàn linh họat. Thực tế cho thấy giá một số hàng hóa hoàn toàn cứng nhắc, chúng không hề phản ứng trước bất kỳ sự thay đổi nào của cung và cầu. Có nhiều chứng cứ cho thấy giá cả không linh họat lắm trong ngắn hạn. Ví dụ: Các nhà hàng không thay đổi giá các món ăn trong ngày: Không tăng giá vào buổi trưa khi đông khách và giảm giá vào giữa chiều khi vắng khách. Các nhà hàng in sẵn các thực đơn trong đó giá các món ăn được xác định trước. Hợp đồng lao động quy định trước
175 ECO102_Bai5_v2.0018102208
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
tiền lương cho tháng hay năm. Do đó, mô hình về nền kinh tế trong ngắn hạn dựa trên giả thiết giá cả cứng nhắc.
Trong ngắn hạn, nhiều loại giá cả chưa phản ứng kịp với những thay đổi trong chính sách tiền tệ. Sự cắt giảm cung tiền không được thực hiện phản ứng ngay lập tức dẫn đến việc tất cả các doanh nghiệp đều cắt giảm tiền công mà họ đang trả, các cửa hàng đều muốn thay đổi giá cả ghi trên cataloge. Như vậy, giá cả thay đổi ít, nhiều loại giá cả có tính cức nhắc. Tính cứng nhắc của giá cả trong ngắn hạn hàm ý ảnh hưởng ngắn hạn của sự thay đổi trong cung tiền không giống như ảnh hưởng của nó trong dài hạn.
Hình 5.27. Cân bằng của nền kinh tế trong ngắn hạn
Giả định tất cả giả cả đều cố định trong ngắn hạn, tính cứng nhắc này của giá cả hàm ý đường tổng cung trong ngắn hạn SRAS là đường nằm ngang. Khi có sự gia tăng cung tiền, đường tổng cầu sẽ dịch chuyển sang phải. Trạng thái cân bằng của nền kinh tế thay đổi từ E1 đến E2. Do giá cả cứng nhắc, không đổi, nên chỉ có sự thay đổi sản lượng. Sản lượng gia tăng từ Y1 đến Y2, được mô tả trên hình 5.28.
5.5.2. Trong dài hạn
Sự điều chỉnh từng bước của mức giá sẽ làm cho nền kinh tế di chuyển từ ngắn hạn sang dài hạn. Điều này thể hiện như sau:
Bảng 5.1. Sự thay đổi mức giá
Cân bằng trong ngắn hạn, nếu
Sau đó theo thời gian, mức giá sẽ
Y > Y*
Tăng
Y < Y*
Giảm
Y = Y*
Vẫn cố định
Giả sử có cú sốc ngược chiều của đường IS như: Chi tiêu của Chính phủ giảm, hoặc thuế tăng, hoặc tiêu dùng của dân cư giảm, hoặc đầu tư giảm, khi đó đường IS sẽ dịch chuyển sang trái (hình 5.29). Trong mô hình IS-LM, lãi suất và thu nhập của nền kinh tế đều giảm. Theo mô hình AD-AS, theo thời gian, giá sẽ giảm đều đặn, đường tổng cung trong ngắn hạn dịch chuyển xuống dưới (sang phải). Cung tiền thực tế (M/P) tăng lên, đường LM dịch chuyển xuống dưới (sang phải). Nếu mức sản lượng thực tế vẫn nhỏ hơn sản lượng tiềm năng (Y < Y*) thì mức giá sẽ càng giảm (M/P) sẽ càng tăng, đường LM sẽ càng dịch chuyển sang phải. Quá trình này tiếp diễn xảy ra cho đến khi nền kinh tế đạt được cân bằng dài hạn Y = Y*.
146 ECO102_Bai5_v2.0018102208
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
Mức lãi suất
ASL
LM(P1)
LM(P2)
IS1
IS2
0
Sản lượng (Y)
Y*
Mức giá (P)
ASL
ASS1
P1
ASS2
P2
AD1
AD2
0
Sản lượng (Y)
Y*
Hình 5.28. Ảnh hưởng của cú sốc đường IS trong ngắn hạn và dài hạn
5.5.3. Chu kỳ kinh tế và khoảng cách sản lượng
a. Khái niệm chu kỳ kinh tế
Nền kinh tế thị trường của các nước công nghiệp phát triển tiêu biểu thường phải chống đối với vấn đề chu kỳ kinh tế. Liên quan đến chu kỳ kinh tế là sự đình trệ sản xuất, thất nghiệp và lạm phát. Chu kỳ kinh tế là sự dao động của GNP thực tế xung quanh xu hướng tăng lên của sản lượng tiềm năng. Độ lệch giữa sản lượng tiềm năng và sản lượng thực tế gọi là sự thiếu hụt sản lượng. Khoảng cách sản lượng = Sản lượng tiềm năng – Sản lượng thực tế.
Suy thoái là pha trong đó GDP thực tế giảm đi. Ở Mỹ và Nhật Bản, người ta quy định rằng, khi tốc độ tăng trưởng GDP thực tế mang giá trị âm suốt hai quý liên tiếp thì mới gọi là suy thoái.
Phục hồi là pha trong đó GDP thực tế tăng trở lại bằng mức ngay trước suy thoái.
Nghiên cứu sự thiếu hụt sản lượng giúp cho việc tìm ra những biện pháp chống lại chu kỳ kinh tế - nhằm ổn định kinh tế. Chu kỳ kinh tế, còn gọi là chu kỳ kinh doanh, là sự biến động của GDP thực tế theo trình tự ba pha lần lượt là suy thoái, phục hồi và hưng thịnh (bùng nổ). Cũng có quan điểm coi pha phục hồi là thứ yếu nên chu kỳ kinh doanh chỉ gồm hai pha chính là suy thoái và hưng thịnh (hay mở rộng). Chu kỳ kinh tế
Khi GDP thực tế tiếp tục tăng và bắt đầu lớn hơn mức ngay trước lúc suy thoái, nền kinh tế đang ở pha hưng thịnh (hay còn gọi là pha bùng nổ). Kết thúc pha hưng thịnh
Điểm ngoặt giữa hai pha này là đáy của chu kỳ kinh tế.
177 ECO102_Bai5_v2.0018102208
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
lại bắt đầu pha suy thoái mới. Điểm ngoặt từ pha hưng thịnh sang pha suy thoái mới gọi là đỉnh của chu kỳ kinh tế.
Hình 5.29. Chu kỳ kinh tế
Cầu về lao động giảm, đầu tiên là số ngày làm việc của người lao động giảm xuống
Thông thường, người ta chỉ nhận ra hai điểm đáy và đỉnh của chu kỳ kinh tế khi nền kinh tế đã sang pha tiếp sau điểm ngoặt với dấu hiệu là tốc độ tăng trưởng GDP thực tế đổi chiều giữa mức âm và mức dương. Trong thực tế, các nhà kinh tế học cố tìm cách nhận biết dấu hiệu của suy thoái vì nó tác động tiêu cực đến mọi mặt kinh tế, xã hội. Một số đặc điểm thường gặp của suy thoái là: Tiêu dùng giảm mạnh, hàng tồn kho của các loại hàng hóa lâu bền trong các doanh nghiệp tăng lên ngoài dự kiến. Việc này dẫn đến nhà sản xuất cắt giảm sản lượng kéo theo đầu tư vào trang thiết bị, nhà xưởng cũng giảm và kết quả là GDP thực tế giảm sút.
Khi sản lượng giảm thì lạm phát sẽ chậm lại do giá đầu vào của sản xuất giảm bởi nguyên nhân cầu sút kém. Giá cả dịch vụ khó giảm nhưng cũng tăng không nhanh trong giai đoạn kinh tế suy thoái.
Lợi nhuận của các doanh nghiệp giảm mạnh và giá chứng khóan thường giảm theo khi các nhà đầu tư cảm nhận được pha đi xuống của chu kỳ kinh doanh. Cầu về vốn cũng giảm đi làm cho lãi suất giảm xuống trong thời kỳ suy thoái.
tiếp theo là hiện tượng cắt giảm nhân công và tỷ lệ thất nghiệp tăng cao.
Còn khi nền kinh tế hưng thịnh thì các dấu hiệu trên biến thiên theo chiều ngược lại. Trước đây, một chu kỳ kinh doanh thường được cho là có bốn pha lần lượt là suy thoái, khủng hoảng, phục hồi và hưng thịnh. Tuy nhiên, trong nền kinh tế hiện đại, khủng hoảng theo nghĩa kinh tế tiêu điều, thất nghiệp tràn lan, các nhà máy đóng cửa hàng loạt,v.v không xảy ra nữa. Vì thế, toàn bộ giai đoạn GDP giảm đi, tức là giai đoạn nền kinh tế thu hẹp lại, được gọi duy nhất là suy thoái. Ở Việt Nam cho đến đầu thập niên 1990, trong một số sách về kinh tế các nước tư bản chủ nghĩa, khi nói về chu kỳ kinh tế thường gọi tên bốn pha này là khủng hoảng, tiêu điều, phục hồi và hưng thịnh. Nay không còn thấy cách gọi này nữa.
146 ECO102_Bai5_v2.0018102208
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
b. Ảnh hưởng của chu kỳ kinh tế
Chủ nghĩa Keynes cho rằng chu kỳ kinh tế hình thành do thị trường không hoàn hảo, khiến cho tổng cầu biến động mà thành. Do đó, biện pháp chống chu kỳ là sử dụng chính sách quản lý tổng cầu. Khi nền kinh tế thu hẹp, thì sử dụng các chính sách tài chính và chính sách tiền tệ nới lỏng. Khi nền kinh tế khuếch trương thì lại chuyển hướng các chính sách đó sang thắt chặt.
Các trường phái theo chủ nghĩa kinh tế tự do mới thì cho rằng sở dĩ có chu kỳ là do sự can thiệp của Chính phủ hoặc do những cú sốc cung ngoài dự tính. Vì thế, để không xảy ra chu kỳ hoặc để nền kinh tế nhanh chóng điều chỉnh sau các cú sốc cung, Chính phủ không nên can thiệp gì cả.
Chu kỳ kinh tế là những biến động không mang tính quy luật. Không có hai chu kỳ kinh tế nào hoàn toàn giống nhau và cũng chưa có công thức hay phương pháp nào dự báo chính xác thời gian, thời điểm của các chu kỳ kinh tế. Chính vì vậy chu kỳ kinh tế, đặc biệt là pha suy thoái sẽ khiến cho cả khu vực công cộng lẫn khu vực tư nhân gặp nhiều khó khăn. Khi có suy thoái, sản lượng giảm sút, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao, các thị trường từ hàng hóa dịch vụ cho đến thị trường vốn,... thu hẹp dẫn đến những hậu quả tiêu cực về kinh tế, xã hội. Chu kỳ kinh tế khiến cho kế họach kinh doanh của khu vực tư nhân và kế họach kinh tế của nhà nước gặp khó khăn. Việc làm và lạm phát cũng thường biến động theo chu kỳ kinh tế. Đặc biệt là trong những pha suy thoái, nền kinh tế và xã hội phải gánh chịu những tổn thất, chi phí khổng lồ. Vì thế, chống chu kỳ là nhiệm vụ được nhà nước đặt ra. Tuy nhiên, vì cách lý giải nguyên nhân gây ra chu kỳ giữa các trường phái kinh tế học vĩ mô không giống nhau, nên biện pháp chống chu kỳ mà họ đề xuất cũng khác nhau.
Lý thuyết tiền tệ: Cho rằng chu kỳ kinh tế là do sự mở rộng hay thắt chặt của chính sách tiền tệ và tín dụng. Đại diện tiêu biểu của lý thuyết này là nhà kinh tế học đoạt giải Nobel kinh tế năm 1976, người đứng đầu trường phái Chicago Milton Friedman. Lý thuyết này tỏ ra phù hợp với cuộc suy thoái của kinh tế Mỹ 1981-1982 khi Cục Dự trữ Liên bang tăng lãi suất danh nghĩa tới 18% để chống lạm phát.
Mô hình gia tốc - số nhân: Do Paul Samuelson đưa ra, mô hình này cho rằng các biến động ngoại sinh được lan truyền theo cơ chế số nhân kết hợp với sự gia tốc trong đầu tư tạo ra những dao động có tính chu kỳ của GDP.
Lý thuyết chính trị: Đại diện là các nhà kinh tế học William Nordhaus và Michał Kalecki. Lý thuyết này quy cho các chính trị gia là nguyên nhân gây ra chu kỳ kinh tế vì họ hướng các chính sách tài khóa và tiền tệ để có thể thắng cử.
Lý thuyết chu kỳ kinh doanh cân bằng: Với những đại diện như Robert Lucas, Jr., Robert Barro và Thomas Sargent phát biểu rằng những nhận thức sai lầm về sự vận động của giá cả, tiền lương đã khiến cho cung về lao động quá nhiều hoặc quá ít dẫn đến các chu kỳ của sản lượng và việc làm. Một trong những phiên bản của lý thuyết này là tỷ lệ thất nghiệp cao trong suy thoái là do mức lương thực tế của công nhân cao hơn mức cân bằng của thị trường lao động.
Lý thuyết chu kỳ kinh doanh thực tế: Lập luận rằng những biến động tích cực hay tiêu cực về năng suất lao động trong một khu vực có thể lan tỏa trong nền kinh tế và
Một số lý thuyết chính lý giải nguyên nhân của chu kỳ kinh tế là:
179 ECO102_Bai5_v2.0018102208
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
gây ra những dao động có tính chu kỳ. Những người ủng hộ lý thuyết này là nhà kinh tế học đoạt giải Nobel trong năm 2004 gồm Edward Prescott, Charles Prosser.
Tuy vậy, cho dù mỗi lý thuyết trên đây đều có tính hiện thực, không có lý thuyết nào tỏ ra đúng đắn ở mọi lúc, mọi nơi. Ngày nay, quan sát các chu kỳ kinh tế ở các nền kinh tế công nghiệp phát triển, người ta phát hiện ra hiện tượng pha suy thoái càng ngày càng ngắn về thời gian và nhẹ về mức độ thu hẹp của GDP thực tế. Một trong những nguyên nhân quan trọng là Chính phủ các nước này đã hiểu biết và vận dụng tốt hơn những hiểu biết về kinh tế vĩ mô. Bằng cách kết hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ, nhà nước có thể ngăn chặn một cuộc suy thoái biến thành khủng hoảng. Chu kỳ kinh doanh khốc liệt tàn phá chủ nghĩa tư bản trong những thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản đã được chế ngự.
c. Dự báo chu kỳ kinh tế
Các chuyên gia kinh tế đã tìm cách xây dựng và phát triển công cụ dự báo những thay đổi trong nền kinh tế. Những mô hình đơn giản nhất dựa trên số liệu dễ thu thập như sản lượng một số tư liệu sản xuất quan trọng (thép,...), khối lượng hàng hóa vận chuyển... rồi công thức hóa số liệu thống kê để đưa ra chỉ số có tính chất dự báo. Dần dần, với sự phát triển của công nghệ thông tin, người ta đã xây dựng những mô hình kinh tế lượng phức tạp với hàng chục nghìn biến số cùng những hệ phương trình phức tạp để dự báo. Đi tiên phong trong sự phát triển công cụ dự báo là những nhà kinh tế học Jan Tinbergen (giải Nobel năm 1969), Lawrence Klein (giải Nobel năm 1980). Nhờ đó, dự báo biến động kinh tế vĩ mô đã có độ tin cậy lớn hơn mặc dù nó chưa đạt độ chính xác cao khi có những thay đổi về những chính sách lớn.
5.6.
Hai nguyên nhân gây ra biến động kinh tế
5.6.1. Cú sốc cầu
Khi đường tổng cung có độ dốc dương, các cú sốc ngoại sinh tác động đến tổng cầu sẽ gây ra sự dao động của sản lượng và mức giá. Sự dao động của sản lượng xung quanh mức tự nhiên được gọi là chu kỳ kinh doanh. Điều này thường được coi là tốn kém và không mong muốn. Vì Chính phủ có thể tác động đến tổng cầu thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô, do đó Chính phủ có thể cân nhắc việc sử dụng các chính sách này để ổn định nền kinh tế.
Ví dụ, giả sử nền kinh tế Việt Nam ban đầu ở trạng thái cân bằng tại mức sản lượng tiềm năng. Nếu các nhà đầu tư và các hộ gia đình bi quan về triển vọng phát triển của nền kinh tế và chi tiêu ít hơn, thì điều này sẽ làm giảm tổng cầu. Trên hình 5.31, đường tổng cầu dịch chuyển sang trái từ AD1 đến AD2. Trong ngắn hạn, nền kinh tế di chuyển dọc từ A đến B theo đường tổng cung ngắn hạn ban đầu AS1. Khi nền kinh tế chuyển từ A đến B, sản lượng giảm từ Y* xuống Y2 và mức giá giảm từ P1 xuống P2. Sự suy giảm sản lượng cho thấy nền kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái. Các doanh nghiệp phản ứng lại sự giảm sút doanh số bán ra và sản xuất bằng cách cắt giảm việc làm.
146 ECO102_Bai5_v2.0018102208
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
LRAS
P
AS1
P1
A
AS2
P2
B
AD1
P3
C
AD2
0
Y*
Y
Y2
Hình 5.30. Ảnh hưởng của sự cắt giảm tổng cầu đến sản lượng và mức giá
Trong ngắn hạn, nền kinh tế di chuyển dọc từ điểm A đến điểm B theo đường tổng cung ngắn hạn ban đầu AS1. Khi nền kinh tế chuyển từ A đến B, sản lượng giảm từ Y* xuống Y2 và mức giá giảm từ P1 xuống P2. Sự suy giảm sản lượng cho thấy nền kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái. Các nhà họach định chính sách nên làm gì khi đối mặt với một cuộc suy thoái như vậy? Một khả năng là thực hiện các biện pháp để kích thích tổng cầu, làm cho đường tổng cầu dịch chuyển sang phải. Nếu các nhà họach định chính sách hành động kịp thời và chính xác, họ có thể triệt tiêu sự dịch chuyển ban đầu của đường tổng cầu, đẩy nó trở về AD1 và đưa nền kinh tế về điểm A. Ngay cả khi các nhà họach định chính sách không can thiệp gì cả thì cuộc suy thoái cũng sẽ tự hồi phục sau một khoảng thời gian. Do tổng cầu giảm, mức giá giảm xuống. Có thể, kỳ vọng bắt kịp thực tế và mức giá dự kiến cũng giảm. Do sự giảm sút của mức giá dự kiến làm thay đổi nhận thức, tiền lương và giá cả, nên nó làm cho đường tổng cung ngắn hạn dịch sang phải, từ AS1 sang AS2 như trong đồ thị trên. Theo thời gian, quá trình hiệu chỉnh này của kỳ vọng cho phép nền kinh tế tiến dần đến điểm C, điểm mà đường tổng cầu mới (AD2) cắt đường tổng cung dài hạn. Tại điểm cân bằng dài hạn C, sản lượng trở lại mức tự nhiên. Mặc dù làn sóng bi quan làm giảm tổng cầu, nhưng sự giảm sút của mức giá (đến P3) đủ để bù đắp sự thay đổi của tổng cầu. Như vậy, trong dài hạn, sự dịch chuyển của đường tổng cầu được phản ánh hoàn toàn trong mức giá mà không hề có một ảnh hưởng nào tới sản lượng. Nói cách khác, ảnh hưởng dài hạn của sự dịch chuyển đường tổng cầu là làm thay đổi các biến danh nghĩa (mức giá thấp hơn) chứ không phải làm thay đổi các biến thực tế (sản lượng như cũ).
5.6.2. Cú sốc cung
Các cú sốc cung xảy ra do sự thay đổi giá cả các yếu tố đầu vào hay sự thay đổi các nguồn lực trong nền kinh tế. Các cú sốc làm giảm tổng cung được gọi là cú sốc cung bất lợi. Ngược lại, các cú sốc làm tăng tổng cung được gọi là cú sốc cung có lợi. Các ví dụ về cú sốc cung bất lợi như: Thời tiết xấu làm giảm sản xuất lương thực; do sức ép của công đoàn làm tăng tiền lương; Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) hạn chế sản lượng khai thác làm tăng giá dầu trên thị trường thế giới.
181 ECO102_Bai5_v2.0018102208
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
ASL
P
AS2
C
P3
AS1
P2
B
AD2
A
P1
AD1
0
Y*
Y
Y2
Đường tổng cung ngắn hạn dịch chuyển sang trái từ AS1 đến AS2. Trong ngắn hạn, nền kinh tế di chuyển dọc theo đường tổng cầu từ điểm A đến điểm B. Sản lượng của nền kinh tế giảm từ Y* xuống Y2 trong khi mức giá tăng từ P1 lên P2. Do nền kinh tế vừa rơi vào suy thoái (sản lượng giảm), vừa trải qua lạm phát (mức giá tăng) nên hiện tượng này được gọi là suy thoái đi kèm lạm phát. Các cú sốc cung bất lợi làm tăng chi phí sản xuất. Ở mỗi mức giá cho trước, các hãng muốn bán ra ít hàng hóa và dịch vụ hơn. Trên hình 5.32, đường tổng cung ngắn hạn dịch chuyển sang trái từ AS1 đến AS2. Trong ngắn hạn, nền kinh tế di chuyển dọc theo đường tổng cầu từ điểm A đến điểm B. Sản lượng của nền kinh tế giảm từ Y* xuống Y2 trong khi mức giá tăng từ P1 lên P2. Do nền kinh tế vừa rơi vào suy thoái (sản lượng giảm), vừa trải qua lạm phát (mức giá tăng) nên hiện tượng này được gọi là suy thoái đi kèm lạm phát.
Hình 5.31. Cú sốc bất lợi và chính sách điều tiết phù hợp
Các nhà họach định chính sách nên làm gì khi đối mặt với hiện tượng suy thoái đi kèm lạm phát? Quả là không có những lựa chọn dễ dàng trong trường hợp này. Một trong những khả năng là các nhà họach định chính sách có thể muốn triệt tiêu tác động của sự dịch chuyển đường tổng cung ngắn hạn đến sản lượng bằng cách tăng tổng cầu. Trong trường hợp này, thay đổi trong chính sách làm đường tổng cầu dịch chuyển từ AD1 đến AD2 vừa đủ để duy trì mức sản lượng ban đầu. Nền kinh tế chuyển đến điểm C. Sản lượng trở về mức tiềm năng và mức giá tiếp tục tăng lên P3. Trong trường hợp này, các nhà họach định chính sách đã thích ứng với sự dịch chuyển của tổng cung bởi họ cho phép sự tăng lên trong chi phí ảnh hưởng đến giá cả một cách lâu dài.
146 ECO102_Bai5_v2.0018102208
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
Nghiên cứu điển hình thắt chặt tiền tệ hợp lý khi dầu tăng giá
Giá dầu leo thang, chính sách tiền tệ phải "thắt chặt” vừa đủ để giúp kiềm chế lạm phát, cũng phải "nới lỏng" vừa đủ nhằm tránh những tác động không cần thiết tới tăng trưởng kinh tế.
Đợt tăng giá dầu lần thứ 4 (năm 2004), hoặc các đợt tăng giá xăng dầu năm 2007 – 2008, gây nhiều lo ngại về ảnh hưởng tới kinh tế vĩ mô và những vấn đề mà chính sách tiền tệ phải đối mặt. Nếu như 3 đợt khủng hoảng dầu trước (1973 – 74; 1979 – 80; 1990 – 91) xảy ra đều thuần túy do nguồn cung giảm mạnh, xuất phát từ các cuộc chiến của các nước thuộc khu vực dầu mỏ, thì nguyên nhân của đợt tăng giá dầu hiện tại chủ yếu do cầu về xăng dầu tăng cao.
Trước tiên, hãy xem xét giá dầu gia tăng tác động đến lạm phát theo cơ chế nào. Sơ đồ sau có thể được xem như một kiểu mô hình tiêu chuẩn cho việc xác định lạm phát, nơi mà lạm phát được khống chế bởi 3 nhân tố: Kỳ vọng, chênh lệch cung cầu và các loại cú sốc khác nhau, trong trường hợp này là sốc về giá dầu.
Tác động của giá dầu đến lạm phát
Thứ nhất, giá dầu tác động gia tăng lạm phát qua 2 cách: Trực tiếp và gián tiếp. Về tác động trực tiếp, khi giá dầu tăng cũng có nghĩa là các nhóm hàng hóa nhất định trong thành phần của CPI mà chủ yếu là nhóm xăng, dầu nhiên liệu gia tăng; về tác động gián tiếp, giá dầu gia tăng làm tăng chi phí sản xuất của các doanh nghiệp và do đó làm tăng giá bán thành phẩm.
Thứ hai, giá dầu tác động tới lạm phát qua kênh chênh lệch cung cầu của nền kinh tế: Về nguyên lý nếu tổng cầu gia tăng và tổng cung cũng gia tăng một lượng tương ứng, có nghĩa là cung vẫn đáp ứng đủ cầu thì sẽ không gây nên lạm phát (chênh lệch tổng cầu và tổng cung lúc này sẽ bằng không). Nhưng nếu sự gia tăng của tổng cầu lớn hơn sự gia tăng của tổng cung có nghĩa là cung không đáp ứng đủ cầu sẽ tạo ra áp lực lạm phát (chênh lệch tổng cầu lúc này sẽ lớn hơn 0) và trong trường hợp ngược lại sẽ là giảm phát.
Do đó, hiểu một cách đơn giản nhất là khi giá dầu tăng dẫn đến chi phí sản xuất của doanh nghiệp tăng làm lợi nhuận doanh nghiệp bị co lại, dẫn đến sản xuất suy giảm, tổng cung của nền kinh tế vì vậy sẽ suy giảm. Mặt khác, khi giá dầu tăng cũng làm tăng phần chi tiêu cho các sản phẩm về dầu và phần chi tiêu cho các sản phẩm ngoài dầu
183 ECO102_Bai5_v2.0018102208
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
đương nhiên sẽ bị giảm xuống khiến tổng cầu nền kinh tế cũng giảm.
Như vậy, một sự tăng lên trong giá dầu sẽ đồng thời làm cả tổng cung và tổng cầu đều suy giảm. Cả hai tác động này cùng làm sản xuất suy giảm dẫn đến tăng trưởng kinh tế suy giảm nhưng lại tác động ngược chiều đến lạm phát: Trong khi tác động của tổng cung suy giảm đẩy giá lên thì tác động của tổng cầu suy giảm lại đẩy giá xuống. Tuy nhiên, thực nghiệm cho thấy sự tăng lên trong giá dầu có xu hướng trùng với sự gia tăng lạm phát, đây là lý do hợp lý để giả định rằng tác động của bên cung sẽ mạnh hơn tác động bên cầu.
Thứ ba, giá dầu tăng tác động gia tăng lạm phát qua lạm phát kỳ vọng: Một sự gia tăng của giá dầu sẽ nhanh chóng lan tỏa tới các loại giá khác của nền kinh tế. Sự lan tỏa càng cao thì lạm phát kỳ vọng càng lớn. Ngược lại, khi lạm phát kỳ vọng càng lớn thì tác động lan tỏa sang các nhóm hàng hóa khác càng nhiều. Mức độ lan tỏa của sự thay đổi giá dầu đến các giá khác và tác động lên lạm phát kỳ vọng phụ thuộc phần lớn vào sự điều hành chính sách tiền tệ và lòng tin vào chính sách này.
Phân tích trên cho thấy, giá dầu tăng cùng lúc có xu hướng đẩy lạm phát gia tăng và làm tăng trưởng kinh tế suy giảm, nên thường gây khó khăn cho chính sách tiền tệ. Ngân hàng Trung ương chỉ có một công cụ là lãi suất chủ chốt và có thể sử dụng nó để tác động lên tổng cầu (hay tăng trưởng kinh tế) và lạm phát theo cùng một hướng (đối với Việt Nam, lãi suất đã được tự do hóa, do đó lãi suất thị trường sẽ bị tác động thông qua việc các công cụ chính sách tiền tệ tác động lên mức cung tiền). Khi lãi suất được cắt giảm, tổng cầu trong nền kinh tế tăng lên tác động thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đồng thời cũng làm lạm phát tăng lên, và khi lãi suất tăng lên thì tăng trưởng kinh tế và lạm phát cùng giảm.
Như vậy, nếu có một cú sốc tác động vào tăng trưởng kinh tế và lạm phát theo hướng ngược nhau như cú sốc về giá dầu thì Ngân hàng Trung ương sẽ gặp khó khăn trong việc cùng lúc phải ổn định lạm phát và tăng trưởng kinh tế. Nếu chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm hướng tới việc giảm mạnh lạm phát thì điều này sẽ khiến tăng trưởng kinh tế cũng sẽ suy giảm hơn nữa. Nếu thay vào đó Ngân hàng Trung ương cân nhắc khuyến khích tăng cầu thì trong một phạm vi nào đó nhằm trung hòa bớt sự suy giảm của tăng trưởng kinh tế (do cả tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế đều đã suy giảm trước sự gia tăng của giá dầu) bằng Chính sách tiền tệ nới lỏng thì kết quả sẽ là lạm phát tăng lên, và một khi lạm phát gia tăng thì kỳ vọng cũng tăng lên theo do đó sẽ khó khăn hơn nữa trong việc kiểm soát lạm phát.
Như vậy, khi giá dầu tăng cao thì một chính sách tiền tệ linh họat cần thiết phải được thực hiện, đó là chính sách tiền tệ “thắt chặt” vừa đủ để tránh sự thúc đẩy lạm phát hơn nữa từ việc giá dầu tăng cao nhằm kiềm chế việc lan tỏa tới tiền lương, giá các nhóm hàng hóa khác và lạm phát kỳ vọng; và chính sách tiền tệ “nới lỏng” vừa đủ để tránh những tác động tiêu cực không cần thiết tới tăng trưởng kinh tế. Đây là quy tắc họach định chính sách linh họat, nhưng cũng khó để có thể nói cụ thể hơn. Câu hỏi về việc
146 ECO102_Bai5_v2.0018102208
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
chính sách nào sẽ là thích hợp nhất phải được xác định trong từng trường hợp, phụ thuộc vào môi trường kinh tế vĩ mô hiện tại, đặc biệt là những nhân tố khác tác động vào lạm phát hiện tại và những dự báo về giá dầu trong tương lai.
Bài viết của Th.s Nguyễn Thu, Trưởng phòng Phân tích kinh tế (Ngân hàng Nhà nước).
Tuy nhiên, đối với các quốc gia theo đuổi lạm phát mục tiêu, thường thì khi giá dầu tăng dẫn đến sức ép lạm phát trong dài hạn sẽ gia tăng hơn mức vốn có. Điều này có nghĩa là chính sách tiền tệ thắt chặt hơn một cách vừa phải là cần thiết để đưa lạm phát trở về với mức lạm phát mục tiêu.
Nghiên cứu trường hợp nền kinh tế Mỹ: Sự suy thoái của nền kinh tế Mỹ năm 2001
Vụ khủng bố ngày 11/9 làm tăng tính bất ổn định về chính trị và kinh tế, làm giảm
Trong năm 2001, nền kinh tế Mỹ lâm vào tình trạng suy thoái ở mức báo động. Dự kiến có khoảng 2,1 triệu người mất việc làm, tỷ lệ thất nghiệp tăng từ 3,9% đến 5,8%. Tốc độ tăng trưởng kinh tế khá thấp, chỉ 0,8%, trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 1994–2000 là 3,9%. Có 3 nguyên nhân cơ bản gây nên tình trạng suy thoái kinh tế này: Thị trường chứng khoán giảm dẫn đến tiêu dùng của các hộ gia đình giảm.
Các vụ việc liên quan đến hợp nhất của các tập đoàn: Enron, WorldCom,v.v.
niềm tin trong kinh doanh và tiêu dùng.
Từ các nguyên nhân đó đã gây ra sự sụt giảm của giá chứng khoán, không khuyến khích đầu tư, chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư giảm, đường IS dịch chuyển sang trái. Để đưa nền kinh tế thoát khỏi cuộc khủng hoảng đó, chính phủ Mỹ đã thực hiện hàng loạt các biện pháp liên quan đến chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ như: Đối với chính sách tài khóa: Chính phủ Mỹ đã cắt giảm thuế trong giai đoạn 2001–2003 và tăng chi tiêu của Chính phủ như: Đầu tư vào lĩnh vực hàng không, xây dựng lại NYC, và tăng chi tiêu cho chiến tranh ở Afghanistan war. Kết quả là đường IS dịch chuyển sang phải. Đối với chính sách tiền tệ: Chính phủ hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc và mua trái phiếu để tăng cung tiền, kết quả là đường LM dịch chuyển sang phải.
Nguồn: Tác giả tổng hợp
Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ mở rộng đã làm tăng thu nhập của nền kinh tế Mỹ, đưa nền kinh tế Mỹ dần thoát khỏi cuộc khủng hoảng trong các năm tiếp theo.
185 ECO102_Bai5_v2.0018102208
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
TÓM LƯỢC CUỐI BÀI
Thị trường hàng hóa cân bằng khi tổng cầu bằng thu nhập tương ứng với một mức lãi suất cho trước. Khi lãi suất thay đổi đường tổng cầu sẽ dịch chuyển và cho một mức thu nhập mới. Như vậy, nếu tập hợp những tổ hợp khác nhau giữa lãi suất và thu nhập phù hợp với sự cân bằng của thị trường hàng hóa sẽ được một đường gọi là đường IS.
Đường IS có độ dốc âm. Độ dốc của đường IS sẽ phụ thuộc vào độ nhạy cảm của nhu cầu đầu tư và nhu cầu tiêu dùng tự định đối với lãi suất. Nhu cầu đầu tư và nhu cầu tiêu dùng tự định càng bị giảm xuống do lãi suất tăng, khi lãi suất tăng sẽ càng làm giảm mức thu nhập cân bằng và độ dốc của đường IS càng thoải. Phân tích độ dốc của đường IS cho chúng ta biết được mức độ tác động của chính sách tài khóa hoặc chính sách tiền tệ đến thu nhập, lãi suất, thất nghiệp, lạm phát trong nền kinh tế như thế nào. Hiện tượng di chuyển (trượt dọc) các điểm trên đường IS xảy ra là do lãi suất thay đổi. Bất kỳ các yếu tố tự định (các yếu tố của tổng cầu không phụ thuộc vào thu nhập thay đổi) đều làm cho đường IS dịch chuyển song song sang vị trí mới.
Các điểm nằm dưới đường IS biểu thị tình trạng thiếu hàng (dư cầu), các điểm nằm bên ngoài đường IS biểu thị tình trạng thừa hàng (dư cung). Đường LM là đường bao gồm tập hợp tất cả các điểm phản ánh mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa lãi suất và thu nhập khi thị trường tiền tệ cân bằng. Đường LM có độ dốc dương. Nếu độ nhạy cảm của cầu tiền với lãi suất (h) càng lớn thì đường LM càng thoải; nếu độ nhạy cảm của cầu tiền và thu nhập (k) càng lớn thì đường LM càng dốc và ngược lại. Phân tích độ dốc của đường LM cho chúng ta biết được mức độ tác động của chính sách tài khóa hoặc chính sách tiền tệ đến thu nhập, lãi suất, thất nghiệp, lạm phát trong nền kinh tế như thế nào. Khi thu nhập tăng lên đòi hỏi một lượng cầu tiền tăng thêm dẫn đến tăng lãi suất do cung tiền không đổi. Như vậy, khi thu nhập thay đổi, xảy ra hiện tượng di chuyển (trượt dọc) các điểm trên đường LM. Khi cầu tiền nhạy cảm với thu nhập và kém nhạy cảm với lãi suất thì đường LM sẽ rất dốc. Nếu mức cung tiền giảm xuống, đường LM sẽ dịch chuyển sang trái.
IS dịch chuyển sang phải, do tổng cầu lượng tăng thêm một
G
, cầu tiền tăng, đẩy lãi suất tăng. Lãi suất tăng là nguyên nhân làm giảm
Đường IS phản ánh các trạng thái cân bằng của thị trường hàng hóa với các tổ hợp khác nhau giữa lãi suất và thu nhập. Đường LM phản ánh các trạng thái cân bằng của thị trường tiền tệ cũng của những tổ hợp này. Tác động qua lại giữa hai thị trường ấn định mức lãi suất và thu nhập cân bằng đồng thời cho cả hai thị trường tại một điểm (r0, Y0). Trong nền kinh tế đóng, giả sử Chính phủ sử dụng chính sách tài khóa mở rộng, bằng việc tăng chi tiêu của Chính phủ thêm một lượng là G, khi đó tổng chi tiêu của nền kinh tế tăng, tổng cầu tăng, đường là 1 1 MPC(1 t) đầu tư (đây chính là hiện tượng tháo lui đầu tư).
Sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ tùy thuộc vào các công cụ mà Chính phủ đưa ra, phụ thuộc vào độ dốc của đường IS và đường LM, đồng thời phụ thuộc vào mức độ phản ứng, mức độ tác động của hai chính sách này.
Hiện nay, phần lớn các nhà kinh tế đều dựa vào mô hình tổng cầu và tổng cung để phân tích các tác động của các chính sách vĩ mô đến sản lượng, giá cả, công ăn việc làm,… của nền kinh tế.
146 ECO102_Bai5_v2.0018102208
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
Hiểu mô hình và biết cách vận dụng mô hình này để phân tích ảnh hưởng của các cú sốc và chính sách của chính phủ là rất quan trọng đối với các nhà kinh tế.
Hiệu ứng Pigou: Với mức giá thấp hơn, lượng tiền mà các hộ gia đình đang nắm giữ trở nên có giá trị hơn. Các hộ gia đình cảm thấy giàu có hơn và chi tiêu nhiều hơn, làm tăng tiêu dùng.
Hiệu ứng Keynes: Với mức giá thấp hơn, các hộ gia đình cần giữ ít tiền hơn để mua lượng hàng hóa như cũ. Họ cho vay một phần số tiền thừa, làm cho lãi suất giảm đi và có tác dụng kích thích đầu tư.
Hiệu ứng tỷ giá hối đoái: Việc giảm giá trong nước làm cho hàng hóa nội địa trở nên rẻ một cách tương đối so với hàng ngoại. Điều này có tác dụng khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu và làm tăng thành phần xuất khẩu ròng trong tổng cầu.
Đường tổng cầu được rút ra từ mô hình IS-LM cho thấy mối quan hệ giữa mức tổng cầu thực tế và mức giá. Bất cứ sự thay đổi nào trong các yếu tố tác động tới đường IS và LM cũng ảnh hưởng tới đường AD. Ví dụ, bất kỳ sự gia tăng nào trong mức chi tiêu thực tế của Chính phủ được tài trợ bằng trái phiếu mà làm dịch chuyển đường IS về phía phải, thì cũng làm cho đường AD dịch chuyển về phía phải. Sự gia tăng trong khối lượng tiền tệ danh nghĩa – điều làm cho đường LM dịch chuyển về phía phải đối với mọi mức giá – cũng làm cho đường AD dịch chuyển về phía phải.
e (P P )
* Y Y
của chúng ta là: Đường tổng cung cổ điển được thiết lập trên cơ sở giả định về sự cân bằng thị trường và quá trình điều chỉnh tiền lương thực tế. Các phân tích hiện đại về tổng cung đều có chung kết luận là đường tổng cung ngắn hạn có độ dốc dương. Phương trình cơ bản về đường tổng cung ngắn hạn eP biểu diễn kỳ vọng về , trong đó, là một số dương và
mức giá. Có bốn mô hình khác nhau giải thích về đường tổng cung ngắn hạn: (1) mô hình tiền lương cứng nhắc, (2) mô hình nhận thức sai lầm của công nhân, (3) mô hình thông tin không hoàn hảo, và (4) mô hình giá cả cứng nhắc. Các mô hình này có một số đặc điểm chung, và mỗi mô hình chỉ giải thích được một số khía cạnh nhất định của thực tế.
Khi đường tổng cung có độ dốc dương, các cú sốc ngoại sinh tác động đến tổng cầu (cú sốc cầu) sẽ gây ra sự dao động của sản lượng và mức giá. Điều này thường được coi là tốn kém và không mong muốn. Các cú sốc cung xảy ra do sự thay đổi giá cả các yếu tố đầu vào hay sự thay đổi các nguồn lực trong nền kinh tế. Các cú sốc làm giảm tổng cung được gọi là cú sốc cung bất lợi. Ngược lại, các cú sốc làm tăng tổng cung được gọi là cú sốc cung có lợi. Các ví dụ về cú sốc cung bất lợi như: Thời tiết xấu làm giảm sản xuất lương thực; do sức ép của công đoàn làm tăng tiền lương; OPEC hạn chế sản lượng khai thác làm tăng giá dầu trên thị trường thế giới. Các cú sốc cung bất lợi làm tăng chi phí sản xuất. Khi xảy ra cú sốc cung, mức giá tăng lên, sản lượng của nền kinh tế giảm xuống, xảy ra hiện tượng này được gọi là suy thoái đi kèm lạm phát.
187 ECO102_Bai5_v2.0018102208
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
BÀI TẬP THỰC HÀNH
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Tại sao đường tổng cầu dốc xuống?
2. Phân tích cách thức xây dựng đường tổng cầu dựa trên mô hình IS – LM.
3. Phân tích tác động chính sách tài khóa đến đường tổng cầu.
4. Phân tích tác động của chính sách tiền tệ mở rộng đến đường tổng cầu.
5. Hãy phân tích mô hình tiền lương cứng nhắc.
6. Phân tích nguyên nhân gây ra biến động kinh tế từ các cú sốc cầu và động thái của các nhà
họach định chính sách.
7. Phân tích nguyên nhân gây ra biến động kinh tế từ các cú sốc cung
CÂU HỎI ĐÚNG/SAI
1. Nếu MPC tăng lên thì đường IS sẽ dịch chuyển song song sang phải.
2. Nếu cầu tiền rất nhạy cảm với thu nhập thì đường LM sẽ dịch chuyển song song sang trái.
3. Nếu cầu tiền nhạy cảm với lãi suất thì đường LM sẽ dịch chuyển song song sang phải.
4. Khi chi tiêu tự định của Chính phủ tăng lên thì đường IS sẽ dịch chuyển song song sang phải.
5. Chính phủ tăng tỷ suất thuế ròng (t) là nguyên nhân làm cho đường IS sẽ dịch chuyển song
song sang trái.
6. Khi tiêu dùng tự định tăng lên thì đường IS sẽ thay đổi độ dốc.
7. Khi cung tiền thực tế thay đổi thì đường LM sẽ thay đổi độ dốc.
8. Khi đầu tư tự định thay đổi thì đường LM sẽ dịch chuyển song song so với vị trí ban đầu.
9. Khi thu nhập quốc dân tăng lên đường LM sẽ dịch chuyển song song so với vị trí ban đầu.
10. Độ dốc của đường IS và đường LM có thể chỉ ra được mức độ tác động của các chính sách
tài khóa hoặc chính sách tiền tệ đối với nền kinh tế.
11. Khi nền kinh tế tăng trưởng quá nhanh thì chính phủ có thể điều chỉnh nền kinh tế bằng việc
sử dụng chính chính tài khóa nới lỏng phối hợp với chính sách tiền tệ nới lỏng.
12. Khi nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái thì chính phủ có thể điều chỉnh nền kinh tế bằng
việc áp dụng phối hợp chính sách tài khóa chặt với chính sách tiền tệ chặt.
CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM
1. Đường IS cho biết điều gì?
A. Thị trường hàng hóa cân bằng.
B. Thị trường tiền tệ cân bằng. C. Sản lượng càng tăng, lãi suất càng giảm. D. Sản lượng càng tăng, lãi suất giữ nguyên.
2. Đường LM cho biết điều gì?
146 ECO102_Bai5_v2.0018102208
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
A. Lãi suất và sản lượng phụ thuộc lẫn nhau.
B. Thị trường tiền tệ cân bằng.
C. Thị trường hàng hóa cân bằng.
D. Thị trường lao động cân bằng.
3. Trong mô hình AS-AD, sự dịch chuyển sang trái của đường AD có thể là do nguyên nhân nào?
A. Giảm thuế.
B. Tăng niềm tin của người tiêu dùng và các doanh nghiệp vào triển vọng phát triển của nền
kinh tế trong tương lai.
C. Giảm chi tiêu chính phủ.
D. Tăng cung tiền danh nghĩa.
4. Theo mô hình IS-LM trong nền kinh tế đóng, chính sách tài khóa mở rộng được thể hiện
bằng sự dịch chuyển nào trên đồ thị đường IS – LM? A. Sang phải của đường IS.
B. Sang trái của đường IS.
C. Sang phải của đường LM.
D. Sang trái của đường LM.
5. Khi Chính phủ tăng thuế đánh vào hàng tiêu dùng nhập khẩu, đường nào sẽ dịch chuyển?
A. Đường tổng cầu dịch chuyển sang trái.
B. Đường tổng cầu dịch chuyển sang phải.
C. Đường tổng cung dịch chuyển sang trái.
D. Đường tổng cung dịch chuyển sang phải.
BÀI TẬP VẬN DỤNG
Bài tập 1 Trong nền kinh tế mở, giả định tỷ giá hối đoái là cố định không tác động đến các biến số kinh tế khác, có số liệu sau: (Đơn vị: tỷ USD)
T = 0,2Y MD = 0,2Y – 10r
C = 50 + 0,75YD I = 140 – 8r IM = 40 + 0,1Y MS = 137,5
G = 200 X = 200
a. Hãy viết phương trình của đường IS và đường LM b. Xác định lãi suất cân bằng và mức thu nhập cân bằng đồng thời của nền kinh tế. Tình trạng
của NS chính phủ tại mức thu nhập cân bằng.
c. Để thực hiện tăng chi tiêu của Chính phủ về hàng hóa và dịch vụ thêm 100 tỷ, thì mức thu nhập cân bằng và lãi suất cân bằng mới là bao nhiêu? Cho biết tác động của chính sách tài khóa trong trường hợp này và minh họa bằng đồ thị.
Bài tập 2 Giả sử trong nền kinh tế đóng có số liệu như sau: Hàm tiêu dùng C = 200 + 0,75YD. Hàm đầu tư I = 200 - 25r, với r là mức lãi suất danh nghĩa; chi tiêu của Chính phủ cho hàng hóa và dịch vụ G = 100, thuế T = 100, hàm cầu tiền MD = Y - 100r. Cung tiền MS = 500.
189 ECO102_Bai5_v2.0018102208
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
a. Xây dựng phương trình đường IS và phương trình đường LM. b. Mức thu nhập và lãi suất cân bằng là bao nhiêu? c. Giả sử chi tiêu của Chính phủ tăng từ 100 lên 150. Viết lại phương trình đường IS và tính lãi
suất và thu nhập cân bằng mới là bao nhiêu?
d. Giả sử cung ứng tiền tệ tăng từ 500 lên 600, hãy viết lại phương trình đường LM và tính thu
nhập và lãi suất cân bằng mới.
Bài tập 3 Trong mô hình giá cả cứng nhắc, hãy cho biết hình dáng của đường tổng cung trong các trường hợp đặc biệt sau đây:
a. Không có doanh nghiệp nào có giá cả linh họat. b. Giá cả mong muốn không phụ thuộc vào tổng cầu sản lượng.
Bài tập 4 Hãy xem xét những thay đổi sau trong mô hình tiền lương cứng nhắc:
a. Giả sử các hợp đồng lao động quy định tiền lương danh nghĩa áp dụng chỉ số trượt giá toàn phần theo lạm phát. Nghĩa là tiền lương danh nghĩa được điều chỉnh để bù lại toàn bộ những thay đổi trong chỉ số giá tiêu dùng (CPI). Chỉ số trượt giá toàn phần này làm thay đổi đường tổng cung trong mô hình như thế nào?
b. Giả sử bây giờ chỉ số trượt giá chỉ mang tính chất từng phần. Nghĩa là mỗi khi CPI tăng, tiền lương danh nghĩa tăng theo nhưng với tỷ lệ phần trăm nhỏ hơn. Chỉ số trượt giá từng phần làm thay đổi đường tổng cung trong mô hình như thế nào?
Bài tập 5 Giả sử rằng các công nhân và hãng đột nhiên tin rằng lạm phát có thể sẽ tăng cao trong năm tới. Cũng giả sử rằng, nền kinh tế ban đầu ở trạng thái cân bằng dài hạn và đường tổng cầu không dịch chuyển.
a. Điều gì sẽ xảy ra với tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế? b. Sử dụng đồ thị tổng cầu và tổng cung, hãy chỉ ra tác động của sự thay đổi kỳ vọng đến mức
giá và sản lượng cả trong dài hạn và ngắn hạn.
c. Việc dự tính lạm phát cao có đúng không? Hãy giải thích.
Bài tập 6 Đối với mỗi trong bốn lý thuyết giải thích đường tổng cung ngắn hạn, dốc lên hãy giải thích những điều sau:
a. Làm thế nào mà một nền kinh tế phục hồi từ suy thoái về trạng thái cân bằng dài hạn mà
không có bất kỳ sự can thiệp nào của Chính phủ?
b. Điều gì quyết định tốc độ phục hồi kinh tế?
Bài tập 7 Giả sử nền kinh tế Việt Nam ban đầu ở trạng thái cân bằng tại mức sản lượng tiềm năng. Trong năm 2018, giá nhập khẩu các nguyên liệu chủ yếu (dầu, thép, phân bón, nhựa,…) tăng mạnh trên thị trường thế giới.
a. Hãy giải thích và minh họa bằng đồ thị AS – AD tác động của sự kiện trên đến nền kinh tế
Việt Nam trong ngắn hạn trên ba phương diện: mức giá, sản lượng và việc làm.
146 ECO102_Bai5_v2.0018102208
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
b. Nếu các nhà họach định chính sách quyết định can thiệp để đưa sản lượng trở lại mức tiềm năng, họ sẽ cần sử dụng chính sách tài khóa và tiền tệ để điều tiết tổng cầu như thế nào? Hãy cho biết ưu điểm và nhược điểm của giải pháp này.
c. Nếu các nhà họach định chính sách quyết định can thiệp để đưa mức giá trở về giá trị ban đầu, thì họ sẽ cần sử dụng chính sách tài khóa và tiền tệ để điều tiết tổng cầu như thế nào? Hãy cho biết ưu điểm và nhược điểm của giải pháp này.
d. Đối phó với cú sốc trên giải pháp mà Chính phủ Việt Nam có thể sử dụng để góp phần kiềm
chế lạm phát, đồng thời thúc đẩy tăng trưởng kinh tế?
Bài tập 8 Hãy giải thích xem mỗi biến cố sau đây làm dịch chuyển đường tổng cung ngắn hạn, đường tổng cầu, cả hai, hay không đường nào. Trong mỗi trường hợp, hãy cho biết ảnh hưởng ngắn hạn đến sản lượng và mức giá của nền kinh tế.
a. Các hộ gia đình quyết định sẽ tiết kiệm một tỷ lệ ít hơn trong thu nhập. b. Các vườn cà phê ở Tây Nguyên trải qua một đợt hạn hán kéo dài. c. Nhiều lao động trẻ có cơ hội ra nước ngoài làm việc. d. Một đợt suy thoái ở nước ngoài làm người nước ngoài mua hàng hóa Việt Nam ít hơn.
191 ECO102_Bai5_v2.0018102208
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
ĐÁP ÁN
CÂU HỎI ĐÚNG/SAI
1. Đáp án đúng là: Sai.
Vì: Đường IS sẽ thay đổi độ dốc, nó càng thoải hơn trước.
2. Đáp án đúng là: Sai.
Vì: Đường LM thay đổi độ dốc.
3. Đáp án đúng là: Sai.
Vì: Đường LM sẽ thay đổi độ dốc.
4. Đáp án đúng là: Đúng.
Vì: Tổng cầu tăng, đường IS dịch chuyển sang phải.
5. Đáp án đúng là: Sai.
Vì: Đường IS sẽ thay đổi độ dốc.
6. Đáp án đúng là: Sai.
Vì: Đường IS sẽ dịch chuyển song song sang phải.
7. Đáp án đúng là: Sai.
Đường LM sẽ dịch chuyển song song so với vị trí ban đầu.
8. Đáp án đúng là: Sai.
Vì: Đường IS dịch chuyển song song.
9. Đáp án đúng là: Sai.
Vì: Chỉ xảy ra sự di chuyển (trượt dọc) các điểm trên đường LM.
10. Đáp án đúng là: Đúng.
Vì: Đường IS càng dốc thì tác động của chính sách tiền tệ càng kém hiệu quả.
11. Đáp án đúng là: Sai.
Vì: Cần sử dụng sự phối hợp chính sách ngược lại.
12. Đáp án đúng là: Sai.
Vì: Cần sử dụng chính sách tài khóa và tiền tệ mở rộng.
CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM
1. Đáp án đúng là: A. Thị trường hàng hóa cân bằng.
Vì: Theo khái niệm về đường IS là đường gồm tập hợp tất cả các điểm biểu thị sự kết hợp giữa lãi suất và thu nhập khi thị trường hàng hóa cân bằng.
2. Đáp án đúng là: B. Thị trường tiền tệ cân bằng.
Vì: Theo khái niệm về đường LM là đường gồm tập hợp tất cả các điểm biểu thị sự kết hợp giữa lãi suất và thu nhập khi thị trường tiền tệ cân bằng.
3. Đáp án đúng là: C Giảm chi tiêu Chính phủ.
146 ECO102_Bai5_v2.0018102208
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
Vì: Khi giảm G, tổng cầu giảm (do AD = C + I + G + NX), đường AD dịch chuyển sang trái.
4. Đáp án đúng là: A. Sang phải của đường IS.
Vì: Theo khái niệm về đường IS là đường gồm tập hợp tất cả các điểm biểu thị sự kết hợp giữa lãi suất và thu nhập khi thị trường hàng hóa cân bằng. Nó thể hiện các sự thay đổi của chính sách tài khóa. Do đó, chính sách tài khóa mở rộng sẽ làm cho đường IS dịch chuyển sang phải.
5. Đáp án đúng là: B. Đường tổng cầu dịch chuyển sang phải.
Vì: Khi Chính phủ tăng thuế đánh vào hàng tiêu dùng nhập khẩu, hàng ngoại nhập trở nên đắt hơn, hàng trong nước trở nên rẻ một cách tương đối so với hàng ngoại. Điều này có tác dụng khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu và làm tăng thành phần xuất khẩu ròng trong tổng cầu. Tổng cầu tăng lên, đường Tổng cầu dịch chuyển sang phải.
BÀI TẬP VẬN DỤNG
Bài tập 1 a. Phương trình của đường IS và LM:
rIS = 68,75 – 0,0625Y hay Y = 1000 – 16r
rLM = 0,02Y – 13,75 hay Y = 687,5 – 50r
b. Thu nhập cân bằng và lãi suất cân bằng đồng thời của nền kinh tế:
Y0 = 1000 tỷ, r0 = 6,25%
B = T – G = 0: Ngân sách chính phủ cân bằng.
c. Nếu tăng chi tiêu của Chính phủ thêm 100 tỷ:
r’IS = 81,25 – 0,0625Y
Y0’ = 1151,51 tỷ r0 = 9,28%
Khi Chính phủ tăng chi tiêu, tổng cầu tăng, đường IS dịch chuyển sang phải, đã làm cho sản lượng cân bằng và lãi suất cân bằng đều tăng.
Bài 2
a. Đường IS là Y = 1700 – 100 và đường LM là r = 0,01Y – 5. b. Y = 1100 và r = 6 (%). c. Đường IS là Y = 1900 – 100r; Y = 1200 và r = 7 (%). d. Đường LM là r = 0,01Y – 6; Y = 1150 và r = 5,5 (%).
p P
(Y Y*)
Bài 3 Trong bài tập này, ta xét hai trường hợp đặc biệt về mô hình tiền lương cứng nhắc. Trong mô hình tiền lương cứng nhắc, tất cả các doanh nghiệp có mức giá mong muốn p và p phụ thuộc vào mức giá chung P và tổng cầu Y Y * , trong đó Y* là mức sản lượng tiềm năng. Công thức về sự liên hệ này là:
s) trong số các doanh nghiệp có giá cả linh họat và đặt giá
Có hai loại doanh nghiệp. Tỷ lệ (l
dựa theo công thức trên. Phần còn lại có giá cả cứng nhắc. Họ thông báo giá cả dựa vào tình hình
193 ECO102_Bai5_v2.0018102208
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
. Vì vậy, các doanh nghiệp này đặt giá cả bằng với mức giá dự kiến:
eY Y* 0
P P
e
P sP
(l
(Y Y*)
s) P
e
P P
s) / s (Y Y*)
kinh tế mà họ kỳ vọng trong tương lai. Ta giả sử các doanh nghiệp dự kiến sản lượng ở mức tự e nhiên nên Mức giá chung được tính theo công thức:
(l
hay
e
a. Nếu không có doanh nghiệp nào có giá cả linh hoạt, thì s = l. Công thức trên cho ta biết
P P .
Tức là mức giá chung được cố định ở mức giá dự kiến và đường tổng cung sẽ nằm ngang trong ngắn hạn.
0 . Một lần
e
b. Nếu giá cả mong muốn hoàn toàn không phụ thuộc vào mức sản lượng thì
nữa ta lại có P P : Đường tổng cung là nằm ngang trong ngắn hạn.
Bài tập 4 Trong mô hình tiền lương cứng nhắc, ta giả thiết rằng tiền lương không thay đổi ngay tức khắc khi có thay đổi trong thị trường lao động. Điều đó dẫn đến đường tổng cung dốc lên và có dạng:
e (P P )
e
W
P
eP :
hay W/P
P
Y Y *
. Trong bài tập này, ta xét tác động của việc cho phép các hợp đồng điều chỉnh theo lạm phát. a. Trong mô hình đơn giản về tiền lương cứng nhắc, tiền lương danh nghĩa W bằng tiền lương thực tế dự kiến ω nhân với mức giá dự kiến . Tuy nhiên, việc điều chỉnh hoàn toàn làm cho tiền lương thực tế phụ thuộc vào mức giá thực tế. Có nghĩa là hợp đồng xác định cụ thể tiền lương thực tế mong muốn và tiền lương danh nghĩa được điều chỉnh hoàn toàn khi có thay đổi trong mức giá. Do đó: W . Điều đó có nghĩa là những thay đổi đột ngột trong mức giá không ảnh hưởng đến tiền lương thực tế và số lao động sử dụng hay sản lượng được sản xuất. Do đó, đường tổng cung là thẳng đứng tại Y Y *
b. Nếu chỉ điều chỉnh một phần thì đường tổng cung sẽ dốc hơn so với nếu không có điều chỉnh, nhưng không phải là đường thẳng đứng. Trong mô hình tiền lương cứng nhắc, việc mức gia tăng lên đột ngột làm giảm tiền lương thực tế do tiền lương danh nghĩa không bị tác động. Với việc điều chỉnh một phần, mức giá tăng lên làm tăng tiền lương danh nghĩa. Do sự điều chỉnh chỉ là một phần, tiền lương danh nghĩa tăng ít hơn mức giá, do đó, tiền lương thực tế giảm. Điều đó làm cho các doanh nghiệp sử dụng lao động nhiều hơn và tăng sản xuất. Tuy nhiên, tiền lương thực tế không giảm nhiều như trường hợp không có sự điều chỉnh, do đó, sản lượng cũng sẽ tăng ít hơn. Điều đó tương tự như việc làm cho hệ số trở nên nhỏ đi trong phương trình tổng cung. Có nghĩa là những biến động trong sản lượng trở nên ít nhạy cảm hơn đối với những thay đổi bất ngờ nào trong mức giá.
Bài tập 5
a. Công nhân sẽ yêu cầu tăng tiền lương danh nghĩa. Nếu mức giá không tăng nhiều như tiền
lương danh nghĩa thì tiền lương thực tế sẽ tăng.
146 ECO102_Bai5_v2.0018102208
Bài 5: Mô hình tổng cầu và tổng cung
b. Với kỳ vọng về tiền lương danh nghĩa cao hơn, đường AS ngắn hạn sẽ dịch chuyển sang trái. Trong ngắn hạn, nền kinh tế có sản lượng thấp hơn và mức giá cao hơn. Trong dài hạn, đường AS ngắn hạn dịch chuyển về vị trí ban đầu.
c. Việc dự kiến lạm phát cao hơn chỉ phần nào đúng trong ngắn hạn nhưng sai trong dài hạn.
Bài tập 6 a. Theo lý thuyết nhận thức sai lầm của công nhân và thông tin không hoàn hảo thì nền kinh tế lâm vào suy thoái khi giá cả thấp hơn mức dự kiến. Theo thời gian, người ta sẽ nhận thấy điều này và điều chỉnh kỳ vọng về giá cả và nền kinh tế sẽ trở lại mức sản lượng tự nhiên.
Theo lý thuyết tiền lương cứng nhắc, suy thoái là do tiền lương danh nghĩa không đổi trong khi mức giá giảm làm cho tiền lương thực tế quá cao và cầu lao động quá thấp. Theo thời gian, khi tiền lương danh nghĩa giảm, làm tiền lương thực tế, cuối cùng nền kinh tế sẽ trở lại mức sản lượng tự nhiên.
Theo lý thuyết giá cả cứng nhắc, nền kinh tế lâm vào suy thoái là do không phải giá cả mọi hàng hóa đều giảm đủ mạnh. Theo thời gian, khi các doanh nghiệp điều chỉnh giá cả đủ mạnh thì nền kinh tế sẽ trở lại trạng thái toàn dụng.
b. Tốc độ phục hồi kinh tế phụ thuộc vào tốc độ điều chỉnh kỳ vọng về giá cả (lý thuyết nhận thức sai lầm và thông tin không hoàn hảo), tiền lương (lý thuyết tiền lương cứng nhắc), và giá cả (lý thuyết giá cả cứng nhắc).
Bài tập 7
a. Đây là một cú sốc cung bất lợi, ảnh hưởng của nó đến nền kinh tế là sản lượng và việc làm
giảm, trong khi mức giá tăng.
b. Kích cầu thông qua kênh tài khóa và tiền tệ sẽ giúp phục hồi kinh tế: Tăng sản lượng và việc
làm, nhưng đồng thời sẽ đẩy lạm phát dâng lên cao hơn.
c. Thắt chặt tài khóa và tiền tệ sẽ giúp ổn định mức giá, nhưng lại đẩy nền kinh tế lún sâu hơn
vào suy thoái.
d. Chính phủ nên giảm hoặc thậm chí miễn thuế nhập khẩu đánh vào các mặt hàng có giá quốc tế tăng cao. Điều này sẽ làm dịu bớt tác động bất lợi của cú sốc cung ngoại sinh đến chi phí sản xuất. Trên đồ thị đường tổng cung ngắn hạn sẽ dịch chuyển sang bên phải. Điều này sẽ làm giảm áp lực lạm phát và góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Bài tập 8 a. Đường AD dịch chuyển sang phải do C tăng. Kết quả là cả Y và P đều tăng. b. Đường AS ngắn hạn dịch chuyển sang trái. Kết quả là Y giảm và P tăng. c. Cả đường AS (do lao động giảm) và AD (do số người mua hàng giảm) đều dịch chuyển sang
trái. Kết quả là Y giảm, còn ảnh hưởng đến P thì chưa đủ thông tin để kết luận. d. Đường AD dịch chuyển sang trái do xuất khẩu giảm. Kết quả là cả Y và P đều giảm.