Bài soạn Phương pháp luận Sử học
lượt xem 68
download
Bài soạn Phương pháp luận Sử học nêu lên những kiến thức cơ bản về Phương pháp luận Sử học như đối tượng nghiên cứu của khoa học Lịch sử theo quan điểm Mác xít; chức năng và nhiệm vụ nghiên cứu của khoa học Lịch sử; quan điểm sử học Mác xít về phương pháp lịch sử và một số nội dung khác.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Bài soạn Phương pháp luận Sử học
- BÀI SOẠN PHƯƠNG PHÁP LUẬN SỬ HỌC Xong CÂU 1: Phân biệt một số khái niệm: Lịch sử, Sử học, Khoa học lịch sử? Phương pháp luận và Phương pháp luận sử học mácxit? Ví dụ? Việc nghiên cứu khoa học xã hội nói chung, khoa học lịch sử nói riêng giữ vai trò vô cùng to lớn đối với sự phát phiển mang tính bền vững của đất nước. Khoa học lịch sử giúp chúng ta nghiên cứu cơ bản và toàn diện về xã hội và con người nhằm cung cấp những luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương chính sách để xây dựng đất nước bền vững. Vậy khoa học lịch sử là gì? Chúng ta hãy cùng tìm hiểu một số khái niệm liên quan đến khoa học lịch sử để hiểu rõ hơn về vai trò của khoa học lịch sử trong việc hoạch định đường lối chính sách phát triển đất nước. Lịch sử là khái niệm ra đời sớm ở phương Đông (chủ yếu ở Trung Quốc): Lịch sử là sự việc được xảy ra, được ghi lại; lịch sử còn được hiểu là 1 chức quan, có nhiệm vụ chủ yếu là ghi chép lại “sự việc đã xảy ra” .Ở Trung Quốc, trong tập “Thuyết văn giải tự” (thời Chu), từ “sử” nghĩa là người ghi chép sự việc, cầm bút ghi chép lên thẻ tre (sách) một cách công bằng ngay thẳng. Nói về việc nghiêm túc trong chép sử, ta lại nhớ đến Khổng Tử từng khen “Trực tai Sử Ngư !” (Sử Ngư thẳng thay!,) Sử Ngư là người chép sử nước Vệ đời Xuân Thu, nổi tiếng về thẳng thắn và trung thực. Ở Phương Tây: đại diện là Hy Lạp: từ “historia” là kể lại, ghi chép những điều xảy ra mà mình đã nghe, được kể lại hoặc được tham gia, chứng kiến. Hiện nay, khái niệm “lịch sử” có rất nhiều nội dung khác nhau: Lịch sử là quá khứ, tức là những điều xảy ra không lặp lại; sự ghi chép quá khứ (sử ký); là một câu chuyện; chỉ toàn bộ hoặc một phần tư liệu về quá khứ của dân tộc hoặc sự kiện ; là một khoa học, hay “sử học”; là một môn học trong nhà trường….Tóm lại, “lịch sử” bao gồm hai nghĩa chính: Lịch sử là quá trình lịch sử khách quan xảy ra trong xã hội loài người. Đó là một “hiện thực lịch sử” tồn tại hoàn toàn khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn, nguyện vọng của con người. Và lịch sử là tất cả những gì xảy ra trong quá khứ duy nhất và không lặp lại. Lịch sử chính là đối tượng nghiên cứu của sử học. Ví dụ Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng diễn ra vào năm 40 – cách ngày nay hàng chục thế kỷ, lúc bấy giờ các thế hệ sau này chưa sinh ra, nhưng không vì vậy mà không có sự
- kiện này, dù sau này chúng ta biết hay không thì trên thực tế cuộc khởi nghĩa ấy đã xảy ra, ít nhiều có tác động đến sự phát triển của xã hội. Sử học là sự hiểu biết của con người về những gì đã xảy ra, được ghi bằng lời nói qua các câu chuyện dân gian hay được ghi bằng văn tự và đạt tới sự ra đời của khoa học lịch sử. Những câu chuyện thần thoại, truyền thuyết, cổ tích dân gian, ….đều là những sử liệu quý. Qua nội dung của các loại hình văn học dân gian cổ xưa, các nhà nghiên cứu, học tập lịch sử có thể tìm thấy nhiều tài liệu có giá trị về cuộc sống của người đời trước. trong những câu chuyện ấy, chúng ta tìm thấy sự mô tả hiện thực xã hội, những nhận thức, ước mơ của người xưa rất rõ rệt, tuy nó được bao phủ bởi những quan niệm thần bí, huyền hoặc. Nếu tước bỏ cải vỏ thần bí ấy chúng ta sẽ tìm thấy những chất liệu phản ánh lịch sử rất chân thực. Macxim Gooki – nhà văn Xô Viết đã từng nói: Sử dụng tài liệu văn học dân gian không phải là rán con gà còn nguyên cả lông, mà phải làm sạch lông, sạch ruột rồi mới rán. Điều này có nghĩa chúng ta không nên bác bỏ hoặc sử dụng nguyên văn các tài liệu của văn học dân gian – chúng ta phải biết chọn lọc, phân tích và rút ra các tài liệu lịch sử . Khoa học lịch sử là bộ môn nghiên cứu các sự kiện, hiện tượng lịch sử đã xảy ra trong xã hội loài người và phát hiện ra quy luật phát minh, phát triển của nó. Chẳng hạn như việc Mác nghiên cứu và tìm ra đặc điểm chung của xã hội cổ đại phương Đông (chủ yếu nghiên cứu xã hội Ấn Độ) là: “ sản xuất nông nghiệp dựa trên công tác thủy lợi là nền tảng kinh tế của xã hội; sự tồn tại phổ biến và lâu dài hình thức sở hữu công cộng về ruộng đất; sự tồn tại dai dẳng của công xã nông thôn một hình thức tổ chức xã hội mà trong đó duy trì nền kinh tế tự nhiên và nhiều tàn dư của xã hội nguyên thủy; thể chế nhà nước theo chế độ quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền; cơ cấu xã hội có hai thành phần chủ yếu là quý tộc và nông dân công xã và hình thức bóc lột bằng tô thuế. – Như vậy, xã hội cổ đại phương Đông đã tồn tại và phát triển không phải dựa trên sự bóc lột sức lao động của nô lệ như ở Phương Tây mà dựa trên sự bóc lột nông dân công xã bằng tô thuế. Nên có thể nói, xã hội cổ đại phương Đông lúc bấy giờ không phải là xã hội chiếm hữu nô lệ. Mà xã hội cổ đại phương Đông là một hình thái kinh tế xã hội riêng biệt, đứng sau xã hội nguyên thủy và đứng trước xã hội phong kiến, tồn tại song song với hình thái kinh tế xã hội chiếm hữu nô lệ ở ven bờ Địa Trung Hải. Và Mác đã gọi phương thức sản xuất đặc biệt này là Phương thức sản xuất Châu Á – một phương thức sản xuất mà chỉ tìm thấy được ở các quốc gia phương Đông cổ đại. Đây chính là khoa học lịch sử. Qua các ví dụ trên ta thấy khái niệm “lịch sử” = hiện thực . Hiện thực là sự việc xảy ra một cách tự nhiên khách quan mà không bị tác động bởi những suy nghĩ, phán đoán, nhận xét của con người hiện thực mang tính khách quan. Còn sử học và khoa học lịch sử = nhận thức lịch sử . Nhận thức lịch sử là sự hiểu biết, đánh giá, nhận xét của con
- người về hiện thực lịch sử nhằm tìm ra bí ẩn của hiện thực lịch sử đó và nhận thức lịch sử mang tính chủ quan. Tuy nhiên, ba khái niệm trên có mối quan hệ hữu cơ với nhau, không có hiện thực lịch sử thì không có nhận thức lịch sử, nhận thức lịch sử đạt tới sự phù hợp với hiện thực lịch sử thì mới có khoa học lịch sử, ngược lại không có khoa học lịch sử thì hiện thực lịch sử mãi là những ẩn số. Ví dụ: Khi nhắc đến nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản, câu đầu tiên mà đa số các tác giả đã sử dụng và dẫn ra như một minh chứng hùng hồn về thái độ lên án của nhân dân đối với Phan Thanh Giản và triều đình Nguyễn trong việc để mất 6 tỉnh Nam Kỳ là “Phan, Lâm mãi quốc; triều đình khí dân” – Nhân vật và sự kiện là hoàn toàn có thật trong lịch sử (hiện thực lịch sử khách quan), qua mỗi giai đoạn lịch sử thì con người có nhận thức về hiện thực lịch sử này khác nhau điển hình: giai đoạn từ khi ông ký hòa ước Nhân Tuất 1862 với Pháp và để mất 6 tỉnh Nam Kỳ , thì trong mắt vua Tự Đức và phần lớn nhân dân cả nước ông là kẻ bán nước, phản bội dân tộc và bị tước chức hàm, đẽo học vị tiến sĩ; Còn quan điểm của đồng bào Nam Bộ thì khác: nhân dân ở Vĩnh Long đã đưa linh vị của cụ vào thờ ở Văn Thánh Miếu, nhà th ơ cùng quê với ông là Nguyễn Đình Chiểu lại ca ngợi cụ bằng câu điếu: “Minh tinh chín chữ lòng son tạc…” hay trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ông viết “Phan học sĩ hết lòng mưu quốc”. Năm 1886, vua Đồng Khánh đã xét lại công và tội của cụ và ra chiếu chỉ “khai phục nguyên hàm” và khắc lại tên trong bia tiến sĩ ở văn miếu Huế. Đến năm 1924 vua Khải Định đã sắc cho đình Tương Bình Hiệp (xã Tương Bình Hiệp, Thủ Dầu Một, Bình Dương) thờ cụ làm thần. Năm 2008, Cục Di sản văn cùng với Viện Sử học Việt Nam đã nghiên cứu, chứng minh, công nhận và đánh giá cao công lao của cụ Phan Thanh Giản trên nhiều lĩnh vực chính trị, ngoại giao và văn hóa. Như vậy Phan Thanh Giản đã được giải oan sau gần 150 năm mang tiếng “bán nước”. Qua một chuỗi sử kiện trên ta thấy với cùng một hiện thực lịch sử nhưng việc nhận thức hiện thực lịch sử này là hoàn toàn khác nhau. Hiện thực lịch sử nó thuộc về quá khứ, tức là nó đã xảy ra rồi và nó tồn tại độc lập khách quan. Việc nhận thức hiện thực lịch sử là đúng hay sai, là tích cực hay tiêu cực hoàn toàn phụ thuộc vào sự hiểu biết, sự phân tích, quan điểm, sự đối chứng và kiểm nghiệm hiện thực lịch sử đó của các nhà nghiên cứu. Như ví dụ trên, có rất là nhiều quan điểm cho rằng Phan Thanh Giản bán nước – sở dĩ các sử gia có quan điểm này là vì hiện thực lịch sử xảy ra đã quá cách xa các nhà nghiên cứu không thể trực tiếp tiếp cận nó, họ không chứng kiến trực tiếp, cũng không thể dựng lại hiện thực lịch sử đó đúng như bản chất khách quan của nó, kết quả họ chỉ nghiên cứu dựa vào những tài liệu ghi chép lại hoặc là kể lại nên đòi hỏi các sử gia phải có lý luận vững chắc và phương pháp phù hợp mới phản ánh đúng hiện thực lịch sử. Với việc giải oan cho nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản, khoa học lịch sử đã khẳng định thêm tính đúng đắn về lý luận của mình: không có hiện thực lịch sử
- thì không có nhận thức lịch sử, nhận thức lịch sử đạt tới sự phù hợp với hiện thực lịch sử thì mới có khoa học lịch sử, ngược lại không có khoa học lịch sử thì hiện thực lịch sử mãi là những ẩn số. Để hoạt động nghiên cứu khoa học đạt được kết quả tối ưu, chúng ta cần phải chú trọng đến các vấn đề về phương pháp và phương pháp luận. Theo Bách khoa toàn thư (Liên Xô cũ), Phương pháp = Methodos (Tiếng Hy Lạp): là con đường nhận thức lý luận, học thuyết. Phương pháp là một hệ thống các nguyên tắc điều khiển hoạt động, cải tạo hiện thực hay hoạt động lý luận nhận thức của con người. Còn Hêghen coi “phương pháp” là ý thức về nhận thức vận động nội tại của nội dung các hiện thực đó. Phương pháp là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa chủ thể và khách thể được nghiên cứu chứ không phải là hai sản phẩm thuần túy tư duy. Nhưng do tính năng động của mình nên tư duy của con người có thể đạt đến một phương pháp chính xác để hoàn thành một sự việc chưa có trong thực tiễn. Theo Todor Pavlov (nhà Xã hội học Bungari): phương pháp là những quy luật, bản chất nội tại của vận động nhận thức khoa học được chúng ta sử dụng một cách có ý thức để đạt những thành tựu chân lý đúng đắn hơn, nhanh chóng hơn, đầy đủ hơn. Tóm lại phương pháp là tư duy lý luận của con người được vận dụng vào trong việc tìm hiểu thực tiễn hiện thực khách quan để đạt tới kết quả nhận thức khoa học. Phương pháp là cách thức tiến hành để đạt tới chân lý trong nhận thức chân lý khách quan và cải tạo thực tiễn. Phương pháp ra đời trong xã hội có giai cấp, đó chính là lý luận về con đường nhận thức.Tuy nhiên con đường này bao giờ cũng phải dựa vào thế giới quan của một giai cấp nhất định ví dụ phương pháp luận chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa.. Phương pháp giữ vai trò vô cùng quan trọng trong nghiên cứu, người nghiên cứu sử dụng đúng phương pháp sẽ đem lại kết quả rất cao và ngược lại. Nhà triết học Pháp ở thế kỷ XVIII – René Descartes cho rằng : “thiếu phương pháp thì người tài cũng có thể không đạt kết quả. Có phương pháp thì người tầm thường cũng làm được việc phi thường”. Ví dụ Trong quá trình học tập của các sinh viên tại các trường Đại học: cùng một điều kiện học tập với một khối lượng kiến thức như nhau nhưng lại có sinh viên đạt loại giỏi, loại khá, loại trung bình hay loại yếu kém khác nhau. Đó chính là sự phản ánh những phương pháp học tập của mỗi sinh viên khác nhau.
- Hay một ví dụ khác trong lịch sử đó là trong cùng một hoàn cảnh đất nước chịu ách xâm lược của thực dân Pháp cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, có rất nhiều nhà yêu nước của Việt Nam đã ra đi tìm đường cứu nước như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh,….Song chỉ có duy nhất Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh là tìm ra được con đường cứu nước giải phóng dân tộc Việt Nam. Nguyên nhân chính là người đã có phương pháp đúng đắn và vận dụng phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của đất nươc mình. K.Marx cũng rất đề cao vai trò của phương pháp. Theo K.Marx Phương pháp có giá trị đặc biệt là sức mạnh tuyệt đối, duy nhất, cao nhất, vô cùng tận, không có vật nào có thể cưỡng lại nổi, đó là xu thế của lý tính, đi đến chỗ tìm thấy lại, nhận thức lại bản thân mình ở trong mọi sự vật. Trở lại với việc ra đi tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh, sau khi tiếp thu con đường giải phóng dân tộc của chủ nghĩa Marx –Lenin, Hồ Chí Minh đã vân dụng vào thực tiễn hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam nên đáp ứng được nhiệm vụ giải phóng dân tộc do lịch sử đặt ra mà giai cấp thống trị phong kiến và các nhà tư sản yêu nước trước đó hoàn toàn chìm bế tắc. Khi đọc một tác phẩm lịch sử chúng ta thường chỉ suy nghĩ đến nội dung của tác phẩm chứ ít khi quan tâm tới phương pháp luận mà các nhà nghiên cứu sử dụng trong tác phẩm đó. Nhưng một tác phẩm lịch sử lại là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa sự kiện lịch sử và những quan điểm, quan niệm, thế giới quan của người viết sử. Trong con mắt của những nhà sử học phương pháp luận có một vai trò vô cùng quan trọng, làm sao có một tác phẩm sử học hoàn thiện khi các nhà sử học không có một phương pháp phù hợp. Nên chúng ta cần phải nắm vững khái niệm phương pháp luận và phương pháp luận sử học. Khi hiểu rõ được những khái niệm liên quan đến khoa học lịch sử, chúng ta mới có thể tiến hành nghiên cứu lịch sử hoặc viết sử một cách khoa học. Phương pháp luận là một bộ môn mà bất kỳ ngành khoa học xã hội nhân văn nào cũng có. Chẳng hạn như phương pháp luận sử học,phương pháp nghiên cứu triết học, xã hội học, tâm lý học,…. Theo lý luận của các nhà tư sản thì phương pháp luận là toàn bộ những cách, những biện pháp, những nguyên tắc tổ chức của việc nghiên cứu, những tiêu chuẩn đúng để lựa chọn những thủ tục và kỹ thuật nghiên cứu. Theo từ điển Bách khoa toàn thư (Liên xô cũ) : Phương pháp luận (PPL) xuất phát từ thuật ngữ “Methodology” có gốc từ Hy Lạp “Methodos” và “logos”. PPL là một học
- thuyết triết học về các triết học, PPL nhận thức và cải tạo hiện thực, là sự vận dụng những nguyên lý của thế giới quan vào quá trình nhận thức, vào sự sáng tạo tinh thần nói chung là vào thực tiễn. PPLSH xuất hiện từ thời cổ đại cùng với khái niệm lịch sử, nhưng phải đến cuối thế kỷ XIX mới dần dần ổn định về nội hàm. Theo học giả Liên Xô cũ ( Peteralev ): PPL là một hệ thống những dạng bản chất của thế giới quan và lý luận (hay 1 loạt lý luận) quy luật các nguyên tắc nghiên cứu khoa học lịch sử. Theo quan điểm của các nhà sử học Mác xít : PPL sử học mác xít là PPL sử học dựa trên cơ sở chủ nghĩa duy vật lịch sử của C hủ nghĩa Mác Lê Nin là chủ yếu, là duy nhất. Và V.I.Lenin định nghĩa PPL sử học là sự thống nhất lý luận mác xít về quá trình lịch sử và phương pháp nghiên cứu mác xít về quá trình đó. Trong nghiên cứu lịch sử, phương pháp luận sử học có vai trò to lớn trong việc hướng dẫn nghiên cứu lịch sử cũng như phương pháp dạy học lịch sử. Không nắm vững được phương pháp luận sử học, các nhà nghiên cứu lịch sử sẽ mất phương hướng và không có khả năng giải quyết những vấn đề lịch sử đặt ra. Vì đối với những ai làm công tác sử học, những vấn đề phương pháp luận rất quan trọng. Thông qua việc nghiên cứu phương pháp và phương pháp luận sử học chúng ta có thể rút ra một số vần đề cần lưu ý như sau: Thứ nhất, Phương pháp luận sử học mang bản chất giai cấp rõ rệt bởi sự phát triển của lịch sử khách quan được thể hiện cụ thể qua các thời đại, mỗi chế độ chính trị khác nhau. Những nhà nghiên cứu không bao giờ tách khỏi thời đại cũng như giai cấp mà họ sinh sống. Ở Việt Nam, phương pháp luận sử học mác xít lấy chủ nghĩa Mác Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản là cơ sở lý luận. Trong thời đại ngày nay khi có nhiều thể chế chính trị khác nhau, nhiều giai cấp đối kháng nhau nên phương pháp luận cũng có nhiều định hương khác nhau. Do vậy, lấy phương pháp luận nào làm nền tảng nghiên cứu khoa học nói chung, nghiên cứu sử học nói riêng cũng là vấn đề được đặt ra. Phương pháp luận tư sản thì phục vụ cho tiểu số nhưng đó là giai cấp thống trị. Phương pháp luận macxit phục vụ cho đa số dân tộc, nhân loại là người lao động. Với tính chất đó ta chọn phương pháp luận macxit làm nền tảng cho nghiên cứu khoa học nói chung và khoa học lịch sử nói riêng là đúng đắn nhất vì phần nào nó đã phục vụ được lý tưởng cộng sản và bởi lẽ nữa là; khoa học bao giờ
- cũng là chân lý, mà thành tựu đó suy cho cùng là để phục vụ con người, phục vụ sự tiến bộ của loài người nên phương pháp luận macxit là sự lựa chọn đúng đắn nhất. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi. Thứ hai, chúng ta cần phân biệt rõ Phương pháp luận sử học Mác xít v ới ch ủ ngh ĩa duy vật biện chứng lịch sử. Điểm tương đồng của phương pháp luận sử học Mác xít với chủ nghĩa duy vật biện chứng lịch sử là: Phương pháp luận sử học Mác xít và Chủ ngh ĩa duy v ật bi ện ch ứng đều lấy xã hội loài người làm khách thể nghiên cứu. Điểm khác nhau giữa chúng được thể hiện rõ qua bảng so sánh sau: Khoa học lịch sử Duy vật lịch sử Chủ yếu nghiên cứu cac sự kiện thuộc Tìm hiểu, phát hiện ra các quy luật các lĩnh vực của đời sống xã hội. chung của lịch sử xã hội loài người. Hiểu biết cái chung là phương tiện để Nhận thức cái cụ thể để hiểu sâu sắc nhận thức đúng các sự kiện lịch sử cụ cái chung. thể. Hiểu biết cái cụ thể để góp phần vào Duy vật lịch sử là cơ sở phương pháp phát hiện các quy luật chung của phát luận của khoa học lịch sử để nghiên triển xã hội. cứu cái cụ thể. Khoa học lịch sử cung cấp những hiểu biết về cái cụ thể để duy vật lịch sử nhận thức cái chung, đồng thời cũng làm phong phú hơn sự hiểu biết về quy luật chung. Thứ ba, chúng ta phải có thái độ bảo vệ lý luận sử học Mác xít, làm phong phú thêm ppl sử học Mác xít.
- Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, chưa một học thuyết chính trị xã hội nào mà ngay từ khi mới xuất hiện lại thu hút sự quan tâm nghiên cứu, đấu tranh giữa các lập trường tư tưởng đối lập nhau như sự ra đời của chủ nghĩa Mác Lênin. Điều đó không phải ngẫu nhiên, bởi vì chủ nghĩa Mác Lênin là một khoa học, sự ra đời của chủ nghĩa Mác Lênin đã thực sự giải đáp được những vấn đề mà thực tiễn cuộc sống của toàn nhân loại đặt ra. Lợi dụng sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, các nhà tư tưởng của giai cấp tư sản và những người cơ hội, xét lại chủ nghĩa Mác Lênin đã xuyên tạc rằng chủ nghĩa cộng sản không phải là tương lai của loài người. Nhưng thực tế lịch sử cho thấy, chủ nghĩa Mác Lê nin không những không lỗi thời, lạc hậu mà đã, đang và sẽ tiếp tục đóng vai trò là kim chỉ nam cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân các dân tộc trên thế giới. Điển hình như ở Việt Nam, qua các kỳ Đại hội của Đảng Cộng Sản Việt Nam và gần đây nhất là Đại hội lần XI (12 19/01/2011) vẫn xác định Việt Nam vẫn kiên trì khẳng định chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và nhân dân ta. Xong CÂU 2: Đối tượng nghiên cứu của khoa học Lịch sử theo quan điểm Mác xít? Khoa học lịch sử ra đời trên nền tảng của sử học. Vào thời kì cổ đại, khoa học lịch sử mới hình thành, đến đầu thời kỳ cận đại mới trở thành một khoa học thực sự. Khoa học lịch sử được xác định là chân chính, đích thực với sự ra đời của chủ nghĩa Mác nền sử học mácxít. Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác Lênin về đối tượng của khoa học lịch sử coi con người là chủ thể của lịch sử, con người sáng tạo ra lịch sử. Sử gia kinh điển của chủ nghĩa Marx chỉ rõ: lịch sử loài người là lịch sử của giai cấp nông dân, lịch sử của phương thức sản xuất kế tiếp nhau và từ khi xã hội phân chia thành giai cấp thì lịch sử còn là lịch sử của đấu tranh giai cấp. Và xem lịch sử loài người là đối tượng nghiên cứu của khoa học lịch sử chân chính. Tuy nhiên, lịch sử xã hội loài người được xem là một quá trình thống nhất và bị chi phối bởi những quy luật là quá tình cực kỳ phức tạp và đầy mâu thuẫn.
- Tóm lại, đối tượng nghiên cứu của khoa học lịch sử là quá trình phát triển thực tế của xã hội loài người, cũng như từng nước, từng dân tộc trong toàn bộ tính thống nhất, tính phức tạp, tính muôn màu, muôn vẻ của nó. Nói khác đi, đó là sự chuyển biến cụ thể của các phương thức sản xuất trong lịch sử thế giới, lịch sử từng dân tộc, là sự biểu hiện cụ thể, phong phú cuộc đấu tranh giai cấp trong lịch sử, là sự thể hiện một cách sinh động vai trò sáng tạo, quyết định của giai cấp nhân dân lao động đối với lịch sử. Việc nghiên cứu đối tượng của khoa học lịch sử cần phải chú ý phân biệt một số vấn đề quan trọng sau: Vấn đề 1, Phân biệt đối tượng của khoa học lịch sử với duy vật lịch sử Khoa học lịch sử Duy vật lịch sử Chủ nghĩa duy vật lịch sử và khoa học lịch sử đều lấy xã hội loài người làm khách thể nghiên cứu. Chủ yếu nghiên cứu cac sự kiện Tìm hiểu, phát hiện ra các quy thuộc các lĩnh vực của đời sống xã hội. luật chung của lịch sử xã hội loài người. Hiểu biết cái chung là phương Nhận thức cái cụ thể để hiểu tiện để nhận thức đúng các sự kiện sâu sắc cái chung. lịch sử cụ thể. Hiểu biết cái cụ thể để góp phần Duy vật lịch sử là cơ sở vào phát hiện các quy luật chung của phương pháp luận của khoa học lịch phát triển xã hội. sử để nghiên cứu cái cụ thể. Khoa học lịch sử cung cấp những hiểu biết về cái cụ thể để duy vật lịch sử nhận thức cái chung, đồng thời cũng làm phong phú hơn sự hiểu biết về quy luật chung.
- Vấn đề 2, Phân biệt đối tượng nghiên cứu của lich sử dân tộc với lịch sử Đảng Lịch sử dân tộc Lịch sử Đảng Lịch sử dân tộc và lịch sử Đảng đều là chuyên ngành của khoa học lịch sử Nghiên cứu toàn diện lịch sử của Đối tượng là quá trình ra đời, dân tộc từ này có Đảng lãnh đạo hoạt động và phát triển của Đảng. Không đi sâu vào những hoạt Nghiên cứu đường lối, chính động của Đảng, đường lối, chủ trương sách, khởi nghĩa lãnh đạo của Đảng, và khởi nghĩa lãnh đạo của Đảng của giai cấp công nhân, phát hiện quy luật cuẩ cách mạng ở một nước dướii sự lãnh đạo của Đảng mácxít Lêninit. Vấn đề 3, Phân biệt đối tượng nhận thức của khoa học lịch sử và khoa học tự nhiên Khoa học lịch sử Khoa học tự nhiên Nhận thức về tính thực tại khách quan của xã hội loài người và giới tự nhiên. Việc nhận thức về xã hội loài người và về giới tự nhiên đều phải tuân theo những quy luật chung của nó. Có tính tư tưởng cao và tính Tính năng động thấp, không có năng động có ý thức. ý thức tư tưởng. Quá trình nghiên cứu và kết Dễ hơn, có thể có đáp án đúng quả nghiên cứu khác nhau, phức tạp chính xác. hơn nhiều. Không có câu trả lời tuyệt đối chính xác. Đối tượng nghiên cứu không Đối tượng nghiên cứu lặp lại lặp lại có không gian và thời gian
- Đối tượng nghiên cứu không Hoàn toàn có thể trực tiếp quan được trực tiếp quan sát do không lặp sát, nghiên cứu nhằm khắc phục hiện lại thực khách quan. Vấn đề 4, Mối quan hệ giữa quá khứ hiện tại – tương lai trong nghiên cứu lịch sử Quá khứ, hiện tại , tương lai là ba giai đoạn khác nhau về chất lượng trong quá trình phát triển thống nhất của lịch sử xã hội loài người. Hiện tại phát sinh từ quá khứ và đặt cơ sở cho sự ra đời của tương lai, cho nên những hiểu biết về quá khứ nhất định sẽ giúp ích cho công cuộc xây dựng tương lai và như C. Mác tường khẳng định: Quá khứ thuộc về những người xây dựng tương lai. Xã hội loài người còn tồn tại và phát triển thì vẫn cần thiết hiểu biết quá khứ vafmoon Lịch sử phải tồn tại vững chắc trong chương trình giáo dục. Và quan niệm: “Nếu ta bắn vào quá khứ bằng một khẩu súng lục thì tương lai sẽ bắn chúng ta bằng một khẩu đại bác”, “ôn cố tri tân” lại càng khẳng định sâu sắc hơn về mối quan hệ giữa quá khứ hiện tại tương lai. Việc nghiên cứu lịch sử ở đỉnh cao của hiện đại sẽ giúp cho việc hiểu quá khứ được tập trung hơn, đầy đủ hơn, giúp cho sự đoán định được tương lai, hiểu được khuynh hướng phát triển của xã hội trong hiện tại và tương lai. Đó là một quá trình phát triển theo quy luật. Một số đặc điểm của nhận thức lịch sử Cần phải nhận thức rằng: lịch sử là quá khứ, tuy đã qua, không lặp lại, nhưng nếu có lặp lại thì ở dạng khác, cao hơn, hợp quy luật (lặp lại trên cơ sở cái không lặp lại), song nó đã tồn tại thực, mặc dù hiện tại không còn. Hiện thực lịch sử không phải là cái gì bí hiểm, chúng ta có thể nhận thức được, chỉ có cái “chưa nhận thức” chứ không có cái “không nhận thức được”. Cuộc đấu tranh giữa các quan niệm Mácxít và quan niệm tư sản về “tính hiện thực” của quá khứ xã hội con người và khả năng nhận thức lịch sử của con người đã diễn ra và còn tiếp diễn.
- Phân biệt đối tượng nhận thức của KHLS với đối tượng nghiên cứu của KHTN Những tồn tại trong nghiên cứu sử học thời gian qua Việc nghiên cứu lịch sử hiện nay đang còn rất nhiều khó khăn vì một số nguyên nhân chủ quan và khách quan sau: thiếu sót về tư liệu; một loạt các hạn chế về lập trường giai cấp và quan điểm chính trị của người nghiên cứu; về nhận thức của người nghiên cứu; về sử dụng các phương pháp trong nghiên cứu lịch sử; hạn chế về sử dụng các phương tiện trong nghiên cứu lịch sử; về sử dụng các tài chính trong nghiên cứu lịch sử và hạn chế về cơ chế, chủ trương, chính sách trong nghiên cứu lịch sử. Qua việc nhận thức quan điểm Mác xít về đối tượng của khoa học lịch sử, ta thấy , qua điểm của các sử gia Mác xít hoàn toàn tiến bộ hơn hẳn so với các sử gia giai đoạn trước. Quan điểm Mác xít xác định được đầy đủ, toàn diện các mặt của đối tượng nghiên cứu, điều này dẫn kết quả nghiên cứu chính xác hơn, rộng hơn và khoa học hơn về đối tượng của mình. Thật vậy, đối tượng nghiên cứu của sử học Mác xít là sự chuyển biến cụ thể của các phương thức sản xuất trong lịch sử thế giới, lịch sử từng dân tộc mà phương thức sản xuất chính là sự thống nhất biện chứng giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất tương ứng. Lực lượng sản xuất bao gồm: người lao động và tư liệu sản xuất với trình độ khoa học công nghệ còn quan hệ sản xuất gồm: quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ về tổ chức quản lý, quan hệ về phân phối sản phẩm lao động. – Như vậy, nếu phân tích chi tiết hơn kết cấu của phương thức sản xuất ta thấy đối tượng nghiên cứu của khoa học lịch sử theo quan điểm Mác xít cụ thể : nghiên cứu lịch sử một cách toàn diện, nghĩa là tìm hiểu những lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa, tư tưởng, ....một cách cân đối, có trọng tâm, chỉ ra được mối quan hệ và quy luật phát sinh phát triển cũng như những biến đổi hay suy vong của đối tượng. Trong khi đó, các sử gia trước đó chỉ nghiên cứu một cách phiến diện chẳng hạn như: Herođos, Tuyxiđit: coi tiểu sử các nhân vật, câu chuyện tự nhiên, địa lý, văn học, nghệ thuật, kinh tế và đã coi thần linh có vai trò quyết định trong lịch sử; Pôlibi (sử gia La Mã – TK II TCN) coi đối tượng của sử học là tìm hiểu và trình bày các sự kiện đã xảy ra trong quá khứ, nguyên nhân làm nảy sinh các sự kiện; các sử gia phong kiến coi đối tượng của sử học là vua, chúa, quan lại phong kiến, gần như không quan tâm tới đời sống và lịch sử của các tầng lớp dưới, chủ yếu là nghiên cứu những sự việc xảy ra trong đời sống chính trị; c còn các sử gia tư sản lấy con người làm trung tâm để nghiên cứu:các hoạt động chính trị của con người, sự phát triển kinh tế xã hội,
- văn hóa… đồng thời giải thích nguyên nhân của các sự kiện lịch sử. Sử gia thời kỳ Khai Sáng: Vonte, Mongtexkio đã mở rộng đối tượng nghiên cứu của sử học, tính khoa học của lịch sử cũng được chú ý. Các sử gia tư sản thế kỉ XIX: đã phát hiện ra giai cấp và vai trò của đấu tranh giai cấp trong xã hội. Qua việc liệt kê đối tượng nghiên cứu của các sử gia trước Mác ta thấy quan điểm về đối tượng của khoa học lịch sử trước Mác chỉ nghiên cứu phiến diện một lĩnh nào đó, họ chưa có được một cái nhìn toàn diện và đầy đủ về đối tượng của mình, tức là chưa có quan điểm lý luận khoa học về đối tượng nghiên cứu của khoa học lịch sử và quan niệm về đối tượng trong khoa học lịch sử chỉ được mở rộng dần theo sự tiến bộ của xã hội. Có thể khẳng định rằng quan niệm về đối tượng nghiên cứu của khoa học lịch sử của các sử gia trước Mác còn bộc lộ nhiều hạn chế: Họ xem lịch sử chỉ là lịch sử của các cá nhân xuất chúng, còn quần chúng không được xem là đối tượng nghiên cứu của sử học; khi lý giải về căn nguyên của lịch sử, họ thường dựa vào những tính chất duy tâm, siêu hình, máy móc; coi trọng lịch sử phương Tây mà xem thường sử học phương Đông; đối tượng của khoa học lịch sử chỉ là những nền văn minh trong quá trình phát triển xã hội (quan điểm của các sử gia tư sản tiến bộ); phủ nhận vai trò quyết định của phương thức sản xuất, hạ thấp vai trò của sử học và ý nghĩa của nó dưới việc nhận thức xã hội loài người; thủ tiêu khoa học lịch sử và xuyên tạc sai lệch lịch sử. Nghiên cứu khoa học đúng nghĩa không phải là dễ làm. Một nghiên cứu để đạt được trình độ khoa học thực sự phải vận dụng một cách sáng tạo sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn để đạt được kết quả đúng như mong muốn và tránh được những sai lầm không đáng có. Lịch sử đã chứng sức sống mãnh liệt và giá trị trường tồn của chủ nghĩa Mác –Lên nin trên phạm vi toàn thế giới,Việt Nam là một minh chứng xác thực nhất: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (năm 1991) đã thông qua "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ” trong đó khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động". Sự vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin vào thực tiễn nghiên cứu khoa học là vô cùng đúng đắn và khoa học, đặc biệt là nghiên cứu khoa học lịch sử. Nhờ kết hợp một cách khoa học giữa lý luận và thực tiễn đã góp phần giúp các sử gia đi đúng hướng trong việc nghiên cứu và giảng dạy lịch sử hơn. Xong CÂU 3: Chức năng và nhiệm vụ nghiên cứu của khoa học Lịch sử?
- Ở Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí Minh là người rất quan tâm đến việc học tập lịch sử bởi hơn ai hết người đã nhận thức được đầy đủ và toàn diện về chức năng nhiệm vụ của khoa học lịch sử trong đời sống. Năm 1942, người đã viết cuốn Lịch sử nước ta bằng thơ lục bát để giác ngộ và cổ vũ nhân dân đoàn kết đấu tranh giải phóng dân tộc. Mở đầu sách, người khẳng định: “Dân ta phải biết sử ta, Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam.”(Hcm toàn tập, tập 3, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.221). Đồng thời trong bài viết Nên học lịch sử nước ta, Người giải thích: “Sử ta dạy cho ta những chuyện vẻ vang của tổ tiên ta. Dân tộc ta là con Rồng cháu Tiên, có nhiều người tài giỏi, đánh Bắc dẹp Nam, yên dân trị nước, tiếng để muôn đời”.(Hcm.toàn tập,tập 3, Sđđ, tr .216) .Sau chủ tịch Hồ chí Minh, các đồng chí Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Đỗ Mười,….cũng đều khẳng định ý nghĩa của việc nghiên cứu, học tập lịch sử với hiện tại. Việc nghiên cứu và học tập khoa học lịch sử luôn luôn cần thiết cho mọi thời đại bởi: Thứ nhất, giúp con người nhận diện được quá khứ của dân tộc, quốc gia, nhân loại một cách toàn diện, chân thực; Thứ hai, hiểu được những giá trị lịch sử, sự phát triển lịch sử qua các thời kì; - Thứ ba, hiểu được những bài học kinh nghiệm từ trong quá khứ để hiểu hiện tại, đoán định được tương lai; Thứ tư, giúp con người có thái độ ứng xử hợp lý với cuộc sống, chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hội. Khi nói đến chức năng của khoa học lịch sử, chúng ta không thể không kể đến chức năng nhận thức và chức năng nêu gương. Chức năng nhận thức : miêu tả một cách khoa học hiện thực quá khứ khách quan. Trên cơ sở sự miêu tả này, phân tích tính phong phú và đa dạng các hình thức cụ thể của quá trình lịch sử để rồi phát hiện ra quy luật về lịch sử xã hội loài người. Chức năng giáo dục (chức năng nêu gương) Đây là chức năng rất quan trọng của sử học, mang tính xã hội, là việc rút ra những bài học kinh nghiệm của quá khứ để phục vụ cho hoạt động thực tiễn ngày nay. Ông cha ta rất coi trọng việc nêu lên những tấm gương sáng của quá khứ cho hiện tại. Muốn noi gương người xưa, phải có tri thức lịch sử đầy đủ chính xác. Từ chức năng giáo dục này, sử học có tác dụng rất lớn trong giáo dục đạo đức, tư tưởng,tình cảm, rèn luyện phẩm chất.
- Việc học tập, nghiên cứu lịch sử không phải chỉ để biết quá khứ, dựng lại bức tranh quá khứ, mà điều chủ yếu là để phục vụ xã hội, con người. Đó là chức năng xã hội của sử học, thể hiện ở các nhiệm của nó. Trước hết, khi nghiên cứu vạch ra đường lối chiến lược và sách lược cách mạng, Đảng của giai cấp công nhân, tìm thấy trong lịch sử những kinh nghiệm, những hiểu biết cần thiết để lấy câu trả lời cho những vấn đề cấp bách của hiện tại. Nhiệm vụ 1: rút ra những bài học kinh nghiệm trong quá khứ để giúp con người nhận thức và vận dụng giải quyết nhũng vấn đề hiện tại Nhiệm vụ 2: khoa học lịch sử có nhiệm vụ quan trọng là minh họa cụ thể nội dung, chứng minh tính khoa học, tính Đảng, tính thực tiễn kết quả các đường lối, chính sách của Đảng. Nhiệm vụ 3: tri thức lịch sử là phương tiện giáo dục hiệu quả về tư tưởng tiến bộ, phẩm chất, đạo đức cách mạng cho quần chúng, lòng yêu nước, tư tưởng dân tộc, ý thức bảo vệ tổ quốc, yêu lao động, ý thức và năng khiếu thẩm mỹ. Tóm lại, việc xác định chức năng, nhiệm vụ của khoa học lịch sử giúp chúng ta hiểu rõ hơn vì sao phải học lịch sử. Đó không chỉ là sự hiểu biết đúng đắn quá khứ mà còn giúp chúng ta hành động tốt hơn trong hiện tại và tương lai. Xong CÂU 4: Quan đi ểm sử học Mác xít về sự kiện và qui luật lịch sử? Sự kiện vốn xuất phát từ gốc từ Lating “factum”, mà factum có gốc từ là “facere” nghĩa là “làm”, nghĩa gốc của từ “sự kiện” là “việc đã làm xong”, về sau còn có nghĩa là “hành động”, “biến cố”, “điều đã xảy ra”. Hầu hết ngôn ngữ các nước châu Âu đều có gốc từ “factum” để khái niệm “sự kiện”. Và nội dụng của sử kiện ngày càng được mở rộng và có ý nghĩa rộng hơn. Theo quan điểm Mác xít thì nội dung của sự kiện là hành động, sự việc xảy ra, những biến cố và hiện tượng thuộc về quá khứ và quá khứ đó kéo đến ngày nay và tiếp diễn ở tương lai; sk là cái hiện thực, tồn tại không bịa đặt, trái với ảo tưởng.; là cái cụ thể và
- đơn nhất, trái với cái trừu tượng, cái chung; từ nửa thế kỉ XIX đến nay sự kiện không chỉ dùng để chỉ một hiện tượng riêng lẻ, chỉ xảy ra một lần mà còn chỉ quá trình các mối quan hệ và toàn bộ những hiện tượng cùng loại có liên quan đến nhau như “cách mạng”, “cải cách”, “phục hưng”…; Sự kiện là cái cụ thể, là những gì đối lập với “sự nghị luận”, với “lý tưởng”; Sự kiện còn dùng để chỉ sự thông tin. Vậy còn Sự kiện lịch sử là gì? Theo triết học mác xít “sự kiện lịch sử” là một dạng của “sự kiện” nói chung. Qua đó, ta có thể hiểu sự kiện lịch sử ở hai mặt sau: Sự kiện lịch sử dùng để chỉ bản thân hiện tượng và biến cố lịch sử khách quan (đôi khi là tổng hợp phức tạp về cấu trúc gồm nhiều yếu tố); và Sự kiện được xem là phản ánh những biễn cố, hiện tượng ấy vào nhận thức chúng ta, được xem là một kiểu mẫu hoàn hảo của biến cố khách quan. Từ quan niệm chung về khái niệm sự kiện lịch sử, chúng ta sẽ tìm hiểm nội dung và tính chất của sự kiện lịch sử nhằm phân loại sự kiện lịch sử một cách rõ ràng và khoa học hơn. Trong nội dung và tính chất của sự kiện lịch sử, chúng ta Cần phân biệt “sự kiện lịch sử”, “ hiện tượng lịch sử” và “biến cố lịch sử”. Biến cố lịch sử: là sự kiện lịch sử xảy ra ở một địa điểm nhất định trong một thời gian được xác định, có liên quan đến những nhân vật cụ thể. Biến cố có tính chất cụ thể, không lặp lại nguyên vẹn. Hiện tượng lịch sử: là sự kiện lịch sử xảy ra ở nhiều nước khác nhau, kéo dài trong một khoảng thời gian, mang tính chất điển hình (Vd: Cách mạng tư sản, sự xâm lược của Chủ nghĩa thực dân…) Điều giống nhau giữa ba khái niệm “sự kiện lịch sử”, “ hiện tượng lịch sử” và “biến cố lịch sử” là: đều phản ánh hiện thực quá khứ và không chỉ nói về hiện thực khách quan, tức là những biến cố và hiện tượng đã xảy ra, nó tồn tại độc lập với ý thức con người, mà còn nói đến hiến thực được phản ánh trong ý thức chúng ta. Biến cố và hiện tượng lịch sử chỉ trở thành sự kiện lịch sử, hay một sự kiện được xác định khi nào nhà sử học tìm hiểu về hiện thực, chứng minh một hiện tượng biến cố nào đó tồn tại trong hiện thực khách quan của quá khứ hoặc hiện tại. Ví dụ, nền văn minh
- cổ Hôme tuy là một hiện thực lịch sử khách quan tồn tại hàng nghìn năm trước, nhưng đối với chúng ta nó trở thành sự kiện khi có những cuộc khai quật khảo cổ học giới thiệu với chúng ta những hiện vật đã chứng minh sự tồn tại của nền văn minh đó. Mặt khác, khi phân biệt sự kiện, hiện tượng và biến cố lịch sử, chúng ta không được tuyệt đối hóa sự khác nhau hay giống nhau giữa các khái niệm trên. Và cần hiểu: Sự kiện là bản thân hiện thực lịch sử khách quan gồm có biến cố, hiện tượng, đồng thời cũng là nhận thức của chúng ta về hiện thực ấy. Muốn phản ánh được hiện thực lịch sử khách quan, tức là nhận thức được “sự kiện – biến cố”, “sự kiện – hiện tượng” dưới dạng “sự kiện – tri thức”, nhà sử học phải làm cho tư duy lịch sử phù hợp với hiện thực lịch sử. Tư liệu lịch sử: là sự phản ánh biến cố, hiện tượng lịch sử khách quan vào ý thức của nhà sử học. Tư liệu lịch sử là sơ sở quan trọng để sử gia nghiên cứu sự kiện, biến cố, hiện tượng lịch sử > Tư liệu lịch sử là trung gian giữa nhà sử học và ba khái niệm trên. Tư liệu lịch sử vừa mang tính khách quan, giống như các sự kiện lịch sử, biến cố lịch sử, hiện tượng lịch sử. Đòi hỏi sử gia phải dùng hiểu biết của mình, tư duy của mình để phân biệt, đối chiếu, so sánh để tìm ra mối quan hệ giữa tư liệu lịch sử với các sự kiện lịch sử, biến cố lịch sử, hiện tượng lịch sử để tìm ra hiện thực khách quan. Sự phân loại sự kiện được dựa vào các đặc trưng chủ yếu của nó như nội dung, cơ cấu và ý nghĩa. Hiện nay có ba cách phân loại sự kiện được sử dụng trong nghiên cứu khoa học lịch sử như sau: Cách 1: Phân loại dựa trên nội dung của sự kiện lịch sử. Sự kiện kinh tế: phản ánh những biến cố, hiện tượng và quá trình lịch sử phát triển kinh tế.
- Sự kiện chính trị: phản ánh những biến cố, hiện tượng và quá trình lịch sử phát triển chính trị, đấu tranh giai cấp, chiến tranh, cách mạng lịch sử và suy vong của các quốc gia. Sự kiện về hệ tư tưởng: nêu các hiện tượng lịch sử phát triển của những hình thái ý thức xã hội của con người, lịch sử tâm lý xã hội và ý thức hệ, hoạt động tinh thần của con người. Cách phân loại này chỉ có ý nghĩa về phương pháp luận Cách 2: Phân loại dựa theo cấu tạo của sự kiện, do kết cấu và đặc điểm về không gian và thời gian của biến cố, hiện tượng lịch sử quy định. Cách phân biệt này chia sự kiện ra làm 2 loại là “sự kiện đơn giản” và “sự kiện phức tạp”. Sự kiện đơn giản: là 1 bộ phận, tạo nên biến cố lịch sử => (cái đơn nhất) Sự kiện phức tạp: bao gồm những sự kiện đơn giản, là sự mô tả những biến cố lịch sử được hoàn thành trong một khoảng thời gian và không gian rộng lớn, có tính chất đa dạng, toàn diện => (cái chung) Cách 3: Phân loại theo ý nghĩa của sự kiện lịch sử gồm: sự kiện cơ bản và sự kiện không cơ bản. Sự kiện cơ bản: là sự kiện phản ánh biến cố, hiện tượng, những quy luật chi phối một phạm vi nhất định của quá trình xã hội, những nét đặc biệt vừa điển hình của quá trình này có ảnh hưởng tới sự phát triển của thời kì sau. Sự kiện không cơ bản: là sự kiện khôi phục những biến cố, hiện tượng không có ý nghĩa quan trọng, chủ yếu trong một quá trình lịch sử và không để lại dấu vết gì sâu sắc trong sự phát triển này. Lưu ý: sự phân chia này chỉ có ý nghĩa tương đối, vì do tính biện chứng trong quá trình nhận thức lịch sử chi phối => sự kiện lúc này là cơ bản, lúc khác là không cơ bản và ngược lại. Tất cả sự phân chia các sự kiện đều mang tính chất tương đối. Nhận thức quy luật trong nghiên cứu lịch sử
- Quan điểm Mácxít cho rằng: lịch sử xã hội loài người là quá trình phát triển không ngừng bao gồm những sự kiện thể hiện sự phát triển đi lên hợp quy luật. Cần phải hiểu biết đúng sự kiện lịch sử để nhận thức được quy luật của lịch sử. (Vd: Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, sự phát sinh, phát triển, diệt vong của một thời đại phong kiến). Quan điểm của sử gia cổ đại, phong kiến và tư sản phủ định sự tồn tại của quy luật lịch sử . Các sử gia tư sản coi khoa học lịch sử là “khoa học miêu tả”. Quan điểm của các sử gia Mácxít: + Coi việc tìm hiểu quy luật trong nghiên cứu lịch sử xã hội là một nhiệm vụ của việc nghiên cứu lịch sử. + Việc nhận thức quy luật lịch sử phụ thuộc vào quan điểm, lợi ích của mỗi giai cấp. + Quy luật lịch sử là từ sự xuất hiện, sự thông qua hàng loạt những cái ngẫu nhiên đã hiện ra cái tất yếu của lịch sử. + Cần phải nhận thức rõ ràng quy luật để làm cho hành động của con người trở nên có hiệu quả và thúc đẩy lịch sử phát triển; ngược lại, không nhận thức được quy luật lịch sử là làm trái và làm thụt lùi lịch sử. + Nhiệm vụ của các nhà sử học phải phát hiện những quy luật đang giữ vai trò chủ đạo trong xã hội đương thời, những quy luật ra đời đó là nhưng vẫn còn tác động (tích cực hoặc tiêu cực) và những quy luật chi phối sự hình thành và phát triển của xã hội tương lai. Xong CÂU 5: Quan điểm sử học Mác xít về phân kỳ lịch sử? Cơ sở ý nghĩa của phân kỳ lịch sử? Lịch sử loài người và lịch sử của mỗi dân tộc phát triển qua nhiều giai đoạn khác nhau. Mỗi giai đoạn đánh dấu một bước tiến trong bậc thang đi lên của xã hội. Các giai đoạn, thời kì lịch sử khác nhau về “chất” và có sự phân biệt rất cụ
- thể bởi đặc trưng của nó. Vì vậy, việc phân kì lịch sử bao giờ cũng là một vấn đề quan trọng của việc nghiên cứu lịch sử. Phân kỳ lịch sử sẽ giúp cho sự hiểu biết đúng về tri thức lịch sử, do đó phải Phân kỳ lịch sử sẽ giúp cho sự hiểu biết đúng về tri thức lịch sử, do đó phải xuất phát từ việc tìm hiểu một cách toàn diện và khách quan thực tế lịch sử đã diễn ra cũng như phù hợp với quy luật phát triển khách quan. Tính khách quan khoa học là một nguyên tắc trong phân kỳ lịch sử. Chỉ có trên cơ sở đánh giá một cách khách quan khoa học đâu là bản chất, đâu là hiện tượng, đâu là cái chung, đâu là cái riêng của một quá trình lịch sử, chúng ta mới có đuợc một cách phân định đúng các giai đoạn, các thời kỳ lịch sử khác nhau . Phân kì lịch sử là một việc tất yếu của người nghiên cứu lịch sử, hoàn toàn có cơ sở khi dựa trên một quan điểm khoa học thống nhát, đúng đắn, khách quan. Phân kì lịch sử không chỉ cần đối với các nhà nghiên cứu lịch sử mà còn rất cần đối với người làm công tác giảng dạy. Bởi vì, thông qua việc phân kì lịch sử người dạy mới bày tỏ quan điểm của mình về nội dung, bản chất, đặc điểm của một giai đoạn, một thời kì lịch sử thông qua việc đánh giá những sự kiện, nhân vật, hiện tượng lịch sử…Phân kì lịch sử không chỉ có tác dụng truyền thụ kiến thức mà còn cả việc giáo dục tư tưởng cho người học. Đồng thời, Phân kì lịch sử là một định hướng khoa học của nhà nghiên cứu và giảng dạy lịch sử. Những nguyên tắc lớn cho việc phân kì lịch sử theo quan điểm của các sử gia Mác xít Xem lịch sử xã hội loài người theo xu thế phát triển, ngày càng tiên tiến. Sự phát triển của lịch sử xã hội loài người theo quy luật khách quan, xuất phát từ sự kiện nội tại của sự vật, hiện tượng trong quá trình lịch sử. Cần phải kết hợp chặt chẽ, nhuần nhuyễn 2 phương pháp lịch sử và phương pháp logic trong phân kì lịch sử. Phải có thái độ khách quan khoa học trong phân kì lịch sử. Những tiêu chí của việc phân kì lịch sử thế giới Quan điểm của chủ nghiã Mác – Lênin: lấy cơ sở kinh tế, phương thức sản xuất và hình thái kinh tế xã hội làm tiêu chí cơ bản để phân kì lịch sử xã hội loài người.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Đề cương bài giảng môn Triết học Chương VI: Chủ nghĩa duy vật biện chứng – Cơ sở của thế giới quan khoa học - PGS.TS. Nguyễn Tấn Hùng, TS. Lê Hữu Ái
27 p | 1005 | 192
-
Bài giảng Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin: Quy luật chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại
27 p | 354 | 80
-
PHƯƠNG PHÁP LUẬN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
58 p | 320 | 59
-
Bài giảng Lý luận dạy học và phương pháp sư phạm - Phạm Thị Thúy
12 p | 341 | 53
-
Bài giảng Chủ nghĩa duy vật biện chứng cơ sở lý luận của thế giới quan khoa học - Prof.Dr. Vũ Tình
41 p | 271 | 43
-
Xây dựng bộ câu hỏi trắc nghiệm kiến thức học phần Giáo dục học phổ thông theo chương trình đào tạo tín chỉ ở Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh
10 p | 201 | 29
-
Bài giảng: Chủ nghĩa xã hội khoa học - GV. Hoàng Thị Kim Liên
60 p | 36 | 10
-
Bài giảng Cơ sở phương pháp luận xây dựng chiến lược của trường đại học - GS.TS. Nguyễn Kim Truy
47 p | 100 | 8
-
Bài giảng Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin - TS. Bùi Quang Xuân
19 p | 19 | 5
-
Bài giảng Chủ nghĩa xã hội khoa học: Chương 1 - ThS. Đặng Kiều Diễm
56 p | 15 | 5
-
Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy Triết học: Phần 1
123 p | 25 | 4
-
Giáo trình Phương pháp dạy học chuyên ngành kỹ thuật: Phần 2 - Nguyễn Văn Tuấn
94 p | 34 | 3
-
Nghiên cứu phương pháp dạy học Văn học (Tập 2): Phần 2
117 p | 23 | 3
-
Khảo cứu Lê Triều Đình Đối Văn
27 p | 44 | 2
-
Bài giảng Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin: Chương 3 - Trường ĐH Ngân hàng TP.HCM
23 p | 2 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn