intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài soạn Phương pháp luận Sử học

Chia sẻ: Nguyễn Thị Kim Thoa | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:25

575
lượt xem
68
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài soạn Phương pháp luận Sử học nêu lên những kiến thức cơ bản về Phương pháp luận Sử học như đối tượng nghiên cứu của khoa học Lịch sử theo quan điểm Mác xít; chức năng và nhiệm vụ nghiên cứu của khoa học Lịch sử; quan điểm sử học Mác xít về phương pháp lịch sử và một số nội dung khác.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài soạn Phương pháp luận Sử học

  1. BÀI SOẠN PHƯƠNG PHÁP LUẬN SỬ HỌC  Xong CÂU 1: Phân biệt một số khái niệm: Lịch sử, Sử học, Khoa học lịch sử?  Phương pháp luận và Phương pháp luận sử học mácxit? Ví dụ?    Việc nghiên cứu khoa  học xã hội nói chung, khoa học lịch sử  nói riêng giữ vai   trò vô cùng to lớn  đối với sự phát phiển mang tính bền vững của đất nước. Khoa học  lịch sử   giúp chúng ta  nghiên cứu cơ  bản và toàn diện về  xã hội và con người nhằm   cung cấp những  luận cứ  khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ  trương chính   sách để  xây dựng đất nước bền vững. Vậy khoa học lịch sử  là gì? Chúng ta hãy cùng   tìm hiểu một số khái niệm liên quan đến khoa học lịch sử để hiểu rõ hơn về vai trò của   khoa học lịch sử trong việc hoạch định đường lối chính sách phát triển đất nước.       Lịch sử là khái niệm ra đời sớm ở phương Đông (chủ yếu ở Trung Quốc): Lịch sử  là sự việc được xảy ra, được ghi lại; lịch sử còn được hiểu là 1 chức quan, có nhiệm  vụ chủ yếu là ghi chép lại “sự việc đã xảy ra” .Ở Trung Quốc, trong tập “Thuyết văn  giải tự” (thời Chu), từ “sử” nghĩa là người ghi chép sự việc, cầm bút ghi chép lên thẻ  tre (sách) một cách công bằng ngay thẳng.  Nói về việc nghiêm túc trong chép sử, ta lại  nhớ đến Khổng Tử từng khen “Trực tai Sử Ngư !” (Sử Ngư thẳng thay!,)   Sử Ngư ­ là  người chép sử nước Vệ đời Xuân Thu, nổi tiếng về thẳng thắn và trung thực.       Ở Phương Tây: đại diện  là  Hy Lạp:  từ “historia” là  kể lại, ghi chép những điều  xảy ra mà mình đã nghe, được kể lại hoặc được tham gia, chứng kiến.     Hiện nay, khái niệm “lịch sử” có rất nhiều nội dung khác nhau: Lịch sử  là quá khứ,  tức là những điều xảy ra không lặp lại; sự ghi chép quá khứ (sử ký); là một câu chuyện;  chỉ  toàn bộ  hoặc một phần tư liệu về quá khứ  của dân tộc hoặc sự  kiện ; là một khoa  học, hay “sử học”; là một môn học trong nhà trường….Tóm lại, “lịch sử” bao gồm hai  nghĩa chính: Lịch sử là quá trình lịch sử khách quan xảy ra trong xã hội loài người. Đó là   một “hiện thực lịch sử” tồn tại hoàn toàn khách quan, không phụ  thuộc vào ý muốn,  nguyện vọng của con người.  Và lịch sử  là tất cả  những gì xảy ra trong quá khứ  duy  nhất và không lặp lại. Lịch sử chính là đối tượng nghiên cứu của sử học.  Ví dụ   Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng diễn ra vào năm 40 – cách ngày nay hàng chục   thế kỷ, lúc bấy giờ các thế hệ sau này chưa sinh ra, nhưng không vì vậy mà không có sự  
  2. kiện này, dù sau này chúng ta biết hay không thì trên thực tế cuộc khởi nghĩa ấy đã xảy   ra, ít nhiều có tác động đến sự phát triển của xã hội.        Sử học là sự hiểu biết của con người về những gì đã xảy ra, được ghi bằng lời nói   qua các câu chuyện dân gian hay được ghi bằng văn tự và đạt tới sự ra đời của khoa học   lịch sử. Những câu chuyện thần thoại, truyền thuyết, cổ tích dân gian, ….đều là những  sử  liệu quý. Qua nội dung của các loại hình văn học dân gian cổ  xưa, các nhà nghiên   cứu, học tập lịch sử có thể tìm thấy nhiều tài liệu có giá trị về cuộc sống của người đời  trước. trong những câu chuyện ấy, chúng ta tìm thấy sự mô tả hiện thực xã hội, những  nhận thức,  ước mơ  của người xưa rất rõ rệt, tuy nó được bao phủ  bởi những quan   niệm thần bí, huyền hoặc. Nếu tước bỏ cải vỏ thần bí ấy chúng ta sẽ  tìm thấy những   chất liệu phản ánh lịch sử  rất chân thực.  Macxim Gooki – nhà văn Xô Viết đã từng  nói: Sử  dụng tài liệu văn học dân gian không phải là rán con gà còn nguyên cả  lông, mà phải làm sạch lông, sạch ruột rồi mới rán. Điều này có nghĩa chúng ta  không nên bác bỏ  hoặc sử  dụng nguyên văn các tài liệu của văn học dân gian – chúng ta phải biết chọn lọc, phân tích và rút ra các tài liệu lịch sử .       Khoa học lịch sử là bộ  môn nghiên cứu các sự  kiện, hiện tượng lịch sử đã xảy ra   trong xã hội loài người và phát hiện ra quy luật phát minh, phát triển của nó. Chẳng hạn như  việc Mác nghiên cứu và tìm ra đặc điểm chung của xã hội cổ đại phương Đông (chủ   yếu nghiên cứu xã hội Ấn Độ) là: “ sản xuất nông nghiệp dựa trên công tác thủy lợi là nền tảng kinh tế   của xã hội; sự tồn tại phổ biến và lâu dài hình thức sở hữu công cộng về ruộng đất; sự tồn tại dai dẳng   của công xã nông thôn­ một hình thức tổ chức xã hội mà trong đó duy trì nền kinh tế tự nhiên và nhiều tàn   dư của xã hội nguyên thủy; thể chế nhà nước theo chế độ quân chủ  chuyên chế  trung ương tập quyền;   cơ  cấu xã hội có hai thành phần chủ  yếu là quý tộc và nông dân công xã và hình thức bóc lột bằng tô   thuế. – Như vậy, xã hội  cổ đại phương Đông đã tồn tại và phát triển không phải dựa trên sự bóc lột sức   lao động của nô lệ như ở Phương Tây mà dựa trên sự bóc lột nông dân công xã bằng tô thuế. Nên có thể   nói, xã hội cổ  đại phương Đông lúc bấy giờ  không phải là xã hội chiếm hữu nô lệ.  Mà  xã hội cổ  đại   phương Đông là một hình thái kinh tế  xã hội riêng biệt, đứng sau xã hội nguyên thủy và đứng trước xã   hội phong kiến, tồn tại song song với hình thái kinh tế xã hội chiếm hữu nô lệ  ở  ven bờ  Địa Trung Hải.   Và Mác đã gọi phương thức sản xuất đặc biệt này là Phương thức sản xuất Châu Á – một phương thức   sản xuất mà chỉ tìm thấy được ở  các quốc gia phương Đông cổ đại. ­ Đây chính là khoa học lịch sử.      Qua các ví dụ trên ta thấy  khái niệm “lịch sử” = hiện thực . Hiện thực là sự việc xảy  ra một cách tự  nhiên  khách quan mà không bị  tác động bởi những suy nghĩ, phán đoán,   nhận xét của con người ­  hiện thực mang tính khách quan. Còn sử học và khoa học lịch  sử = nhận thức lịch sử   . Nhận thức lịch sử là sự hiểu biết, đánh giá, nhận xét của con  
  3. người về hiện thực lịch sử nhằm tìm ra bí ẩn của hiện thực lịch sử đó và nhận thức lịch   sử  mang tính chủ quan.  Tuy nhiên, ba khái niệm trên  có mối quan hệ hữu cơ với nhau,  không có hiện thực lịch sử thì không có nhận thức lịch sử, nhận thức lịch sử đạt tới sự  phù hợp với hiện thực lịch sử thì mới có khoa học lịch sử,  ngược lại không có khoa học  lịch sử thì hiện thực lịch sử mãi là những ẩn số.  Ví dụ: Khi nhắc đến nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản, câu đầu tiên mà đa số các tác giả đã sử   dụng và dẫn ra như  một minh chứng hùng hồn về  thái độ  lên án của nhân dân đối với Phan   Thanh Giản và triều đình Nguyễn trong việc để  mất 6 tỉnh Nam Kỳ  là “Phan, Lâm mãi quốc;   triều  đình khí dân” – Nhân vật và sự kiện là hoàn toàn có thật trong lịch sử  (hiện thực lịch sử   khách quan), qua mỗi giai đoạn lịch sử   thì con người có nhận thức về  hiện thực lịch sử  này   khác nhau  điển hình: giai đoạn từ khi ông ký hòa ước Nhân Tuất 1862  với  Pháp  và để mất 6   tỉnh Nam Kỳ , thì trong mắt vua Tự Đức và  phần lớn  nhân dân cả  nước ông là kẻ  bán nước,   phản bội dân tộc và bị tước chức hàm, đẽo học vị  tiến sĩ;  Còn  quan  điểm của đồng bào Nam   Bộ thì khác: nhân dân ở Vĩnh Long đã đưa linh vị của cụ  vào thờ ở Văn Thánh Miếu,  nhà th ơ  cùng quê với ông là   Nguyễn Đình Chiểu lại ca ngợi cụ  bằng câu điếu: “Minh tinh chín chữ   lòng son tạc…”   hay trong Văn tế  nghĩa sĩ Cần Giuộc   ông viết “Phan học sĩ hết lòng mưu   quốc”. Năm 1886, vua Đồng Khánh đã xét lại công và tội của cụ  và ra chiếu chỉ  “khai phục   nguyên hàm” và khắc lại tên trong bia tiến sĩ ở văn miếu Huế. Đến năm 1924 vua Khải Định đã   sắc cho đình Tương Bình Hiệp (xã Tương Bình Hiệp, Thủ  Dầu Một, Bình Dương) thờ  cụ  làm   thần. Năm 2008, Cục Di sản văn cùng với Viện Sử học Việt Nam đã nghiên cứu, chứng minh, công nhận và đánh giá cao công lao của cụ Phan Thanh Giản trên nhiều lĩnh vực chính trị, ngoại giao và văn hóa. Như vậy Phan Thanh Giản đã được giải oan sau gần 150 năm mang tiếng “bán nước”. Qua một chuỗi sử kiện trên ta thấy với cùng một hiện thực lịch sử nhưng việc nhận thức hiện thực lịch sử này là hoàn toàn khác nhau. Hiện thực lịch sử nó thuộc về quá khứ, tức là nó đã xảy ra rồi và nó tồn tại độc lập khách quan. Việc nhận thức hiện thực lịch sử là đúng hay sai, là tích cực hay tiêu cực hoàn toàn phụ thuộc vào sự hiểu biết, sự phân tích, quan điểm, sự đối chứng và kiểm nghiệm hiện thực lịch sử đó của các nhà nghiên cứu. Như ví dụ trên, có rất là nhiều quan điểm cho rằng Phan Thanh Giản bán nước – sở dĩ các sử gia có quan điểm này là vì hiện thực lịch sử xảy ra đã quá cách xa các nhà nghiên cứu không thể trực tiếp tiếp cận nó, họ không chứng kiến trực tiếp, cũng không thể dựng lại hiện thực lịch sử đó đúng như bản chất khách quan của nó, kết quả họ chỉ nghiên cứu dựa vào những tài liệu ghi chép lại hoặc là kể lại nên đòi hỏi các sử gia phải có lý luận vững chắc và phương pháp phù hợp mới phản ánh đúng hiện thực lịch sử. Với việc giải oan cho nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản, khoa học lịch   sử  đã khẳng định thêm tính đúng đắn về  lý luận của mình: không có hiện thực lịch sử 
  4. thì không có nhận thức lịch sử, nhận thức lịch sử đạt tới sự  phù hợp với hiện thực lịch  sử thì mới có khoa học lịch sử, ngược lại không có khoa học lịch sử thì hiện thực lịch sử  mãi là những  ẩn số. Để  hoạt động nghiên cứu khoa học đạt được kết quả  tối  ưu, chúng ta  cần phải chú trọng đến các vấn đề về phương pháp và phương pháp luận.      Theo Bách khoa toàn thư (Liên Xô cũ), Phương pháp = Methodos (Tiếng Hy Lạp):  là  con đường nhận thức lý luận, học thuyết. Phương pháp là một hệ thống các nguyên tắc   điều khiển hoạt động, cải tạo hiện thực hay hoạt động lý luận nhận thức của con   người.         Còn Hêghen coi “phương pháp” là ý thức về  nhận thức vận động nội tại của nội  dung các hiện thực đó. Phương pháp là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa chủ thể  và khách thể được nghiên cứu chứ không phải là hai sản phẩm thuần túy tư duy. Nhưng  do tính năng động của mình nên tư duy của con người có thể đạt đến một phương pháp  chính xác để hoàn thành một sự việc chưa có trong thực tiễn.       Theo Todor Pavlov (nhà Xã hội học Bungari): phương pháp là những quy luật, bản   chất nội tại của vận động nhận thức khoa học được chúng ta sử  dụng một cách có ý   thức để đạt những thành tựu chân lý đúng đắn hơn, nhanh chóng hơn, đầy đủ hơn.       Tóm lại phương pháp là tư duy lý luận của con người được vận dụng vào trong việc tìm  hiểu thực tiễn hiện thực khách quan để đạt tới kết quả nhận thức khoa học. Phương pháp là   cách thức tiến hành để  đạt tới chân lý trong nhận thức chân lý khách quan và cải tạo thực  tiễn.    Phương pháp ra đời trong xã hội có giai cấp, đó chính là lý luận về con đường nhận  thức.Tuy nhiên con đường này bao giờ  cũng phải dựa vào thế  giới quan của một giai cấp   nhất định ví dụ  phương pháp luận chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư  bản chủ  nghĩa, xã hội   chủ nghĩa..           Phương pháp giữ  vai trò vô cùng quan trọng trong nghiên cứu, người nghiên cứu sử  dụng đúng phương pháp sẽ đem lại kết quả rất cao và ngược lại. Nhà triết học Pháp ở  thế kỷ XVIII – René Descartes cho rằng : “thiếu phương pháp thì người tài cũng có thể  không đạt kết quả. Có phương pháp thì người tầm thường cũng làm được việc phi   thường”.      Ví dụ Trong quá trình học tập của các sinh viên tại các trường Đại học: cùng một điều kiện   học tập với một khối lượng kiến thức như nhau nhưng lại có sinh viên đạt loại giỏi, loại khá,   loại trung bình hay loại yếu kém khác nhau. Đó chính là sự  phản ánh những phương pháp học   tập của mỗi sinh viên khác nhau.
  5.    Hay một ví dụ khác trong lịch sử đó là trong cùng một hoàn cảnh đất nước chịu ách xâm lược   của thực dân Pháp cuối thế kỷ 19 đầu thế  kỷ 20, có rất nhiều nhà yêu nước của Việt Nam đã   ra  đi   tìm  đường   cứu  nước  như   Phan  Bội   Châu,   Phan   Châu  Trinh,….Song  chỉ   có  duy   nhất   Nguyễn Ái Quốc­ Hồ  Chí Minh là tìm ra được con đường cứu nước giải phóng dân tộc Việt   Nam. Nguyên nhân chính  là người đã có phương pháp đúng đắn và vận dụng phù hợp với hoàn   cảnh cụ thể của đất nươc mình.    K.Marx cũng rất đề cao vai trò của phương pháp. Theo  K.Marx   Phương pháp có giá  trị đặc biệt ­là sức mạnh tuyệt đối, duy nhất, cao nhất, vô cùng tận, không có vật nào có  thể cưỡng lại nổi, đó là xu thế  của lý tính, đi đến chỗ  tìm thấy lại, nhận thức lại bản  thân mình ở trong mọi sự vật.    Trở  lại với việc ra đi tìm đường cứu nước của Hồ  Chí Minh, sau khi tiếp thu con   đường giải phóng dân tộc của chủ  nghĩa Marx –Lenin, Hồ  Chí Minh đã vân dụng vào   thực tiễn hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam nên  đáp ứng được nhiệm vụ giải phóng dân   tộc do lịch sử đặt ra mà giai cấp thống trị phong kiến và các nhà tư sản yêu nước trước   đó hoàn toàn chìm bế tắc.           Khi đọc một tác phẩm lịch sử chúng ta thường chỉ  suy nghĩ đến nội dung của tác   phẩm chứ  ít khi quan tâm tới phương pháp luận mà các nhà nghiên cứu sử  dụng trong   tác phẩm đó. Nhưng một tác phẩm lịch sử lại là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa sự kiện   lịch sử  và những quan điểm, quan niệm, thế  giới quan của người viết sử. Trong con   mắt của những nhà sử học phương pháp luận có một vai trò vô cùng quan trọng, làm sao   có một tác phẩm sử học hoàn thiện khi các nhà sử học không có một phương pháp phù  hợp. Nên chúng ta cần phải nắm vững khái niệm  phương pháp luận và phương pháp  luận sử học. Khi hiểu rõ được những khái niệm liên quan đến khoa học lịch sử, chúng  ta mới có thể tiến hành nghiên cứu lịch sử hoặc viết sử một cách khoa học.         Phương pháp luận là một bộ môn mà bất kỳ ngành khoa học xã hội nhân văn nào  cũng có. Chẳng hạn như phương pháp luận sử  học,phương pháp nghiên cứu triết học,   xã hội học, tâm lý học,….        Theo lý luận của các nhà tư sản thì phương pháp luận là toàn bộ những cách, những biện   pháp, những nguyên tắc tổ  chức của việc nghiên cứu, những tiêu chuẩn đúng để  lựa chọn  những thủ tục và kỹ thuật nghiên cứu. Theo từ điển Bách khoa toàn thư (Liên xô cũ) : Phương pháp luận (PPL) xuất phát từ  thuật ngữ  “Methodology” có gốc từ  Hy Lạp “Methodos” và “logos”.  PPL là một học 
  6. thuyết  triết học về các triết học, PPL nhận thức và cải tạo hiện thực, là sự  vận dụng  những nguyên lý của thế  giới quan vào quá trình nhận thức, vào sự  sáng tạo tinh thần  nói chung là vào thực tiễn.      PPLSH  xuất hiện từ thời cổ đại cùng với khái niệm lịch sử, nhưng phải đến cuối   thế kỷ XIX mới dần dần ổn định về nội hàm.      Theo học giả  Liên Xô cũ ( Peteralev ): PPL là một hệ  thống những dạng bản chất   của thế  giới quan và lý luận (hay 1 loạt lý luận) quy luật các nguyên tắc nghiên cứu  khoa học lịch sử.      Theo quan điểm của các nhà sử học Mác xít :  PPL sử học mác xít là PPL sử học dựa   trên cơ  sở  chủ  nghĩa duy vật lịch sử  của C hủ  nghĩa  Mác  ­  Lê Nin là chủ  yếu, là duy  nhất. Và  V.I.Lenin định nghĩa PPL sử học là sự thống nhất lý luận mác xít về quá trình  lịch sử  và phương pháp nghiên cứu mác xít về  quá trình đó.  Trong nghiên cứu lịch sử,  phương pháp luận sử  học có vai trò to lớn trong việc hướng dẫn nghiên cứu lịch sử  cũng như  phương pháp dạy học lịch sử. Không nắm vững được phương pháp luận sử  học, các nhà nghiên cứu lịch sử sẽ mất phương hướng và không có khả năng giải quyết  những vấn đề  lịch sử  đặt ra. Vì đối với những ai làm công tác sử  học, những vấn đề  phương pháp luận rất quan trọng. Thông qua việc nghiên cứu phương pháp và phương  pháp luận sử học chúng ta có thể rút ra một số vần đề cần lưu ý như sau:      Thứ nhất, Phương pháp  luận sử học mang bản chất giai cấp rõ rệt bởi  sự phát triển   của lịch sử khách quan được thể hiện cụ thể qua các thời đại, mỗi chế độ chính trị khác   nhau. Những nhà nghiên cứu không bao giờ tách khỏi thời đại cũng như giai cấp mà họ  sinh sống. Ở Việt Nam, phương pháp luận sử học mác xít lấy chủ nghĩa Mác­ Lê nin, tư  tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản  là cơ sở lý luận.  Trong thời đại ngày nay khi có nhiều thể chế chính trị khác nhau, nhiều giai cấp đối   kháng nhau nên phương pháp luận cũng có nhiều định hương khác nhau. Do vậy, lấy   phương pháp luận nào làm nền tảng nghiên cứu khoa học nói chung, nghiên cứu sử học   nói riêng cũng là vấn đề được đặt ra. Phương pháp luận tư sản thì phục vụ cho tiểu số   nhưng đó là giai cấp thống trị. Phương pháp luận macxit  phục vụ  cho đa số  dân tộc,   nhân loại là người lao động. Với tính chất đó ta chọn phương pháp luận macxit làm nền   tảng cho nghiên cứu khoa học nói chung và khoa học lịch sử nói riêng là đúng đắn nhất   vì phần nào nó đã phục vụ được lý tưởng cộng sản và bởi lẽ nữa là; khoa học bao giờ  
  7. cũng là chân lý, mà thành tựu đó suy cho cùng là để phục vụ con người, phục vụ sự tiến   bộ của loài người nên phương pháp luận macxit là sự lựa chọn đúng đắn nhất.     Tư  tưởng Hồ  Chí Minh là một hệ  thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về  những   vấn đề  cơ  bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng   tạo chủ nghĩa Mác ­ Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các   giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản   tinh thần vô cùng to lớn của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách   mạng của nhân dân ta giành thắng lợi.  Thứ hai, chúng ta cần phân biệt rõ Phương pháp luận sử học Mác xít v ới ch ủ ngh ĩa duy vật biện chứng lịch sử. Điểm tương đồng của phương pháp luận sử học Mác xít với chủ nghĩa duy vật biện chứng lịch sử là: Phương pháp luận sử học Mác xít và Chủ ngh ĩa duy v ật bi ện ch ứng đều lấy xã hội loài người làm khách thể nghiên cứu. Điểm khác nhau giữa chúng được thể hiện rõ qua bảng so sánh sau: Khoa học lịch sử Duy vật lịch sử Chủ yếu nghiên cứu cac sự kiện thuộc  Tìm   hiểu,   phát   hiện   ra   các   quy   luật  các lĩnh vực của đời sống xã hội.  chung của lịch sử xã  hội loài người. Hiểu biết cái chung là phương tiện để  Nhận thức cái cụ  thể  để  hiểu sâu sắc  nhận thức đúng các sự kiện lịch sử cụ  cái chung. thể. Hiểu biết cái cụ  thể  để  góp phần vào  Duy vật lịch sử  là cơ  sở  phương pháp  phát hiện các quy luật chung của phát  luận của khoa học lịch  sử   để  nghiên  triển xã hội. cứu cái cụ thể. Khoa học lịch sử cung cấp những hiểu  biết về  cái cụ  thể  để  duy vật lịch sử  nhận  thức   cái   chung,   đồng  thời   cũng  làm phong phú hơn sự hiểu biết về quy  luật chung. Thứ ba, chúng ta phải có thái độ bảo vệ lý luận sử học Mác xít, làm phong phú thêm ppl sử học Mác xít.
  8.    Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, chưa một học thuyết chính trị xã hội nào mà ngay từ  khi mới xuất hiện lại thu hút sự quan tâm nghiên cứu, đấu tranh giữa các lập trường tư  tưởng đối lập nhau như sự ra đời của chủ nghĩa Mác ­ Lênin. Điều đó không phải ngẫu   nhiên, bởi vì chủ  nghĩa Mác ­ Lênin là một khoa học, sự  ra đời của chủ  nghĩa Mác ­  Lênin đã thực sự  giải đáp được những vấn đề  mà thực tiễn cuộc sống của toàn nhân   loại đặt ra.        Lợi dụng sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông  Âu, các nhà tư tưởng của giai cấp tư sản và những người cơ hội, xét lại chủ nghĩa Mác   ­ Lênin đã xuyên tạc rằng chủ nghĩa cộng sản không phải là tương lai của loài người.   Nhưng thực tế lịch sử cho thấy, chủ nghĩa Mác­ Lê nin không những không lỗi thời, lạc  hậu mà đã, đang và sẽ tiếp tục đóng vai trò là kim chỉ nam cho phong trào cộng sản và   công nhân quốc tế, phong trào đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ  xã hội của nhân dân các dân tộc trên thế  giới. Điển hình như   ở  Việt Nam, qua các kỳ  Đại   hội   của   Đảng   Cộng   Sản   Việt   Nam   và   gần   đây   nhất   là   Đại   hội   lần   XI   (12­ 19/01/2011) vẫn xác định Việt Nam vẫn kiên trì khẳng định chủ  nghĩa Mác ­ Lênin, tư  tưởng Hồ  Chí Minh là nền tảng tư  tưởng, kim chỉ  nam cho hành động của Đảng và   nhân dân ta.  Xong CÂU 2: Đối tượng nghiên cứu của khoa học Lịch sử theo quan điểm Mác xít? Khoa học lịch sử ra đời trên nền tảng của sử học. Vào thời kì cổ  đại, khoa học lịch   sử mới hình thành, đến đầu thời kỳ cận đại mới trở thành một khoa học thực sự. Khoa   học lịch sử được xác định là chân chính, đích thực với sự ra đời của chủ nghĩa Mác ­ nền  sử học mácxít.  Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác ­ Lênin về đối tượng của khoa học lịch  sử coi con người là chủ thể của lịch sử, con người sáng tạo ra lịch sử. Sử gia  kinh điển của chủ nghĩa Marx chỉ rõ: lịch sử loài người là lịch sử của giai cấp  nông dân, lịch sử của phương thức sản xuất kế tiếp nhau và từ khi xã hội phân  chia thành giai cấp thì lịch sử còn là lịch sử của đấu tranh giai cấp.    Và xem lịch sử loài người là đối tượng nghiên cứu của khoa học lịch sử chân  chính. Tuy nhiên, lịch sử xã hội loài người được xem là một quá trình thống nhất  và bị chi phối bởi những quy luật ­ là quá tình cực kỳ phức tạp và đầy mâu  thuẫn.
  9. Tóm lại, đối tượng nghiên cứu của khoa học lịch sử là quá trình phát  triển thực tế của xã hội loài người, cũng như từng nước, từng dân tộc trong  toàn bộ tính thống nhất, tính phức tạp, tính muôn màu, muôn vẻ của nó. Nói  khác đi, đó là sự chuyển biến cụ thể của các phương thức sản xuất trong  lịch sử thế giới, lịch sử từng dân tộc, là sự biểu hiện cụ thể, phong phú  cuộc đấu tranh giai cấp trong lịch sử, là sự thể hiện một cách sinh động vai  trò sáng tạo, quyết định của giai cấp nhân dân lao động đối với lịch sử.      Việc nghiên cứu đối tượng của khoa học lịch sử cần phải chú ý phân biệt một  số vấn đề quan trọng sau:        Vấn đề 1, Phân biệt đối tượng của khoa học lịch sử với duy vật lịch sử Khoa học lịch sử Duy vật lịch sử Chủ nghĩa duy vật lịch sử và khoa học lịch sử đều lấy xã hội loài người  làm khách thể nghiên cứu. Chủ  yếu nghiên cứu cac sự kiện  Tìm hiểu, phát hiện ra các quy  thuộc các lĩnh vực của đời sống xã hội.  luật chung của lịch sử  xã   hội loài  người. Hiểu   biết   cái   chung   là   phương  Nhận thức cái cụ  thể  để  hiểu  tiện   để   nhận   thức   đúng   các   sự   kiện  sâu sắc cái chung. lịch sử cụ thể. Hiểu biết cái cụ thể để góp phần  Duy   vật   lịch   sử   là   cơ   sở  vào phát hiện các quy luật chung của  phương pháp luận của khoa học lịch  phát triển xã hội. sử để nghiên cứu cái cụ thể. Khoa học lịch sử cung cấp những  hiểu biết về cái cụ thể để duy vật lịch   sử   nhận   thức   cái   chung,   đồng   thời  cũng làm phong phú hơn sự  hiểu biết   về quy luật chung.
  10. Vấn đề 2, Phân biệt đối tượng nghiên cứu của lich sử dân tộc với lịch   sử Đảng Lịch sử dân tộc Lịch sử Đảng Lịch sử dân tộc và lịch sử Đảng đều là chuyên ngành của khoa học lịch sử Nghiên cứu toàn diện lịch sử của  Đối   tượng   là   quá   trình   ra   đời,  dân tộc từ này có Đảng lãnh đạo hoạt động và phát triển của Đảng. Không   đi   sâu   vào   những   hoạt  Nghiên   cứu   đường   lối,   chính  động của Đảng, đường lối, chủ trương  sách,   khởi   nghĩa   lãnh   đạo   của   Đảng,  và khởi nghĩa lãnh đạo của Đảng của giai cấp công nhân, phát hiện quy  luật cuẩ  cách mạng  ở một nước dướii  sự lãnh đạo của Đảng mácxít ­ Lêninit. Vấn đề  3, Phân biệt đối tượng nhận thức của khoa học lịch sử  và   khoa học tự nhiên Khoa học lịch sử Khoa học tự nhiên Nhận thức về tính thực tại khách quan của xã hội loài người và giới tự  nhiên. Việc nhận thức về xã hội loài người và về giới tự nhiên đều phải tuân   theo những quy luật chung của nó. Có   tính   tư   tưởng   cao   và   tính  Tính năng động thấp, không có  năng động có ý thức. ý thức tư tưởng. Quá   trình   nghiên   cứu   và   kết  Dễ  hơn, có thể  có đáp án đúng  quả  nghiên cứu khác nhau, phức tạp  chính xác. hơn   nhiều.   Không   có   câu   trả   lời  tuyệt đối chính xác. Đối   tượng   nghiên   cứu   không  Đối  tượng  nghiên   cứu  lặp  lại  lặp lại có không gian và thời gian
  11. Đối   tượng   nghiên   cứu   không  Hoàn toàn có thể trực tiếp quan  được trực tiếp quan sát do không lặp  sát, nghiên cứu nhằm khắc phục hiện  lại thực khách quan.                    Vấn đề  4,   Mối quan hệ  giữa quá khứ  ­ hiện tại – tương lai trong   nghiên cứu lịch sử    Quá khứ, hiện tại , tương lai là ba giai đoạn khác nhau về chất lượng trong quá  trình phát triển thống nhất của lịch sử  xã hội loài người. Hiện tại phát sinh từ  quá khứ  và đặt cơ  sở  cho sự  ra đời của tương lai, cho nên những hiểu biết về  quá khứ nhất định sẽ giúp ích cho công cuộc xây dựng tương lai và như  C. Mác   tường khẳng định: Quá khứ  thuộc về  những người xây dựng tương lai. Xã hội   loài người còn tồn tại và phát triển thì vẫn cần thiết hiểu biết quá khứ vafmoon   Lịch sử  phải tồn tại vững chắc trong chương trình giáo dục.   Và quan niệm:   “Nếu ta bắn vào quá khứ bằng một khẩu súng lục thì tương lai sẽ bắn chúng ta   bằng một khẩu đại bác”, “ôn cố tri tân” lại càng khẳng định sâu sắc hơn về mối   quan hệ giữa quá khứ ­ hiện tại­ tương lai.       Việc nghiên cứu lịch sử  ở đỉnh cao của hiện đại sẽ  giúp cho việc hiểu quá   khứ được tập trung hơn, đầy đủ hơn, giúp cho sự đoán định được tương lai, hiểu   được khuynh hướng phát triển của xã hội trong hiện tại và tương lai. Đó là một   quá trình phát triển theo quy luật.     Một số đặc điểm của nhận thức lịch sử  ­ Cần phải nhận thức rằng: lịch sử là quá khứ, tuy đã qua, không lặp lại,  nhưng nếu có lặp lại thì ở dạng khác, cao hơn, hợp quy luật (lặp lại trên cơ sở  cái không lặp lại), song nó đã tồn tại thực, mặc dù hiện tại không còn.  ­ Hiện thực lịch sử không phải là cái gì bí hiểm, chúng ta có thể nhận thức  được, chỉ có cái “chưa nhận thức” chứ không có cái  “không nhận thức được”. ­ Cuộc đấu tranh giữa các quan niệm Mácxít và quan niệm tư sản về “tính  hiện thực” của quá khứ xã hội con người và khả năng nhận thức lịch sử của con   người đã diễn ra và còn tiếp diễn.
  12. ­ Phân biệt đối tượng nhận thức của KHLS với đối tượng nghiên cứu của  KHTN  Những tồn tại trong nghiên cứu sử học thời gian qua Việc nghiên cứu lịch sử hiện nay đang còn rất nhiều khó khăn vì một số nguyên  nhân chủ quan và khách quan sau:  thiếu sót về tư liệu;   một loạt các hạn chế về lập  trường giai cấp và quan điểm chính trị của người nghiên cứu;  về nhận thức của người  nghiên cứu;  về sử dụng các phương pháp trong nghiên cứu lịch sử;  hạn chế về sử  dụng các phương tiện trong nghiên cứu lịch sử; về sử dụng các tài chính trong nghiên  cứu lịch sử và hạn chế về cơ chế, chủ trương, chính sách trong nghiên cứu lịch sử. Qua việc nhận thức quan điểm Mác xít về đối tượng của khoa học lịch sử, ta thấy , qua điểm của các sử gia Mác xít hoàn toàn tiến bộ hơn hẳn so với các sử gia giai đoạn trước. Quan điểm Mác xít xác định được đầy đủ, toàn diện các mặt của đối tượng nghiên cứu, điều này dẫn kết quả nghiên cứu chính xác hơn, rộng hơn và khoa học hơn về đối tượng của mình. Thật vậy, đối tượng nghiên cứu của sử học Mác xít là sự chuyển biến cụ thể của các phương thức sản xuất trong lịch sử thế giới, lịch sử từng dân tộc mà phương thức sản xuất chính là sự thống nhất biện chứng giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất tương ứng. Lực lượng sản xuất bao gồm: người lao động và tư liệu sản xuất với trình độ khoa học công nghệ còn quan hệ sản xuất gồm: quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ về tổ chức quản lý, quan hệ về phân phối sản phẩm lao động. – Như vậy, nếu phân tích chi tiết hơn kết cấu của phương thức sản xuất ta thấy đối tượng nghiên cứu của khoa học lịch sử theo quan điểm Mác xít cụ thể : nghiên cứu lịch sử một cách toàn diện, nghĩa là tìm hiểu những lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa, tư tưởng, ....một cách cân đối, có trọng tâm, chỉ ra được mối quan hệ và quy luật phát sinh phát triển cũng như những biến đổi hay suy vong của đối tượng. Trong khi đó, các sử gia trước đó chỉ nghiên cứu một cách phiến diện chẳng hạn như: Herođos, Tuyxiđit: coi tiểu sử  các nhân vật, câu chuyện tự  nhiên,   địa lý, văn học, nghệ  thuật, kinh tế và đã coi thần linh có vai trò quyết định trong lịch   sử; Pôlibi (sử gia La Mã – TK II TCN) coi đối tượng của sử học là tìm hiểu và trình bày  các sự kiện đã xảy ra trong quá khứ, nguyên nhân làm nảy sinh các sự kiện;  các sử gia   phong kiến  coi đối tượng của sử học là vua, chúa, quan lại phong kiến, gần như không  quan tâm tới đời sống và lịch sử của các tầng lớp dưới, chủ yếu là nghiên cứu những sự  việc xảy ra trong đời sống chính trị; c còn các sử  gia tư  sản lấy con người làm trung  tâm để nghiên cứu:các hoạt động chính trị của con người, sự phát triển kinh tế ­ xã hội, 
  13. văn hóa… đồng thời giải thích nguyên nhân của các sự kiện lịch sử. Sử gia thời kỳ Khai  Sáng: Vonte, Mongtexkio đã mở  rộng đối tượng nghiên cứu của sử học, tính khoa học   của lịch sử cũng được chú ý. Các sử gia  tư sản thế kỉ XIX: đã phát hiện ra giai cấp và   vai trò của đấu tranh giai cấp trong xã hội. Qua việc liệt kê đối tượng nghiên cứu của  các sử  gia trước Mác ta thấy quan điểm về  đối tượng của khoa học lịch sử trước Mác   chỉ nghiên cứu phiến diện một lĩnh nào đó, họ  chưa có được một  cái nhìn toàn diện và  đầy đủ  về  đối tượng của mình, tức là chưa có   quan điểm lý luận khoa học về  đối  tượng nghiên cứu của khoa học lịch sử và quan niệm về đối tượng trong khoa học lịch   sử chỉ được mở rộng dần theo sự tiến bộ của xã hội.         Có thể khẳng định rằng quan niệm về đối tượng nghiên cứu của khoa học lịch sử  của các sử gia trước Mác còn bộc lộ nhiều hạn chế:  Họ xem lịch sử chỉ là lịch sử của  các cá nhân xuất chúng, còn quần chúng không được xem là đối tượng nghiên cứu của  sử học; khi lý giải về  căn nguyên của lịch sử, họ thường dựa vào những tính chất duy   tâm, siêu hình, máy móc; coi trọng lịch sử phương Tây mà xem thường sử  học phương  Đông; đối tượng của khoa học lịch sử  chỉ  là những nền văn minh trong quá trình phát   triển xã hội (quan điểm của các sử gia tư sản tiến bộ); phủ nhận vai trò quyết định của  phương thức sản xuất, hạ  thấp vai trò của sử  học và ý nghĩa của nó dưới việc nhận   thức xã hội loài người; thủ tiêu khoa học lịch sử và xuyên tạc sai lệch lịch sử. Nghiên cứu khoa học đúng nghĩa không phải là dễ làm. Một nghiên cứu để đạt được trình độ khoa học thực sự phải vận dụng một cách sáng tạo sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn để đạt được kết quả đúng như mong muốn và tránh được những sai lầm không đáng có. Lịch sử đã chứng sức sống mãnh liệt và giá trị trường tồn của chủ nghĩa Mác –Lên nin trên phạm vi toàn thế giới,Việt Nam là một minh chứng xác thực nhất: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (năm 1991) đã thông qua "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ” trong đó khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động". Sự vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin vào thực tiễn nghiên cứu khoa học là vô cùng đúng đắn và khoa học, đặc biệt là nghiên cứu khoa học lịch sử. Nhờ kết hợp một cách khoa học giữa lý luận và thực tiễn đã góp phần giúp các sử gia đi đúng hướng trong việc nghiên cứu và giảng dạy lịch sử hơn. Xong CÂU 3: Chức năng và nhiệm vụ nghiên cứu của khoa học Lịch sử?
  14.       Ở Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí Minh là người rất quan tâm đến việc học tập   lịch sử  bởi hơn ai hết người đã nhận thức được đầy đủ  và toàn diện về  chức   năng nhiệm vụ của khoa học lịch sử trong đời sống.     Năm 1942, người đã viết cuốn Lịch sử nước ta bằng thơ lục bát để giác ngộ và cổ vũ   nhân dân đoàn kết đấu tranh giải phóng dân tộc. Mở đầu sách, người khẳng định: “Dân   ta phải biết sử ta,       Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam.”(Hcm toàn tập, tập 3, NXB Chính trị quốc  gia, Hà Nội, 1995, tr.221). Đồng thời trong bài viết Nên học lịch sử nước ta, Người giải   thích: “Sử  ta dạy cho ta những chuyện vẻ  vang của tổ tiên ta. Dân tộc ta là con Rồng   cháu Tiên, có nhiều người tài giỏi, đánh Bắc dẹp Nam, yên dân trị nước, tiếng để muôn  đời”.(Hcm.toàn tập,tập 3, Sđđ, tr .216) .Sau chủ  tịch Hồ  chí Minh, các đồng chí Lê   Duẩn, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Đỗ  Mười,….cũng đều khẳng định ý nghĩa  của việc nghiên cứu, học tập lịch sử với hiện tại.  Việc nghiên cứu và học tập khoa học   lịch sử  luôn luôn cần thiết cho mọi thời đại bởi:    Thứ nhất, giúp con người nhận diện được quá khứ của dân tộc, quốc gia, nhân loại một cách toàn diện, chân thực; Thứ hai, hiểu được những giá trị lịch sử, sự phát triển lịch sử qua các thời kì; - Thứ ba, hiểu được những bài học kinh nghiệm từ trong quá khứ để hiểu hiện tại, đoán định được tương lai; Thứ tư, giúp con người có thái độ ứng xử hợp lý với cuộc sống, chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hội. Khi nói đến chức năng của khoa học lịch sử, chúng ta không thể  không kể  đến chức năng nhận thức và chức năng nêu gương.       Chức năng nhận thức : miêu tả  một cách khoa học hiện thực quá khứ  khách   quan. Trên cơ  sở  sự  miêu tả  này, phân tích tính phong phú và đa dạng các hình   thức cụ  thể  của quá trình lịch sử  để  rồi phát hiện ra quy luật về  lịch sử xã hội  loài người.      Chức năng giáo dục (chức năng nêu gương) Đây là chức năng rất quan trọng  của sử học, mang tính xã hội, là việc rút ra những bài học kinh nghiệm của quá  khứ để phục vụ cho hoạt động thực tiễn ngày nay. Ông cha ta rất coi trọng việc   nêu lên những tấm gương sáng của quá khứ cho hiện tại. Muốn noi gương người   xưa, phải có tri thức lịch sử đầy đủ chính xác. Từ chức năng giáo dục này, sử học có  tác dụng rất lớn trong giáo dục đạo đức, tư tưởng,tình cảm, rèn luyện phẩm chất.
  15.     Việc học  tập, nghiên cứu lịch sử không phải chỉ để biết quá khứ, dựng lại bức tranh  quá khứ, mà điều chủ yếu là để phục vụ xã hội, con người. Đó là chức năng xã hội của   sử học, thể hiện ở các nhiệm của nó.  Trước hết, khi nghiên cứu vạch ra đường lối chiến lược và sách lược cách  mạng, Đảng của giai cấp công nhân, tìm thấy trong lịch sử những kinh nghiệm,  những hiểu biết cần thiết để lấy câu trả lời cho những vấn đề cấp bách của  hiện tại. Nhiệm vụ 1: rút ra những bài học kinh nghiệm trong quá khứ để giúp con  người nhận thức và vận dụng giải quyết nhũng vấn đề hiện tại Nhiệm vụ 2: khoa học lịch sử có nhiệm vụ quan trọng là minh họa cụ thể  nội dung, chứng minh tính khoa học, tính Đảng, tính thực tiễn kết quả các đường  lối, chính sách của Đảng. Nhiệm vụ 3: tri thức lịch sử là phương tiện giáo dục hiệu quả về tư tưởng  tiến bộ, phẩm chất, đạo đức cách mạng cho quần chúng, lòng yêu nước, tư  tưởng dân tộc, ý thức bảo vệ tổ quốc, yêu lao động, ý thức và năng khiếu thẩm  mỹ. Tóm lại, việc xác định chức năng, nhiệm vụ của khoa học lịch sử giúp  chúng ta hiểu rõ hơn vì sao phải học lịch sử. Đó không chỉ là sự hiểu biết đúng  đắn quá khứ mà còn giúp chúng ta hành động tốt hơn trong  hiện tại và tương lai.    Xong  CÂU 4: Quan đi   ểm sử học Mác xít về sự kiện và qui luật lịch sử?             Sự  kiện vốn xuất phát từ  gốc từ  Lating “factum”, mà factum có gốc từ  là  “facere” nghĩa là “làm”, nghĩa gốc của từ “sự kiện” là “việc đã làm xong”, về sau  còn có nghĩa là “hành động”, “biến cố”, “điều đã xảy ra”. Hầu hết ngôn ngữ  các  nước châu Âu đều có gốc từ “factum” để khái niệm “sự kiện”. Và nội dụng của   sử  kiện ngày càng được mở  rộng và có ý nghĩa rộng hơn. Theo quan điểm Mác   xít thì nội dung của sự kiện là  hành động, sự việc xảy ra, những biến cố và hiện  tượng thuộc về  quá khứ  và quá khứ  đó kéo đến ngày nay và tiếp diễn  ở  tương  lai; sk là cái hiện thực, tồn tại không bịa đặt, trái với ảo tưởng.; là cái cụ thể và  
  16. đơn nhất, trái với cái trừu tượng, cái chung; từ  nửa thế kỉ XIX đến nay sự  kiện   không chỉ  dùng để  chỉ  một hiện tượng riêng lẻ, chỉ  xảy ra một lần mà còn chỉ  quá trình các mối quan hệ  và toàn bộ  những hiện tượng cùng loại có liên quan   đến nhau như “cách mạng”, “cải cách”, “phục hưng”…; Sự kiện là cái cụ thể, là   những gì đối lập với “sự nghị luận”, với “lý tưởng”; Sự kiện còn dùng để chỉ sự  thông tin.    Vậy còn Sự kiện lịch sử là gì? Theo triết học mác xít “sự kiện lịch sử”  là một   dạng của “sự  kiện” nói chung. Qua đó, ta có thể  hiểu sự  kiện lịch sử  ở hai   mặt sau:  Sự kiện lịch sử dùng để chỉ bản thân hiện tượng và biến cố lịch sử  khách quan (đôi khi là tổng hợp phức tạp về  cấu trúc gồm nhiều yếu tố); và   Sự  kiện được xem là phản ánh những biễn cố, hiện tượng ấy vào nhận thức   chúng ta, được xem là một kiểu mẫu hoàn hảo của biến cố khách quan.    Từ quan niệm chung về khái niệm sự kiện lịch sử, chúng ta sẽ tìm hiểm nội   dung và tính chất của sự kiện lịch sử nhằm phân loại sự kiện lịch sử một cách  rõ ràng và khoa học hơn.      Trong nội dung và tính chất của sự kiện lịch sử, chúng ta Cần phân biệt “sự  kiện lịch sử”, “ hiện tượng lịch sử” và “biến cố lịch sử”.     Biến cố lịch sử: là sự kiện lịch sử xảy ra ở một địa điểm nhất định trong   một thời gian được xác định, có liên quan đến những nhân vật cụ thể. Biến  cố có tính chất cụ thể, không lặp lại nguyên vẹn.        Hiện tượng lịch sử: là sự kiện lịch sử xảy ra ở nhiều nước khác nhau, kéo  dài trong một khoảng thời gian, mang tính chất điển hình (Vd: Cách mạng tư sản,  sự xâm lược của Chủ nghĩa thực dân…)          Điều giống nhau giữa ba khái niệm “sự kiện lịch sử”, “ hiện tượng lịch sử” và “biến cố lịch sử” là: đều phản ánh hiện thực quá khứ và không chỉ nói về hiện thực khách quan, tức là những biến cố và hiện tượng đã xảy ra, nó tồn tại độc lập với ý thức con người, mà còn nói đến hiến thực được phản ánh trong ý thức chúng ta. Biến cố  và hiện tượng  lịch sử  chỉ trở thành sự kiện lịch sử, hay một sự kiện được xác định khi nào nhà   sử  học tìm hiểu về hiện thực, chứng minh một hiện tượng biến cố  nào đó tồn  tại trong hiện thực khách quan của quá khứ  hoặc hiện tại.  Ví dụ, nền văn minh  
  17. cổ  Hôme tuy là một hiện thực lịch sử khách quan tồn tại hàng nghìn năm trước,   nhưng đối với chúng ta nó trở  thành sự  kiện khi có những cuộc khai quật khảo   cổ học giới thiệu với chúng ta những hiện vật đã chứng minh sự tồn tại của nền   văn minh đó.      Mặt khác, khi phân biệt sự kiện, hiện tượng và biến cố lịch sử, chúng ta không   được tuyệt đối hóa sự khác nhau hay giống nhau giữa các khái niệm trên. Và cần   hiểu: ­ Sự  kiện là bản thân hiện thực lịch sử  khách quan gồm có biến cố, hiện   tượng, đồng thời cũng là nhận thức của chúng ta về hiện thực ấy. ­ Muốn phản ánh được hiện thực lịch sử khách quan, tức là nhận thức được   “sự  kiện – biến cố”, “sự  kiện – hiện tượng” dưới dạng “sự  kiện – tri   thức”, nhà sử học phải làm cho tư duy lịch sử phù hợp với hiện thực lịch  sử. ­ Tư liệu lịch sử: là sự phản ánh biến cố, hiện tượng lịch sử khách quan vào   ý thức của nhà sử  học. Tư  liệu lịch sử  là sơ  sở  quan trọng để  sử  gia   nghiên cứu sự kiện, biến cố, hiện tượng lịch sử  > Tư liệu lịch sử là trung  gian giữa nhà sử học và ba khái niệm trên. ­ Tư liệu lịch sử vừa mang tính khách quan, giống như  các sự  kiện lịch sử,   biến cố  lịch sử, hiện tượng lịch sử. Đòi hỏi sử  gia phải dùng hiểu biết   của mình, tư duy của mình để phân biệt, đối chiếu, so sánh để  tìm ra mối  quan hệ giữa tư liệu lịch sử với các sự kiện lịch sử, biến cố lịch sử, hiện   tượng lịch sử để tìm ra hiện thực khách quan. Sự phân loại sự kiện được dựa vào các đặc trưng chủ yếu của nó như nội   dung, cơ cấu và ý nghĩa.  Hiện nay có ba cách phân loại sự kiện được sử  dụng trong nghiên cứu khoa học lịch sử như sau: Cách 1: Phân loại dựa trên nội dung của sự kiện lịch sử. ­ Sự kiện kinh tế: phản ánh những biến cố, hiện tượng và quá trình lịch sử  phát triển kinh tế. 
  18. ­ Sự kiện chính trị: phản ánh những biến cố, hiện tượng và quá trình lịch sử  phát triển chính trị, đấu tranh giai cấp, chiến tranh, cách mạng lịch sử  và  suy vong của các quốc gia. ­ Sự kiện về hệ tư tưởng: nêu các hiện tượng lịch sử phát triển của những  hình thái ý thức xã hội của con người, lịch sử tâm lý xã hội và ý thức hệ,   hoạt động tinh thần của con người.  Cách phân loại này chỉ có ý nghĩa về phương pháp luận Cách 2: Phân loại dựa theo cấu tạo của sự kiện, do kết cấu và đặc điểm về  không gian và thời gian của biến cố, hiện tượng lịch sử quy định. Cách phân biệt  này chia sự kiện ra làm 2 loại là “sự kiện đơn giản” và “sự kiện phức tạp”. ­ Sự kiện đơn giản: là 1 bộ phận, tạo nên biến cố lịch sử => (cái đơn nhất) ­ Sự  kiện phức tạp: bao gồm những sự kiện đơn giản, là sự  mô tả  những   biến cố lịch sử được hoàn thành trong một khoảng thời gian và không gian   rộng lớn, có tính chất đa dạng, toàn diện => (cái chung) Cách 3: Phân loại theo ý nghĩa của sự kiện lịch sử gồm:  sự kiện cơ bản và  sự kiện không cơ bản. ­ Sự kiện cơ bản: là sự kiện phản ánh biến cố, hiện tượng, những quy luật   chi phối một phạm vi nhất định của quá trình xã hội, những nét đặc biệt   vừa điển hình của quá trình này có ảnh hưởng tới sự phát triển của thời kì   sau. ­ Sự  kiện không cơ  bản: là sự  kiện khôi phục những biến cố, hiện tượng   không có ý nghĩa quan trọng, chủ yếu trong một quá trình lịch sử và không  để lại dấu vết gì sâu sắc trong sự phát triển này.   Lưu ý: sự  phân chia này chỉ  có ý nghĩa tương đối, vì do tính biện chứng   trong quá trình nhận thức lịch sử chi phối => sự kiện lúc này là cơ bản, lúc  khác là không cơ bản và ngược lại.  Tất cả sự phân chia các sự kiện đều mang tính chất tương đối.  Nhận thức quy luật trong nghiên cứu lịch sử
  19. ­ Quan điểm Mácxít cho rằng: lịch sử  xã hội loài người là quá trình phát  triển không ngừng bao gồm những sự  kiện thể  hiện sự  phát triển đi lên  hợp quy luật. Cần phải hiểu biết đúng sự kiện lịch sử để nhận thức được  quy luật của lịch sử. (Vd: Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất với quan   hệ  sản xuất, sự  phát sinh, phát triển, diệt vong của một thời đại phong   kiến). ­ Quan điểm của sử  gia cổ  đại, phong kiến và tư  sản phủ  định sự  tồn tại  của quy luật lịch sử . Các sử gia tư sản coi khoa học lịch sử là “khoa học   miêu tả”. ­ Quan điểm của các sử gia Mácxít: + Coi việc tìm hiểu quy luật trong nghiên cứu lịch sử xã hội là một nhiệm  vụ của việc nghiên cứu lịch sử. + Việc nhận thức quy luật lịch sử phụ thuộc vào quan điểm, lợi ích của   mỗi giai cấp. + Quy luật lịch sử  là từ  sự  xuất hiện, sự  thông qua hàng loạt những cái  ngẫu nhiên đã hiện ra cái tất yếu của lịch sử.  + Cần phải nhận thức rõ ràng quy luật để  làm cho hành động của con  người   trở  nên có hiệu quả  và thúc đẩy lịch sử  phát triển; ngược lại,  không nhận thức được quy luật lịch sử là làm trái và làm thụt lùi lịch sử.     + Nhiệm vụ của các nhà sử học phải phát hiện những quy luật đang giữ  vai trò chủ đạo trong xã hội đương thời, những quy luật ra đời đó là nhưng vẫn  còn tác động (tích cực hoặc tiêu cực) và những quy luật chi phối sự hình thành và  phát triển của xã hội tương lai. Xong CÂU 5: Quan điểm sử học Mác xít về phân kỳ lịch sử? Cơ sở ý nghĩa của phân kỳ lịch sử?       Lịch sử loài người và lịch sử của mỗi dân tộc phát triển qua nhiều giai đoạn   khác nhau. Mỗi giai đoạn đánh dấu một bước tiến trong bậc thang đi lên của xã  hội. Các giai đoạn, thời kì lịch sử khác nhau về “chất” và có sự phân biệt rất cụ 
  20. thể  bởi đặc trưng của nó. Vì vậy, việc phân kì lịch sử  bao giờ  cũng là một vấn   đề quan trọng của việc nghiên cứu lịch sử.        Phân kỳ lịch sử sẽ giúp cho sự hiểu biết đúng về tri thức lịch sử, do đó phải Phân kỳ lịch sử sẽ giúp cho sự hiểu biết đúng về tri thức lịch sử, do đó phải xuất phát từ việc tìm hiểu một cách toàn diện và khách quan thực tế lịch sử đã diễn ra cũng như phù hợp với quy luật phát triển khách quan. Tính khách quan khoa học là một nguyên tắc trong phân kỳ lịch sử. Chỉ có trên cơ sở đánh giá một cách khách quan khoa học đâu là bản chất, đâu là hiện tượng, đâu là cái chung, đâu là cái riêng của một quá trình lịch sử, chúng ta mới có đuợc một cách phân định đúng các giai đoạn, các thời kỳ lịch sử khác nhau .      Phân kì lịch sử là một việc tất yếu của người nghiên cứu lịch sử, hoàn toàn có  cơ sở khi dựa trên một quan điểm khoa học thống nhát, đúng đắn, khách quan.       Phân kì lịch sử không chỉ cần đối với các nhà nghiên cứu lịch sử mà còn rất   cần đối với người làm công tác giảng dạy. Bởi vì, thông qua việc phân kì lịch sử  người dạy mới bày tỏ quan điểm của mình về nội dung, bản chất, đặc điểm của  một giai đoạn, một thời kì lịch sử  thông qua việc đánh giá những sự  kiện, nhân   vật, hiện tượng lịch sử…Phân kì lịch sử  không chỉ  có tác dụng truyền thụ  kiến  thức mà còn cả việc giáo dục tư tưởng cho người học. Đồng thời, Phân kì lịch sử  là một định hướng khoa học của nhà nghiên cứu và giảng dạy lịch sử.  Những nguyên tắc lớn cho việc phân kì lịch sử  theo quan điểm của các sử  gia  Mác xít ­ Xem lịch sử xã hội loài người theo xu thế phát triển, ngày càng tiên tiến.  ­ Sự phát triển của lịch sử xã hội loài người theo quy luật khách quan, xuất  phát từ sự kiện nội tại của sự vật, hiện tượng trong quá trình lịch sử.  ­ Cần phải kết hợp  chặt  chẽ,  nhuần  nhuyễn  2  phương  pháp lịch sử  và  phương pháp logic trong phân kì lịch sử.  ­ Phải có thái độ khách quan khoa học trong phân kì lịch sử.  Những tiêu chí của việc phân kì lịch sử thế giới  ­ Quan điểm của chủ  nghiã Mác – Lênin: lấy cơ  sở  kinh tế, phương thức  sản xuất và hình thái kinh tế xã hội làm tiêu chí cơ bản để phân kì lịch sử  xã hội loài người.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2