intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài tiểu luận: Tội phạm và cấu thành tội phạm

Chia sẻ: Than Thi Sao Mai | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:15

1.436
lượt xem
117
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu về tội phạm là vấn đề cơ bản và quan trọng nhất của luật Hình sự Việt Nam. Để tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này mời các bạn cùng tham khảo "Bài tiểu luận: Tội phạm và cấu thành tội phạm". Hy vọng tài liệu là nguồn thông tin hữu ích cho quá trình học tập và nghiên cứu của các bạn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài tiểu luận: Tội phạm và cấu thành tội phạm

  1. Bài tiểu luận môn pháp luật đại cương Đề tài: Tội phạm và cấu thành tội phạm A. Lời nói đầu TP là một hiện tượng tiêu cực nhất tr XH. TP xuất hiện cùng với sự  ra đời của NN và PL, cũng như khi XH phân chia thành giai cấp đối kháng.   Để bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị, NN đã quy định hvi nào là TP  và áp dụng TNHS hoặc hình phạt đối với ng nào thực hiện các hvi đó. Do   đó, TP k chỉ mang thuộc tính lịch sử ­ XH mà còn mang bản chất là 1 hiện   tượng pháp lý. Nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa pháp lý của việc xác  định rõ khái nhiệm TP, LHS VN cũng như  LHS các nước XHCN đều có  định nghĩa thống nhất khái niệm TP thể hiện rõ bản chất XH của TP, qua  đó phản ánh quan điểm, đường lối đúng đắn chính sách HS của NN tr  từng giai đoạn của lịch sử  và CM, bảo vệ  các lợi ích của toàn thể  nhân  dân. Hơn nữa, KN TP tr LHS còn là cơ  sở  để  phân biệt TP với các vi   phạm PL khác và với hvi trái đạo đức, cũng như các TH k phải là TP, qua  đó, bảo vệ, củng cố và duy trì trật tự PL, góp phần đấu tranh phòng ngừa  và chống TP, bảo vệ  một cách hữu hiệu lợi ích của NN, của XH, các   quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
  2. Nghiên cứu tội phạm chúng ta không chỉ nghiên cứu khái niệm, bản  chất của tội phạm mà còn phải nghiên cứu các yếu tố  các dấu hiệu cấu   thành tội phạm và các trường hợp không phải là tội phạm (loại trừ trách  nhiệm hình sự). B. Nội dung Chương I: Những vấn đề chung về tội phạm 1. Khái niệm tội phạm Nghiên cứu về  tội phạm là vấn đề  cơ  bản và quan trọng nhất của  luật Hình sự  Việt Nam. Bởi lẽ, tội phạm là đối tượng đấu tranh phòng  ngừa và chống của chính sách hình sự của Nhà nước, vì thế có nhiều quan  điểm khác nhau về  khái niệm tội phạm. Một số  quan điểm cho rằng :  “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, được quy định trong   BLHS và phải chịu hình phạt”; hay: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho   xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt”,… Khái niệm tôi phạm đã được ghi nhận định nghĩa lập pháp trong  khoản 1, điều 8 BLHS 1999 (sửa đổi bổ sung 2009): “Tội phạm là hành vi   nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ  luật hình sự, do người có   năng lực trách nhiệm hình sự  thực hiện một cách cố  ý hoặc vô ý, xâm   phạm độc lập, chủ  quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ  Tổ  quốc, xâm   phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh,   trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ  chức, xâm phạm   tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự  do, tài sản, các quyền, lợi   ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật   tự pháp luật xã hội  chủ nghĩa”.
  3. Từ  đó có thể  đưa ra định nghĩa khoa học của khái niệm tội phạm   như sau: “TP là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS   do người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện 1 cách có lỗi   (Cố  ý hoặc vô ý) xâm phạm đến các quan hệ xã hội được BLHS xác lập   và bảo vệ.” 2. Đặc điểm của tội phạm 2.1.  Đặc điểm thứ  nhất của tội phạm: Tội phạm là hành vi nguy    hiểm cho xã hội Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là một đặc điểm đầu tiên   và quan trọng của tội phạm. Tội phạm hay bất cứ vi ph ạm pháp luật nào   đều có tính nghuy hiểm cho XH. Nên tính nguy hiểm cho XH là 1 trong  những căn cứ để phân biệt hành vi phạm tội với các hành vi vi phạm pháp  luật khác. Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính nguy  hiểm không đáng kể  thì không phải là tội phạm và được xử  lý bằng các   biện pháp khác. Việc đánh giá hành vi nào là hành vi nguy hiểm cho xã hội phụ  thuộc vào tình hình phát triển của xã hội và yêu cầu đấu tranh phòng ngừa  tội phạm. Nếu trước đây, hành vi trộm cắp dưới 2 triệu đồng dược coi là   hành vi nguy hiểm cho xã hội và người thực hiện hành vi này có thể  bị  truy cứu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản, thì hiện nay, hành vi  này không bị coi là hành vi nguy hiểm cho xã hội nữa. Ngược lại có hành   vi trước đây chưa được coi là hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhưng nay lại  coi là nguy hiểm cho xã hội và được coi là tội phạm. Ví dụ: hành vi xâm 
  4. phạm quyền  ứng cử  của công dân, trước đây chưa được coi là hành vi  nguy hiểm cho xã hội, nay hành vi này được coi là hành vi nguy hiểm cho  xã hội. Tính nguy hiểm cho XH phụ  thuộc vào nhiều yếu tố  khác nhau:   hình thức lỗi, hậu quả, công cụ, phương tiện pham tội, phương thức thủ  đoạn   phạm   tội,   thời   gian,   không   gian   phạm   tội,   địa   điểm,   hoàn   cảnh  phạm tội, động cơ  mục đích phạm tội, nhân thân người phạm tội cũng  như tình hình an ninh trật tự, an toàn XH nơi sảy ra sự việc,… 2.2.  Đặc điểm thứ hai của tội phạm: tính trái PL của tội phạm  Đây   là   đặc   điểm   thể   hiện   nguyên   tắc   pháp   chế   XHCN   theo   LHSVN. Bất kỳ  hành vi nào được cơi là tội phạm cũng đều được quy  định trong BLHS. Do đó không ai bị  truy cứu TNHS và phải chịu TNHS   nếu đã thực hiện 1 hành vi mà không được BLHS quy định là tội phạm.  Tức là 1 người thực hiện hành vi nguy hiểm đến đâu nhưng hành vi đó  chưa được quy định trong BLHS thì hành vi đó k được coi là tội phạm. Để khẳng đinh rõ điều này, điều 2 BLHS quy định: “Chỉ người nào   phạm 1 tội đã được BLHS quy định mới phải chịu TNHS” Đặc điểm này có ý nghĩa về phương diện thực tiễn là tránh việc xử  lý tùy tiện của người áp dụng pháp luật: giúp cơ  quan lập pháp kịp thời  bổ  sung sửa đổi BLHS theo sát sự  thay đổi của tình hình kTXH để  công  tác đấu tranh phòng chống TP đạt hiệu quả. 2.3.  Đặc điểm thứ ba của TP: là hành vi được thực hiện một cách    có lỗi (cố ý hoặc vô ý).
  5. TP phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội do con người thực hiện 1  cách có lỗi cố  ý hoặc vô ý. Khi có sự  kiện TP được thực hiện 1 cách có  lỗi thì tính chất lỗi là phạm trù liên quan đến hành vi còn lỗi là phạm trù  liên quan đến ng phạm tội. Khi hành vi khách quan gây nguy hiểm cho XH bị  LHS cấm, được  con ng thực hiện 1 cách có lỗi dưới hình thức cố  ý hoặc vô ý thì hành vi  đó mang tính chất lỗi và hành vi đó trở thành hvii phạm tội, ng có lỗi trong  thực hiện TP phải chịu TNHS.  Nếu hvi nguy hiểm cho XH bị LHS cấm được thực hiện trong thực  tế nhưng ng thực hiện hvi đó không có lỗi thì không bị coi là hvi phạm tội,  ng không có lỗi trong việc thực hiện hvi đó không phải chịu TNHS theo   quy định của BLHS. 2.4.  Đặc điểm thứ tư của tội phạm: Là hành vi do người có năng    lực TNHS thực hiện và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện. Người có năng lực TNHS là người mà tại thời điểm thực hiện hành   vi nguy hiểm cho XH bị LHS cấm  ở trong trạng thái bình thường và hoàn   toàn có khả năng nhận thức được đầy đủ hành vi, tính chất thực tế và tính  chất pháp lý của hành vi do mình thực hiện, cũng như  khả    năng điều  khiển được đầy đủ hành vi đó. Năng lục TNHS có mối liên quan chặt chẽ trực tiếp với lỗi, có năng  lực TNHS là cơ sở cần và đủ để có lỗi trong việc thực hiện TP, vì để  có  lỗi trong việc thực hiện TP thì chủ  thể  của hành vi đó nhất thiết phải là  người có năng lực TNHS. 
  6. Người đủ  tuổi chịu TNHS là ng mà tại thời điểm phạm tội đã đạt  đến độ tưởi do LHS quy định để có thể có khả năng nhận thức được đầy   đủ  tính chất thực tế và tính chất pháp lý của hvi do mình thực hiện cũng  như có khả năng điều khiển hvi đó. Điều 12 BLHS quy định Tuổi chịu trách nhiệm hình sự: “1. Người   từ  đủ  16 tuổi trở  lên phải chịu trách nhiệm hình sự  về  mọi tội phạm. 2.   Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm   hình sự  về  tội phạm rất nghiêm trọng do cố  ý hoặc  tội phạm  đặc biệt   nghiêm trọng”. Người đủ tuổi chịu TNHS nhưng không có năng lực TNHS thì hành  vi phạm tội của người đó không được coi là TP. Ví dụ: Một người 20 tuổi   (đủ  tuổi chịu TNHS) nhưng do bị  tâm thần (không có năng lực TNHS)   thực hiện hành vi giết ng, thì người này không phải chịu TNHS.  Mối quan hệ giữa 4 đặc điểm của tội phạm: chỉ khi nào có sự  tổng hợp của cả  4 đặc điểm thì một hành vi mới bị  coi là TP, còn như  thiếu dù chỉ 1 trong 4 đặc điểm đó thì hvi nhất thiết không thể bị coi là tội   phạm. 3. Phân loại tội phạm Việc phân loại tội phạm có ý nghĩa rất quan trọng trong việc quy  định các nguyên tắc xử  lý, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, thời  hiệu thi hành bản án và các quy định khác về  điều kiện áp dụng một số  loại hình phạt hoặc biện pháp tư pháp, v.v... Phân loại tội phạm còn là cơ 
  7. sở  để  cụ  thể  hóa TNHS, quy định khung hình phạt, bảo đảm nguyên tắc   cá thể hóa TNHS và hình phạt. Ngoài ra, việc phân loại tội phạm còn có ý  nghĩa đối với việc quy định một số  chế  định tạm giam, tạm giữ  trong   BLHS. Phân loại TP trong LHS là chia những hvi nguy hiểm trong xã hội bị  LHS cấm thành từng loại nhất định theo những tiêu chí này hay những tiêu  chí khác để làm tiền đề cho cá thể hóa TNHS và hình phạt hoặc tha miễn   TNHS và hình phạt. Khoản 2 điều 8 BLHS đã kết hợp 3 tiêu chí phân loại TP: tính chất,  mức độ nguy hiểm cho XH của TP và mức cao nhất của khung hình phạt   để phân thành 4 loại: Stt Loại TP Mức   độ   nguy  Mức   cao   nhât   của  hiểm của hvi khung hình phạt 1 Ít nghiêm trọng Không lớn Đến 3 năm tù 2 Nghiêm trọng Lớn Đến 7 năm tù 3 Rất nghiêm trọng Rất lớn Đến 15 năm tù 4 Đặc   biệt   nghiêm   Đặc biệt lớn Trên 15 năm tù, chung  trọng thân hoặc tử hình 4. Các trường hợp không phải là TP: Các TH k phải là TP theo BLHS hiện hành bao gồm: ­ Hvi có tính chất nguy hiểm k đáng kể (khoản 4 Điều 8) ­ Sự kiện bất ngờ (điều 11) ­ Ng chưa đủ tuổi chịu TNHS thực hiện (điều 12)
  8. ­ Tình trạng k có NLTNHS (khoản 1 điều 13) ­ Phòng vệ chính đáng (điều 15) ­ Tình thế cấp thiết (điều 16) Chương II: Cấu thành tội phạm  1. Những vấn đề chung về CTTP 1.1.  Khái niệm CTTP  CTTP là cơ sở  pháp lý để  truy cứu TNHS đối với người phạm tội,  ngoài ra, CTTP còn là yếu tố  bảo đảm các quyền và tự  do của công dân,  của con người, làm ranh giới để  xử  lý giữa trường hợp hành vi đã CTTP  hay không CTTP. Dưới góc độ  khoa học có thể  hiểu CTTP là tổng hợp những dấu  hiệu được quy định trong LHS đặc trưng cho một loại TP cụ thể. CTTP của một loại TP cụ thể là tổng hợp các dấu hiệu (khách quan  và chủ quan) đặc trưng cho khách thể và mặt khách quan, chủ thể và mặt  chủ quan của TP. Các dấu hiệu có quan hệ chặt chẽ, thiếu một dấu hiệu  nào sẽ không có CTTP. 1.2.  Phân loại CTTP  ­ Căn cứ vào mức độ nguy hiểm cho XH của hành vi phạm tội   có thể  chia cấu thành tội phạm thành: cấu thành tội phạm cơ  bản; cấu   thành tội phạm tăng nặng; cấu thành tội phạm giảm nhẹ.
  9. CTTP cơ bản là tổng hợp các dấu hiệu đặc trưng, bắt buộc với mọi  trường hợp phạm tội của một loại tội, phản ánh bản chất của loại tội đó  và cho phép phân biệt được loại TP này với các loại TP khác. Nội dung   của CTTP cơ  bản chỉ  bao gồm những dáu hiệu định tội. Đây là các cấu  thành tội phạm được thể  hiện  ở  khoản 1 của đa số  các tội phạm. Ví dụ  như tội trộm cắp tài sản (khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự), tội vi phạm  quy định về  điều khiển phương tiện giao thông đường bộ  gây hậu quả  nghiêm trọng (khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự).. CTTP tăng nặng bao gồm những dấu hiệu định tội và những dấu  hiệu thể hiện mức độ nguy hiểm cho XH của TP tăng lên rõ rệt. CTTP giảm nhẹ  bao gồm những dấu hiệu  định tội và nững dấu  hiệu thể hiện mức độ nguy hiểm cho XH giảm đi rõ rệt. ­ Căn   cứ   vào  cấu   trúc   của   CTTP  có   thể   chia  cấu   thành   tội  phạm thành: cấu thành tội phạm hình thức; cấu thành tội phạm vật chất;   cấu thành tội phạm hỗn hợp. Trong đó: CTTP hình thức thức là cấu thành tội phạm có duy nhất một yếu tố  bắt buộc về  mặt khách quan của tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã  hội. Tội phạm có cấu thành tội phạm hình thức được coi là hoàn thành từ  thời điểm thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được mô tả trong điều  luật phần các tội phạm Bộ luật hình sự. CTTP vật chất là cấu thành tội phạm mà các dấu hiệu bắt buộc   thuộc mặt khách quan của tội phạm bao gồm: hành vi phạm tội, hậu quả  do hành vi phạm tội gây ra; và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu  
  10. quả do hành vi phạm tội gây ra. Tội phạm có cấu thành tội phạm vật chất   được coi là hoàn thành từ thời điểm có thiệt hại xảy ra. Cấu thành tội phạm hỗn hợp là loại cấu thành tội phạm mà các dấu  hiệu thuộc mặt khách quan của cấu thành tội phạm vừa có yếu tố  của  cấu thành tội phạm hình thức, vừa có yếu tố của cấu thành tội phạm vật   chất. 2. Các yếu tố CTTP TP  là  một   thể  thống nhất  giữa  yếu  tố   chủ  quan  và khách  quan  nhưng về  lý luận có thể  chia thành các bộ  phận cấu thành. Các bộ  phận  CTTP được coi là các yếu tố CTTP. Các yếu tố CTTP bao gồm: Khách thể, mặt khách quan, chủ thể và   mặt chủ quan của TP. 2.1.  Yếu tố thứ nhất của CTTP: Khách thể của TP  Khách thể của TP là các quan hệ XH được BLHS xác lập và bảo vệ  bị  TP xâm hại bằng cách gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại trong   một chừng mực nhất định.  Có thể phân khách thể của TP thành 3 loại:  Khách thể  chung: Khách thể  chung là tổng thể  các quan hệ  XH do  LHS bảo vệ  bị các TP xâm hại. Bất kỳ  TP nào cũng xâm hại đến khách  thể chung của TP. Khách thể chung của TP được liệt kê tại Điều 8 BLHS 
  11. và trên cơ sở đó các nhà làm luật phân chia các loại TP có cùng tính chất  trong cùng một chương tương ứng tại phần các TP của BLHS. Khách thể loại: Khách thể loại là nhóm các quan hệ xã hội có cùng  tính chất liên hệ qua lại với nhau, được 1 nhóm các quy pham PLHS bảo   vệ  và bị  1 nhóm các tội phạm xâm hại. Khách thể  loại là cơ  sở  để  phân  loại các tội phậm trong phần các tội phạm của LHS thành các chương. Khách thể  trực tiếp: Khách thể  trực tiếp là quan hệ  xã hội cụ  thể  được 1 quy phạm PLHS bảo vệ và bị  1 loại tội phạm trực tiếp xâm hại.  Khách thể  trực tiếp là căn cứ  để  quy định các loại tội phạm vào các   chương mục nhất định của BLHS. 2.2.  Yếu tố thứ hai của CTTP: Mặt khách quan của tội phạm   Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm hay là   những dấu hiệu của tội phạm biểu hiện ra ngoài thế giới khách quan.  Các biểu hiện khách quan của TP: ­ Hvi nguy hiểm cho XH là xử sự  cụ thể của con ng được thể  hiện qua thế giới khách quan dưới nhiều hình thức nhất định, gây ra thiệt   hại cho các quan hệ XH được LHS bảo vệ. Các dạng của hvi nguy hiểm cho xã hội gồm hành động phạm tội  và không hành động phạm tội. Hành động PT: là chủ  thể làm 1 việc  mà   PL cấm qua đó làm thay đổi trạng thái bình thường của đối tượng tác  động gây thiệt hại cho khách thể  của tội phạm. Không hành động phạm  tội: là chủ  thể không làm hoặc làm không đầy đủ  1 việc mà PL quy định  phải làm mặc dù co đủ khả năng và điều kiện để  thực hiện việc đó, làm 
  12. biến đổi trạng thái bình thường của đối tượng tác động gây thiệt hại cho  khách thể của tội phạm. ­ Hậu quả của TP là thiệt hại do hành vi PT gây ra cho những   quan hệ XH được LHS bảo vệ. Trong số các hậu quả do hvi PT gây ra chỉ  hậu quả nào được nêu ra trực tiếp trong ND điều luật quy định CTTP mới  có ý nghĩa là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt. các dấu hiệu  khác được xem xét khi giải quyết TNHS và quyết định Hình phạt với TP   đã được thực hiện. Trong BLHS 1999, hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hvi khách quan  gây ra được phản ánh vào ND các CTTP với các dạng:  Thiệt hại về vật  chất, thiệt hại về thể chất, thiệt hại về tinh thần, thiệt hại về chính trị. ­ Mối quan hệ giữa hvi và hậu quả nguy hiểm cho XH: căn cứ  đầu tiên để xác định quan hệ nhân quả là yếu tô về thời gian. Hành vi trái  pháp luật với tính chất là nguyên nhân phải xảy ra trước hậu quả  nguy  hiểm cho XH với ý nghĩa là kết quả. Hành vi trái PL phải chứa đựng khả  năng thực tế là phát sinh hậu quả nguy hiểm cho XH. Và những hậu quả  nguy hiểm cho XH đã xảy ra phải do chính hvi trái PL đã được thực hiện  gây ra. Quan hệ nhân quả tr PLHS là một vấn đề phức tạp cả về lý luận và  thực tiễn. Nhiều trương hợp một hậu quả  nhất định xảy ra là kết quả  vận động của các khả năng chứa đựng trong nhiều hành vi của một hoặc   nhiều chủ thể gây ra. Hoặc một hvi trái PL lại gây ra nhiều hậu quả nguy  hiểm cho XH. 
  13. ­ Những biểu hiện khác thuộc mặt khách quan của TP: Phương  tiện PT; Phương pháp, thủ đoạn thực hiện TP; thời gian PT; địa điểm PT;  hoàn cảnh PT. 2.3.  Yếu tố thứ ba của CTTP: chủ thể của TP  Chủ thể của TP là con người cụ thể đang sống đã thực hiện TP đạt  độ tuổi chịu TNHS và có NLTNHS. Tuy nhiên đối với một số TP yêu cầu ng thực hiện TP phải có thêm  một số  dấu hiệu bổ  sung như: giới tính, nghề  nghiệp, độ  tuổi, chức vụ,  quyền hạn,… gọi là chủ thể đặc biệt của TP. 2.4.  Yếu tố thứ tư của CTTP: Mặt chủ quan của TP  Mặt chủ quan của TP là mặt bên tr của TP, là thái độ tâm lý của ng   PT đối với hvi nguy hiểm cho XH và với hậu quả do hvi đó gây ra. Các dấu hiệu của mặt chủ quan: ­ Lỗi: là thái độ  tâm lý của TP đối với hvi PT và hậu quả  mà   hvi đó gây ra thể hiện dưới dạng cố ý hoặc vô ý. Các hình thức của lỗi: + Lỗi cố ý là lỗi mà trong đó chủ thể lựa chọn hvi PT và thực hiện  hvi đó. Lỗi cố ý gồm cố ý trực tiếp: là lỗi của một người khi thực hiện hvi  nguy hiểm cho XH nhận thức được hvi của mình có tính chất nguy hiểm,   thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho XH và mong muốn điều đó xảy   ra.
  14. Lỗi cố  ý gián tiếp: là lỗi của một người khi thực hiện hvi nguy  hiểm cho XH, tuy k mong muốn nhưng có ý thức để  mặc cho hậu quả  xảy ra. + Lỗi vô ý: là lỗi của một ng trong đó chủ  thể  k lựa chọn hvi PT   nhưng trên thực tế đã gây hậu quả nguy hiểm cho XH. Lỗi vô ý gồm vô ý do quá tự  tin là lỗi của 1 ng tuy thấy trước hvi   của mình có thể gây hậu quả nguy hiểm cho XH nhưng cho rằng hậu quả  đó k xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa dk Lỗi vô ý do cẩu thả  là lỗi của 1 người k thấy trước được hvi của  mình có thể  gây hậu quả  nghuy hiểm cho XH mặc dù có thể  thấy trước   được hoặc buộc phải thấy trước. ­ Động cơ  PT là nhân tố  bên trong thúc đẩy ng PT thực hiện  TP. Cơ sở để hthanh động cơ PT là những nhu cầu về vật chất, tinh thần,  các lợi ích sai lệch của cá nhân được chủ  thể  nhận thức cũng có thể  là   nhu cầu bình thường nhưng chủ  thể  đã chọn cách thoản mãn chúng trái  với chuẩn mực XH ­ Mục đích PT là mô hình được hthanh trong ý thức ng PT và ng   PT mong muốn đạt được điều đó trên thực thế bằng cách thực hiện TP.  Như  vậy bốn yếu tố  CTTP có mối quan hệ  hữu cơ  và chặt   chẽ  với nhau, mỗi yếu tố  CTTP đều biểu hiện một nội dung cụ  thể  và  tổng hợp 4 yếu tố CTTP phản ánh mối liên hệ quan hệ tâm lý, thái độ bên   trong của 1 người với hành vi do chính họ thực hiện ra bên ngoài thế giới  
  15. khách quan gây ra những hậu quả nuy hiểm cho XH. Do đó bất kỳ hvi PT   nào, dù ít nghiêm trọng hay đặc biệt ng trọng, dù xâm phạm đến quan hệ  XH nào, dù mức hình phạt và loại HP có nghiêm khắc đến thế nào thì TP  tr LHS đều thể  hiện mối quan hệ  hữu cơ, logic và thống nhất giữa mặt  khách quan và mặt chủ quan của TP. C.  KẾT LUẬN Nghiên cứu về CTTP và TP có ý nghĩa quan trọng tr việc hoàn thiện  hệ thóng lý luận và hệ thống PLHS. Lý luận về CTTP là cơ sở khoa học  để xây dựng các CTTP cụ thể tr phần các TP của BLHS. Theo đó, mỗi khi  cần bổ sung them một TP mới, các nhà làm luật nước ta bao giờ cũng dựa   vào lý luận về  CTTP tr khoa học LHS để  xây dựng các QPPL cho thống  nhất và phù hợp với từng tội danh tương ứng cụ thể, bảo đảm tính chuẩn   xác và hợp lý, đồng thời phục vụ cho hoạt động áp dụng PLHS liên quan   đến TP, tội danh và định tội danh được chính xác tr thực tiễn, bảo đảm xử  lý đúng ng, đúng tội và đúng PL, không bỏ lọt TP và ng PT, tránh làm oan  ng vô tội.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2