LỜI NÓI ĐẦU
Giai đoạn 2011 - 2016 đánh dấu sự chỉ đạo quyết liệt của cả hệ thống chính trị đối với công tác bảo đảm an toàn thực phẩm (ATTP). Nhiều văn bản mang tính chiến lược đã được ban hành để chỉ đạo các Bộ, ngành và địa phương triển khai đồng bộ các giải pháp bảo đảm ATTP1. Công tác chỉ đạo, điều hành được tăng cường trong các giai đoạn cao điểm như tháng hành động về ATTP, Tết Trung thu, Tết Nguyên đán... Chính phủ duy trì chỉ đạo trực tiếp qua các cuộc họp Ban Chỉ đạo liên ngành, giao ban trực tuyến với các địa phương về công tác ATTP. Trên cơ sở định hướng chiến lược và chỉ đạo của Đảng và Chính phủ, các Bộ đã xây dựng và ban hành đầy đủ các văn bản hướng dẫn thực
1Đảng đã ban hành Chỉ thị số 08-CT/TW ngày 21/10/2011 của Ban Bí thư khóa XI về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với vấn đề an toàn thực phẩm trong tình hình mới, Kết luận số 11-KL/TW ngày 19/01/2017 của Ban Bí thư về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 08 khóa XI về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với vấn đề an toàn thực phẩm trong tình hình mới, Quốc hội ban hành Luật An toàn thực phẩm, Ủy ban TW MTTQ Việt Nam phối hợp với Chính phủ ban hành Chương trình số 90/CTrPH/CP-ĐCTUBTWMTTQVN ngày 30/3/2016 về"Chương trình phối hợp vận động và giám sát bảo đảm an toàn thực phẩm giai đoạn 2016-2020”, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 38/2012/NĐ-CP ngày 25/4/2012 quy định chi tiết một số điều của Luật an toàn thực phẩm; Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định 20/QĐ- TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia về an toàn thực phẩm giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn 2030, Chỉ thị số 13/CT-TTg ngày 09/5/2016 về việc tăng cường trách nhiệm quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm; UBND các tỉnh đã ban hành kế hoạch thực hiện Chiến lược quốc gia về toàn thực phẩm làm căn cứ cho hoạt động quản lý ATTP của địa phương...
3
thi Luật ATTP và các đề án đảm bảo ATTP như: Đề án đẩy mạnh hoạt động truyền thông về ATTP giai đoạn đến năm 2015, Đề án xây dựng và phát triển mô hình chuỗi cung cấp thực phẩm nông lâm thủy sản an toàn trên phạm vi toàn quốc, Đề án “Bảo đảm an toàn thực phẩm trong vận chuyển, giết mổ gia súc, gia cầm giai đoạn 2014 - 2020”, Đề án Nâng cao giá trị gia tăng hàng nông lâm thủy sản trong chế biến và giảm tổn thất sau thu hoạch…
Trong 5 năm liên tục (2011 - 2015), Bộ Nông nghiệp và PTNT triển khai “Năm chất lượng vật tư nông nghiệp và an toàn thực phẩm”, đặc biệt, năm 2016 được Bộ chọn là “Năm cao điểm hành động về vệ sinh ATTP trong lĩnh vực nông nghiệp” nhằm tập trung nguồn lực, triển khai nhiều biện pháp quyết liệt với 4 nhiệm vụ trọng tâm là: Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật; tăng cường thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm chất lượng vật tư nông nghiệp và ATTP; tăng cường thông tin, truyền thông về ATTP, giới thiệu, quảng bá các nông sản thực phẩm an toàn đã được chứng nhận của cơ quan quản lý chất lượng đến người tiêu dùng; phát triển các chuỗi cung ứng nông sản thực phẩm an toàn. Những biện pháp chỉ đạo, điều hành sâu sát và quyết liệt của Bộ, sự vào cuộc của các địa phương, sự phối hợp của các Bộ, ngành là nhân tố cơ bản để toàn ngành đạt được các mục tiêu của năm cao điểm.
Ngày 24/1/2017, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT Nguyễn Xuân Cường đã ký Quyết định số 235/QĐ-BNN-QLCL ban hành Kế hoạch Năm cao điểm hành động vệ sinh, an toàn thực phẩm trong lĩnh vực nông nghiệp năm 2017. Mục tiêu chính của kế hoạch là nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm; giảm thiểu ô nhiễm sinh học và tồn dư
4
hóa chất, kháng sinh trong sản xuất kinh doanh nông sản thực phẩm, đáp ứng yêu cầu về an toàn thực phẩm cho tiêu dùng trong nước và mở rộng thị trường xuất khẩu. Các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu là: Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách, pháp luật; Tiếp tục đẩy mạnh thông tin, truyền thông về an toàn thực phẩm; Tăng cường giám sát, kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm; Tổ chức sản xuất kết nối với tiêu thụ nông sản thực phẩm an toàn; Kiện toàn tổ chức lực lượng, nâng cao năng lực về quản lý an toàn thực phẩm.
Trong giai đoạn 2011 – 2016, công tác quản lý ATTP trong lĩnh vực nông nghiệp có chuyển biến tích cực nhưng vẫn còn bộc lộ nhiều tồn tại, bất cập. Việc thực hiện chính sách, quy định của pháp luật về ATTP ở nhiều địa phương còn hình thức, dàn trải, chưa đạt yêu cầu, chưa công khai và xử lý nghiêm các vụ việc vi phạm cũng như chưa tạo được động lực khuyến khích các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm an toàn; Lực lượng cán bộ quản lý nhà nước về ATTP còn thiếu về số lượng và hạn chế về chuyên môn; Công tác phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước về ATTP, nhất là tuyến cơ sở còn hạn chế.
Trong Bản tin Phục vụ Lãnh đạo số tháng 9 này, chúng tôi xin giới thiệu bài viết của Cục Quản lý Chất lượng Nông Lâm Thủy sản về tình hình thực thi chính sách, pháp luật về quản lý an toàn thực phẩm trong lĩnh vực nông nghiệp giai đoạn 2011 – 2016 và Kế hoạch Năm cao điểm hành động vệ sinh, an toàn thực phẩm trong lĩnh vực nông nghiệp năm 2017.
5
TÌNH HÌNH THỰC THI CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT VÀ QUẢN LÝ AN TOÀN THỰC PHẨM TRONG LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP GIAI ĐOẠN 2011-2016
Nguyễn Như Tiệp Cục Quản lý Chất lượng Nông Lâm sản và Thủy sản
Phần I
TÌNH HÌNH THỰC THI CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT
VỀ QUẢN LÝ AN TOÀN THỰC PHẨM
GIAI ĐOẠN 2011 - 2016
I. VIỆC TRIỂN KHAI, TỔ CHỨC THỰC HIỆN CHÍNH
SÁCH PHÁP LUẬT VỀ AN TOÀN THỰC PHẨM (ATTP)
1. Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật, xây dựng
cơ chế chính sách, tiêu chuẩn, qui chuẩn kỹ thuật về ATTP
Trong giai đoạn 2011-2016, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã phối hợp với các Bộ trình ban hành 03 Nghị định, 03 Quyết định của Thủ tướng, 04 đề án, 05 Thông tư liên tịch; trực tiếp ban hành 20 Thông tư quy định đầy đủ các nội dung thực thi Luật An toàn thực phẩm (ATTP) đầy đủ 19 nhóm ngành hàng thuộc phạm vi quản lý nhà nước về ATTP của ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Các văn bản qui phạm pháp luật ban hành trong giai đoạn 2011-2016 cơ bản phù hợp với chuẩn mực, thông lệ quốc tế theo
6
hướng quản lý ATTP từ vật tư đầu vào và toàn bộ chuỗi sản xuất, kinh doanh nông sản thực phẩm theo nguyên tắc quản lý rủi ro, phân loại cơ sở để tập trung nguồn lực kiểm soát cơ sở rủi ro cao, còn nhiều sai phạm; kiểm soát ATTP nông sản nhập khẩu từ gốc thông qua công nhận quốc gia, doanh nghiệp được phép xuất khẩu vào Việt Nam và kiểm tra ATTP tại cửa khẩu.
Bộ đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành một số cơ chế chính sách hỗ trợ sản xuất kinh doanh nông sản thực phẩm an toàn như Quyết định số 01/2012/QĐ-TTg; Quyết định số 62/2013/QĐ-TTg; Nghị định số 210/2013/NĐ-CP ngày 19/12/2013 về khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp.
Về tiêu chuẩn, qui chuẩn kỹ thuật: Đến 2016, Bộ đã đề nghị công bố 388 Tiêu chuẩn Việt Nam và ban hành 61 Qui chuẩn kỹ thuật quốc gia liên quan đến chất lượng, an toàn thực phẩm. Mặc dù về số lượng còn chưa đầy đủ nhưng về chất lượng đã tương đồng hoặc tiệm cận các chuẩn mực về ATTP của các tổ chức quốc tế và các nước có hệ thống quản lý ATTP tiên tiến tạo điều kiện cải thiện chất lượng, an toàn thực phẩm và đáp ứng quy định của các nước nhập khẩu.
2. Việc chỉ đạo điều hành của Bộ và công tác phối hợp liên
ngành
Trong giai đoạn 2011 - 2016, Bộ đã có nhiều giải pháp mới có
tính đột phá trong chỉ đạo, điều hành công tác ATTP:
- Thành lập Ban Chỉ đạo ATTP nông lâm thủy sản của Bộ do Bộ trưởng trực tiếp chỉ đạo. Ban Chỉ đạo duy trì họp định kỳ
7
hằng tháng để chỉ đạo các nhiệm vụ ưu tiên cấp bách về ATTP cần tập trung giải quyết;
- Lựa chọn 2 thành phố lớn (Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh) để chỉ đạo điểm Chương trình phối hợp phát triển các chuỗi cung ứng rau, thịt an toàn;
- Ban hành đầy đủ, kịp thời các Kế hoạch để triển khai chi tiết các luật, nghị định, chỉ thị trong đó phân công rõ nhiệm vụ cho từng cơ quan, đơn vị;
- Trong 6 năm liền từ 2011 - 2016, Bộ đưa nhiệm vụ quản lý chất lượng, ATTP là một trong những nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu, ban hành mỗi năm 05 Chỉ thị, Công điện, văn bản chỉ đạo về quản lý, kiểm tra, thanh tra ATTP.
- Từ năm 2016 Bộ đổi mới phương thức chỉ đạo theo hướng ban hành kế hoạch năm cao điểm hành động vệ sinh an toàn thực phẩm. Chỉ đạo đổi mới công tác thanh tra chuyên ngành theo hướng chuyển hướng mạnh sang thanh tra đột xuất, công khai đối tượng vi phạm để tăng hiệu quả răn đe.
- Chỉ đạo gắn kết chặt chẽ công tác đảm bảo ATTP vào xây dựng nông thôn mới và tái cơ cấu ngành nông nghiệp, trình Thủ tướng Chính phủ đưa tiêu chí an toàn thực phẩm vào Bộ tiêu chí xã nông thôn mới giai đoạn 2016-2020.
- Về quy hoạch: Bộ đã ban hành 25 Quy hoạch phát triển các sản phẩm chủ lực; trình Chính phủ 01 Quy hoạch tổng thể ngành nông nghiệp cả nước đến năm 2030, ban hành 02 quy hoạch phát triển vùng, 01 quy hoạch ứng dụng công nghệ cao,... thực hiện tái cơ cấu theo hướng phát triển các sản phẩm chủ lực quốc gia, sản phẩm chủ lực địa phương, sản xuất hàng hóa tập trung, đảm bảo
8
chất lượng, ATTP, nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững.
- Về kiện toàn tổ chức quản lý ATTP ở Trung ương: Bộ phân công Cục Quản lý Chất lượng Nông lâm sản và Thủy sản là cơ quan đầu mối và 02 Tổng Cục (Thủy sản, Lâm nghiệp), 05 Cục chuyên ngành (Thú y, Bảo vệ thực vật, Trồng trọt, Chăn nuôi, Chế biến Nông lâm thủy sản và Nghề muối quản lý ATTP 19 nhóm ngành hàng được giao và tại từng công đoạn sản xuất kinh doanh.
Bộ đặc biệt chú trọng kiện toàn hệ thống thanh tra chuyên ngành, đến nay tất các các Cục và Chi cục có liên quan đến quản lý ATTP đều có bộ phận tham mưu và đã cấp 1010 thẻ công chức được giao nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành.
- Công tác phối hợp liên ngành về quản lý ATTP ở Trung ương: Trong giai đoạn 2011 – 2015, Bộ Nông nghiệp & PTNT đã phối hợp ban hành 4 Thông tư liên tịch để xử lý các vấn đề liên ngành trong phân công, phối hợp quản lý ATTP; chủ trì 36 đoàn kiểm tra liên ngành về ATTP; phối hợp điều tra, xác minh các sự cố ATTP như: sử dụng chất cấm trong chăn nuôi, sử dụng hóa chất không rõ nguồn gốc trong bảo quản nông sản, thủy sản; vấn đề cá chết bất thường tại 4 tỉnh miền Trung,...
- Về đầu tư ngân sách cho quản lý an toàn thực phẩm: mặc dù đã được quan tâm tuy nhiên về mức đầu tư còn rất hạn chế so với mục tiêu được đặt ra trong Nghị quyết 34/2009/NQ-QH12 cũng như Chiến lược quốc gia về an toàn thực phẩm (kinh phí Bộ NN & PTNT được cấp để triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2011 - 2015 chỉ đạt 29,68% so với kế hoạch đề xuất) là khó khăn lớn.
9
II. KẾT QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT
VỀ ATTP TRONG SẢN XUẤT, KINH DOANH
1. Quản lý ATTP trong sản xuất, kinh doanh, vận chuyển,
bảo quản thực phẩm tươi sống
1.1. Trong sản xuất, kinh doanh, vận chuyển, bảo quản rau,
củ, quả tươi và sơ chế:
Theo số liệu báo cáo của các tỉnh, đến nay, đã có 43 tỉnh có quy hoạch vùng sản xuất rau an toàn, diện tích canh tác rau an toàn theo quy hoạch của các tỉnh/thành phố đến năm 2020 là 120.869 ha, 07 tỉnh có quy hoạch vùng sản xuất cây ăn quả an toàn.
Có khoảng 1.530 cơ sở sản xuất rau theo các tiêu chuẩn GAP với diện tích khoảng 12.687 ha. Đến tháng hết 12 năm 2016 số cơ sở được chứng nhận VietGAP đang còn hiệu lực như sau: 666 cơ sở sản xuất rau với 4.354,91 ha, 714 cở sở sản xuất quả với diện tích 12.614,92 ha.
Các Sở Nông nghiệp và PTNT ban hành 162 quy trình sản xuất rau an toàn phù hợp với điều kiện của địa phương, trong đó có 10 Quy trình sản xuất rau hữu cơ; 52 Sở Nông nghiệp và PTNT đã cấp Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện ATTP cho 651 cơ sở sản xuất, sơ chế rau với diện tích khoảng 7.212 ha.
Đã tiến hành kiểm tra đối với 54.750 lượt hộ nông dân sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, phát hiện 9.056 hộ vi phạm (chiếm 16,54%). Đã tiến hành thanh tra kiểm tra 2.064 đợt với 63.230 lượt cơ sở sản xuất, buôn bán thuốc BVTV, phát hiện và xử lý trên 7.434 cơ sở vi phạm (chiếm 11,7%).
Bộ đã phối hợp với lực lượng công an, biên phòng phát hiện hơn 40 vụ việc vi phạm về vận chuyển, buôn bán, sử dụng thuốc
10
BVTV nhập lậu, ngoài danh mục được phép sử dụng tại Việt Nam; đã thu giữ trên 7 tấn thuốc BVTV nhập lậu từ Trung Quốc, tổ chức tiêu hủy 5 tấn.
1.2. Trong chăn nuôi, giết mổ, vận chuyển, bày bán, kiểm dịch động vật, kiểm tra vệ sinh thú y đối với động vật và sản phẩm động vật
- Trong chăn nuôi:
Bộ đã triển khai nội dung tái cơ cấu tổ chức chăn nuôi theo các chuỗi liên kết trong sản xuất gắn doanh nghiệp chế biến tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi với các trại chăn nuôi hoặc thông qua các hợp tác xã đến các nông hộ chăn nuôi. Đẩy mạnh tổ chức triển khai áp dụng quy trình thực hành tốt trong chăn nuôi (VietGAHP) cho trên 11.230 hộ chăn nuôi (trên 100 trang trại chăn nuôi đã được công nhận).
Theo thống kê, cả nước có 215 nhà máy công nghiệp thức ăn chăn nuôi công suất trên 25 triệu tấn/năm và có khoảng trên 200 cơ sở chế biến thức ăn bổ sung hoặc tự phối trộn. Sản lượng thức ăn chăn nuôi công nghiệp sản xuất trong nước 17,5 triệu tấn và nhập khẩu trên 13 triệu tấn trong năm 2016 đều được công bố tiêu chuẩn chất lượng tối thiểu là 13 chỉ tiêu.
Việc kiểm tra chất lượng và ATTP đối với thức ăn chăn nuôi sản xuất trong nước và lưu hành trên thị trường do các cơ quan chuyên môn thuộc các Sở Nông nghiệp và PTNT phối hợp với quản lý thị trường ở các địa phương kiểm tra; Nguyên liệu và thức ăn chăn nuôi nhập khẩu được kiểm tra chất lượng trước thông quan.
Về kiểm soát chất cấm trong chăn nuôi: sau khi tình hình sử dụng chất cấm trong chăn nuôi tái trở lại vào quý 3 năm 2015
11
(với tỷ lệ các mẫu thức ăn có dương tính trên 5%, nước tiểu 16,5 % và mẫu thịt trên 4% ở khu vực các tỉnh phía Nam), Bộ đã chỉ đạo quyết liệt và huy động chính quyền các cấp phát động phong trào ký kết giao ước nói không với chất cấm cho trên 500 ngàn hộ, cơ sở chăn nuôi; tăng cường thanh, kiểm tra đột xuất những cơ sở kinh doanh thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y, cơ sở chăn nuôi và giết mổ có nguy cơ sử dụng chất cấm, xử lý nghiêm các vi phạm theo quy định của pháp luật và tuyên truyền rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng... Những biện pháp trên đã đem lại hiệu quả, tình hình sử dụng chất cấm trong chăn nuôi đã cơ bản được kiểm soát, trong các tháng 9,10,11/2016 cả nước không phát hiện mẫu dương tính với chất cấm trong chăn nuôi.
- Trong giết mổ: Theo số liệu thống kê, năm 2011 cả nước có 28.285 cơ sở giết mổ nhỏ lẻ và đến nay số cơ sở giết mổ nhỏ lẻ đã tăng lên 29.557 cơ sở (tính đến ngày 31/12/2015). Phần lớn các cơ sở giết mổ nhỏ lẻ này tự phát, không đăng ký kinh doanh, điều kiện cơ sở vật chất không đảm bảo yêu cầu về vệ sinh thú y, ATTP, không có hệ thống thu gom, xử lý chất thải và nước thải gây ô nhiễm môi trường. Tình trạng này dẫn đến công tác kiểm tra, đánh giá, phân loại theo Thông tư 45/2014/TT-BNNPTNT gặp nhiều khó khăn.
Cả nước đã có 56/63 (84,13%) tỉnh/thành phố đã phê duyệt Đề án quy hoạch cơ sở giết mổ động vật tập trung. Mặc dù, đề án quy hoạch chăn nuôi, giết mổ tập trung đã được trên 80% các tỉnh phê duyệt và có những chính sách trong việc khuyến khích đầu tư, quy hoạch xây dựng cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm, song một số địa phương còn chậm triển khai. Đến nay, cả nước mới có 910 cơ sở giết mổ tập trung trong đó: giết mổ gia súc (670 cơ sở); giết mổ gia cầm (152 cơ sở) và 88 cơ sở hỗn hợp. Trong đó, có
12
10 cơ sở giết mổ do cơ quan quản lý chuyên ngành Trung ương thực hiện kiểm soát giết mổ để xuất khẩu, các cơ sở này đã được đầu tư về cơ sở vật chất, trang thiết bị và áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng nên việc đảm bảo ATTP, vệ sinh thú y và bảo vệ môi trường khá tốt.
Các cơ sở giết mổ động vật để tiêu thụ nội địa do cấp tỉnh thực hiện công tác kiểm tra, đánh giá, phân loại và có cán bộ thú y thực hiện kiểm soát giết mổ. Tuy nhiên, ở phần lớn các cơ sở việc đảm bảo và duy trì vệ sinh thú y vẫn đang còn có nhiều bất cập và chủ yếu chỉ được đánh giá loại B theo Thông tư 45/2014/TT-BNNPTNT. Theo số liệu thống kê năm 2016, các tỉnh, thành phố đã tổ chức kiểm tra, đánh giá phân loại lần đầu và định kỳ 1600 cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm, trong đó đã có 65,4% cơ sở đạt loại B, có 8,9% cơ sở loại A, số cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm loại C đã giảm xuống còn 25,8% so với năm 2015 (52,9%).
Hiện nay, việc vận chuyển thịt gia súc, gia cầm trong nội tỉnh, hay tới các chợ truyền thống để kinh doanh chủ yếu được vận chuyển bằng các phương tiện thô sơ, thịt tiếp xúc trực tiếp với môi trường bên ngoài, tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm, mất vệ sinh ATTP. Một số thịt gia súc, gia cầm được vận chuyển bằng xe ô tô, có thùng kín nhưng không bảo đảm về nhiệt độ bảo quản. Việc vận chuyển thịt gia súc, gia cầm bằng phương tiện chuyên dụng còn rất ít, chủ yếu xuất phát từ các cơ sở giết mổ tập trung lớn cung cấp cho siêu thị, trường học, khu công nghiệp...
Hiện nay, có khoảng 3067/4736 chợ đã quy hoạch khu vực bán thịt gia súc, gia cầm trong chợ (chiếm 64,76%); 505 chợ đang triển khai quy hoạch; 1164 chưa triển khai quy hoạch khu vực riêng, thịt gia súc gia cầm thường được bán ở dạng tươi sống
13
ngoài chợ, sản phẩm được bày bán trên mặt bàn inox, bàn gỗ hoặc bàn ốp đá và hầu hết không được bảo quản trong điều kiện bảo đảm về nhiệt độ.
1.3. Trong nuôi trồng, đánh bắt, khai thác, chế biến thủy
sản và các sản phẩm thủy sản
- Về nuôi trồng, khai thác thủy sản:
Diện tích nuôi thủy sản năm 2015 là 1,278 triệu ha, sản lượng nuôi trồng thủy sản cả năm 2016 đạt trên 3,6 triệu tấn. Hiện nay, việc áp dụng quy phạm thực hành nuôi tốt (GAP) đang đươc triển khai nhân rộng trên phạm vi cả nước. Đến 30/11/2016, tổng số 201 giấy chứng nhận VietGAP trên diện tích 1.553 ha đã được cấp cho khoảng 350 cơ sở nuôi tôm, cá tra, rô phi, cá lóc, tôm càng xanh, lươn, cá song, cá điêu hồng, nuôi ghép các loài. Như vậy, sau 01 năm, diện tích VietGAP thủy sản được chứng nhận tăng 867 ha. Bên cạnh đó, công nghệ cao trong nuôi trồng thủy sản cũng đã được nhiều doanh nghiệp, tập đoàn lớn ứng dụng, đạt năng suất cao, như công nghệ thâm canh cá tra (đạt năng suất 300-350 tấn/ha/vụ), tôm thâm canh (10-12 tấn/ha/vụ). Một số doanh nghiệp cũng đã có công nghệ siêu thâm canh trong hệ nuôi tuần hoàn khép kín. Tỷ lệ cơ sở nuôi được kiểm tra năm 2015 đạt yêu cầu là 89,1% tăng so 2013 (66%).
Công tác quản lý chất lượng thức ăn, thuốc thú y, sản phẩm xử lý, cải tạo môi trường dùng trong nuôi trồng thủy sản được quan tâm, phối hợp với chính quyền các cấp tăng cường thanh tra, kiểm tra phát hiện, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật trong sản xuất, kinh doanh thức ăn, thuốc thú y, sản phẩm xử lý, cải tạo môi trường dùng trong nuôi trồng thủy sản.
Để ngành đánh bắt thủy sản phát triển bền vững, đảm bảo chất lượng, ATTP, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đặt mục 14
tiêu tăng số lượng tàu cá lớn, trên 90 CV để giảm lượng thủy sản đánh bắt gần bờ và tăng cường khai thác xa bờ. Đến năm 2015, số lượng tàu thuyền khai thác thủy sản còn 107.041 chiếc, trong đó tàu cá lắp máy có công suất từ 90 CV trở lên là 30.558 tàu (chiếm 28,54%). Sản lượng thủy hải sản khai thác vẫn được duy trì ở mức ổn định (từ năm 2011 đến năm 2015 tăng 3,89%). Công tác quản lý ATTP đối với tàu cá, cảng cá đã được quan tâm. Tỷ lệ tàu cá năm 2015 được kiểm tra đạt yêu cầu là 87,7% tăng so với năm 2013 (83%).
- Về chế biến thủy sản: Chế biến thủy sản tiếp tục phát triển mạnh mẽ trong giai đoạn 2011 - 2016. Các cơ sở chế biến thuỷ sản công nghiệp nhìn chung đã áp dụng công nghệ chế biến hiện đại, áp dụng hệ thống quản lý theo HACCP, ISO 22000, hiện có trên 600 cơ sở áp dụng HACCP được phép xuất khẩu vào các thị trường. Trong đó, có 415 nhà máy, cơ sở đạt tiêu chuẩn xuất khẩu trực tiếp vào EU, Mỹ, Nhật Bản và các thị trường khó tính khác. Tuy nhiên trên thực tế, một số mô hình chế biến thủ công, hàng khô… còn có điều kiện vệ sinh thấp, một số cơ sở lạm dụng chất bảo quản đã bị phát hiện và xử lý, kể cả tiêu thụ nội địa và xuất khẩu. Vẫn còn tình trạng các lô hàng thủy sản xuất khẩu bị trả về do nhiễm dư lượng hóa chất, kháng sinh. Năm 2015, có 116 lô hàng thủy sản xuất khẩu bị thị trường nhập khẩu cảnh báo không bảo đảm ATTP, giảm 24% so với năm 2014.
Thực tiễn hoạt động sản xuất, kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu thủy sản trong giai đoạn vừa qua diễn ra hết sức sôi động, việc kiểm soát sử dụng hóa chất, kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản đã cơ bản được duy trì trong nhiều năm, tỷ lệ mẫu thủy sản nhiễm dư lượng hóa chất, kháng sinh (đặc biệt là đối tượng sản xuất tập trung thâm canh, các đối tượng chủ lực) ở mức thấp
15
so với các nhóm ngành hàng khác. Tuy nhiên, do tính chất mùa vụ và diễn biến biến đổi khí hậu bất thường, bệnh thủy sản diễn biến phức tạp nên việc sử dụng hóa chất, kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản còn chưa ổn định và có thời điểm tăng cao. Một số nhóm kháng sinh cấm sử dụng trên thủy sản nhưng vẫn được phép sử dụng cho người và động vật trên cạn cũng là khó khăn trong kiểm soát.
2. Quản lý ATTP trong xuất khẩu, nhập khẩu thực phẩm
2.1. Trong xuất khẩu thực phẩm
Từ năm 2011 đến nay, Bộ đã tập trung giải quyết tương đối hiệu quả các rào cản kỹ thuật, giữ vững và mở rộng thị trường xuất khẩu, tháo gỡ kịp thời các khó khăn cho các doanh nghiệp xuất khẩu nông thủy sản đảm bảo ổn định xuất khẩu nông lâm thủy sản vào các thị trường truyền thống và khai thông một số thị trường mới. Bộ đã chỉ đạo đón tiếp và làm việc với hơn 50 đoàn thanh tra của các nước nhập khẩu đánh giá về hệ thống quản lý ATTP.
Bộ đã hỗ trợ doanh nghiệp giải quyết các rào cản kỹ thuật của các thị trường nhập khẩu, duy trì và mở rộng thêm thị trường mới (rau quả xuất khẩu sang trên 80 nước, thủy sản xuất khẩu sang trên 160 nước/vùng lãnh thổ).
Với các hoạt động giải quyết các rào cản của thị trường, tăng cường mở rộng thị trường xuất khẩu nêu trên của Bộ Nông nghiệp & PTNT đã góp phần tăng dần số lượng, sản lượng các sản phẩm nông sản chủ lực đi các thị trường trên thế giới, tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản tăng từ 25,1 tỷ USD năm 2011 lên 32,1 tỷ USD năm 2016. Để đạt được mức tăng trưởng xuất khẩu nông sản ấn tượng trong giai đoạn vừa qua có sự đóng góp hết sức quan trọng của công tác quản lý an toàn thực phẩm, giải quyết các rào cản vệ sinh an toàn thực phẩm của các thị trường 16
nhập khẩu, từ việc hài hòa hóa các quy định, tiêu chuẩn cho đến các hoạt động kiểm soát trên thực địa, đáp ứng yêu cầu của thị trường nhập khẩu.
2.2. Trong nhập khẩu thực phẩm
Thực hiện đổi mới phương thức kiểm soát thực phẩm nhập khẩu, Bộ đã ban hành các văn bản QPPL để kiểm soát từ gốc – từ nước xuất khẩu. Việc kiểm tra ATTP đối với hàng hóa có nguồn gốc thực vật nhập khẩu qui định tại Thông tư số 12/2015/TT- BNNPTNT ngày 16/3/2015. Việc kiểm tra ATTP đối với hàng hóa có nguồn gốc động vật nhập khẩu qui định tại Thông tư số 25/2010/TT-BNNPTNT ngày 08/4/2010 hướng dẫn việc kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm đối với hàng hóa có nguồn gốc động vật nhập khẩu. Bộ cũng đã chỉ đạo tổ chức 17 đoàn kiểm tra thực tế điều kiện đảm bảo VSATTP của các cơ sở, sản xuất, kinh doanh nông lâm thủy sản xuất khẩu sang Việt Nam.
- Về sản phẩm nguồn gốc thực vật:
Kết quả đã kiểm tra 272.570 lô có tổng trọng lượng là 18.539.794 tấn với hơn 50 loại mặt hàng nhập khẩu từ trên 60 quốc gia. Lấy 4.796 mẫu kiểm tra ATTP đối với hàng hóa có nguồn gốc thực vật nhập khẩu. Kết quả phát hiện 40 mẫu (chiếm 0,83%) vi phạm các chỉ tiêu về ATTP.
- Về sản phẩm có nguồn gốc động vật (bao gồm cả thủy sản):
Đến nay, có 45 nước với 5.712 cơ sở được xuất khẩu động vật và sản phẩm động vật vào Việt Nam. Tổng khối lượng động vật, sản phẩm động vật nhập khẩu (kể cả thủy sản) là 45.246 lô với trọng lượng 2.179.430 tấn, lấy 45.246 mẫu kiểm tra, phát hiện 357 mẫu (chiếm 0,79%) vi phạm các chỉ tiêu về ATTP.
17
Việc thay đổi phương thức kiểm soát ATTP đối với sản phẩm có nguồn gốc động vật, thực vật, thủy sản nhập khẩu thông qua việc đăng ký, kiểm tra từ gốc tại nước xuất khẩu để công nhận quốc gia, doanh nghiệp có hệ thống kiểm soát ATTP đáp ứng quy định xuất khẩu sản phẩm vào Việt Nam đã góp phần quan trọng trong việc kiểm soát an toàn thực phẩm nhập khẩu, đồng thời là rào cản kỹ thuật và công cụ đàm phán hiệu quả đối với các đối tác nước ngoài trong việc cân bằng cán cân thương mại hàng hóa nông sản. Tuy nhiên, việc kiểm soát nhập khẩu nông sản qua đường tiểu ngạch và biên giới trên đất liền, trên biển còn hết sức khó khăn nên một số nguồn nông sản nhập lậu không đảm bảo ATTP vẫn còn thẩm lậu vào thị trường nội địa gây bức xúc trong nhân dân.
3. Quản lý ATTP trong sản xuất, kinh doanh thực phẩm
3.1. Việc cấp Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện ATTP đối
với cơ sở chế biến, kinh doanh thực phẩm
Từ năm 2011, Bộ Nông nghiệp & PTNT đã ban hành Thông tư số 14/2011/TT-BNNPTNT ngày 29/03/2011 quy định việc kiểm tra, đánh giá cơ sở sản xuất kinh doanh vật tư nông nghiệp và sản phẩm nông lâm thủy sản (nay được thay thế bằng Thông tư số 45/2014/TT-BNNPTNT ngày 03/12/2014 quy định việc kiểm tra cơ sở sản xuất, kinh doanh vật tư nông nghiệp và kiểm tra, chứng nhận cơ sở sản xuất kinh doanh nông lâm thủy sản đủ điều kiện an toàn thực phẩm).
Trên cơ sở đó, Bộ chỉ đạo các địa phương tổ chức thống kê, kiểm tra, đánh giá phân loại các cơ sở sản xuất kinh doanh nông lâm thủy sản theo các mức độ đảm bảo an toàn thực phẩm (mức A, B, C) để phân loại rủi ro và tổ chức kiểm soát có hiệu quả; công khai kết quả phân loại và xử lý nghiêm theo quy định pháp
18
luật đối với cơ sở loại C không khắc phục sai lỗi, tái kiểm vẫn loại C; tập trung nguồn lực kiểm tra, giám sát, hướng dẫn cơ sở loại C nâng cấp điều kiện ATTP.
Trong giai đoạn 2011 - 2016, tổng số cơ sở được thống kê bởi các cơ quan TW và báo cáo của 57 tỉnh/thành phố là 82.178, trong đó 45.518 cơ sở sản xuất kinh doanh nông lâm thủy sản thuộc đối tượng phải cấp giấy, tính đến nay tổng số cơ sở đạt yêu cầu và được cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm là 26.342 (chiếm 58%).
Giai đoạn 2011 - 2016 đánh dấu một sự chuyển biến căn bản và toàn diện về tổ chức kiểm soát điều kiện đảm bảo an toàn thực phẩm cơ sở sản xuất kinh doanh trên cơ sở thống kê phân loại đánh giá và cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện an toàn thực phẩm, tuy nhiên, hoạt động này cũng gặp nhiều khó khăn do đối tượng sản xuất kinh doanh nông lâm thủy sản phần lớn là nhỏ lẻ, hoạt động theo mùa vụ không ổn định. Việc công khai kết quả xếp loại, và xử lý vi phạm đặc biệt đối với cơ sở xếp loại C được một số địa phương thực hiện chưa nghiêm túc nên chưa cung cấp kịp thời thông tin đến người tiêu dùng cũng như làm giảm hiệu quả răn đe trong việc thực hiện các biện pháp quản lý.
3.2. Việc quản lý ATTP đối với các cơ sở thuộc diện không
phải cấp Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện ATTP:
Bộ đã ban hành Thông tư 51/2014/TT-BNNPTNT ngày 27/12/2014 ban hành Quy định điều kiện bảo đảm ATTP và phương thức quản lý đối với các cơ sở sản xuất ban đầu nhỏ lẻ, là cơ sở không thuộc diện phải cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện ATTP. Theo Thông tư này, phương thức quản lý điều kiện bảo đảm ATTP đối với các cơ sở sản xuất ban đầu nhỏ lẻ được thực hiện thông qua việc tổ chức cho cơ sở ký cam kết tuân thủ
19
các quy định cơ bản đảm bảo an toàn thực phẩm và chính quyền cấp xã tổ chức kiểm tra và xử lý các cơ sở vi phạm cam kết.
Từ khi Thông tư 51/2014/TT-BNNPTNT có hiệu lực (tháng 2/2015) đến nay hầu hết các Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã tham mưu UBND tỉnh ban hành Quyết định về việc phân công cơ quan quản lý các cơ sở sản xuất ban đầu nhỏ lẻ trên địa bàn. Tuy nhiên, việc triển khai Thông tư 51 còn rất chậm, còn nhiều tỉnh chưa tổ chức thực hiện ký cam kết đối với cơ sở sản xuất ban đầu nhỏ lẻ. Tính đến nay, mới có khoảng 9060 cơ sở ký cam kết sản xuất thực phẩm an toàn, đã tổ chức kiểm tra việc thực hiện nội dung đã cam kết của các cơ sở sản xuất ban đầu nhỏ lẻ của 569 cơ sở, phát hiện 52 cơ sở chưa đạt yêu cầu.
Việc thực hiện phương thức quản lý đối với cơ sở sản xuất kinh doanh nhỏ lẻ là một khó khăn rất lớn trong thực trạng sản xuất kinh doanh nông lâm thủy sản Việt Nam (với số lượng trên 10 triệu hộ, diện tích canh tác bình quân nhỏ khoảng 0,3 ha/1 hộ). Để thực hiện quản lý đối tượng này đòi hỏi sự vào cuộc quyết liệt của chính quyền địa phương, đồng thời cũng đòi hỏi việc tiếp tục nghiên cứu, điều chỉnh phương thức quản lý cho phù hợp hơn với điều kiện thực tiễn theo nguyên tắc ngăn chặn nguy cơ an toàn thực phẩm ngay từ các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất.
3.3. Đối với thực phẩm chế biến thủ công, làng nghề và thực
phẩm chế biến công nghiệp
- Về thực phẩm chế biến thủ công, làng nghề:
Hiện nay chưa có thống kê đầy đủ, kết quả điều tra ước trên cả nước khoảng 500.000 cơ sở sản xuất chế biến thực phẩm (số liệu của Cục ATTP), trong đó chủ yếu là quy mô nhỏ, hộ gia đình, sản xuất theo mùa vụ và thủ công. Theo Luật ATTP việc quản lý đối với chế biến nhỏ lẻ là thuộc trách nhiệm của chính quyền địa 20
phương, quản lý dựa trên cam kết đảm bảo ATTP với chính quyền địa phương nhưng năng lực và nguồn lực cấp xã, phường rất hạn chế nên rất khó khăn trong quản lý an toàn thực phẩm.
Theo tổng hợp báo cáo của các tỉnh thành phố, đến nay cả nước có 1.860 làng nghề được công nhận, khoảng 60% làng nghề có quy mô nhỏ và vừa. Các cơ sở sản xuất, kinh doanh của làng nghề, phần lớn là các hộ gia đình (khoảng trên 80%), còn lại là các tổ sản xuất và hợp tác xã (khoảng 16%); số công ty và doanh nghiệp tư nhân khoảng 4%. Các làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm đã được quan tâm, chú ý tới vấn đề VSATTP, tuy vậy, thực tế hiện nay vẫn còn nhiều làng nghề không đáp ứng được an toàn thực phẩm (người sản xuất thiếu kiến thức về VSTP, nguyên liệu đầu vào cho chế biến, quá trình chế biến, đóng gói tiêu thụ sản phẩm không đảm bảo vệ sinh ATTP, không rõ nguồn gốc xuất xứ…).
Theo qui định cũ không có yêu cầu về tiêu chí “Đảm bảo chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm” khi xét công nhận làng nghề chế biến nông lâm thủy sản. Hiện Bộ đã đề nghị Chính phủ ban hành Quyết định số 1980/QĐ-TTg ngày 17/10/2016 về việc ban hành bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2020, trong đó đã bổ sung tiêu chí về an toàn thực phẩm khi công nhận xã nông thôn mới.
- Đối với thực phẩm chế biến công nghiệp:
Hiện cả nước có khoảng 1.700 nhà máy chế biến nông, lâm, thuỷ sản với quy mô công nghiệp. Nhìn chung, các nhà máy chế biến thực phẩm qui mô công nghiệp đều đáp ứng yêu cầu về an toàn thực phẩm, đầu tư thiết bị hiện đại, có cán bộ chuyên trách và hệ thống quản lý chất lượng an toàn thực phẩm.
Nhiều nhà máy và cơ sở chế biến nông, lâm, thuỷ sản đã áp dụng công nghệ chế biến hiện đại, áp dụng hệ thống quản lý theo 21
HACCP, ISO 22000; riêng chế biến thuỷ sản hiện có 645 cơ sở đạt quy chuẩn của Việt Nam, áp dụng HACCP. Trong đó, số cơ sở đạt tiêu chuẩn xuất khẩu trực tiếp vào EU, Hàn Quốc, Trung Quốc, Hàn Quốc, Liên minh kinh tế Á - Âu, Braxin, Argentina lần lượt là 467, 610, 612, 25, 142, 202 cơ sở.
3.7. Chợ đầu mối, đấu giá nông sản
Bộ Nông nghiệp & PTNT đã ban hành Thông tư số 24/2014/TT-BNNPTNT ngày 19/8/2014 Quy định về điều kiện đảm bảo an toàn thực phẩm đối với chợ đầu mối, đấu giá nông sản trong đó ban hành các tiêu chí về an toàn thực phẩm đối với chợ, các yêu cầu đối với các tổ chức quản lý chợ đầu mối, đấu giá nông sản;
Cả nước hiện có 157 chợ đầu mối nông lâm thủy sản (trong đó có 77 chợ nông sản đa ngành, 30 chợ đầu mối rau quả, 12 chợ đầu mối lúa gạo và 38 chợ đầu mối thủy sản). Trong thực tế, một số địa phương đã triển khai khá tốt việc quản lý ATTP tại các chợ đầu mối như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng bước đầu có mô hình xét nghiệm ATTP lưu động bằng test nhanh và xe chuyên dùng tại các chợ đầu mối. Tuy nhiên, việc quy hoạch các chợ đầu mối đấu giá nông sản ở nhiều địa phương chưa được quan tâm, chưa rõ đầu mối chịu trách nhiệm về ATTP tại chợ, việc kiểm soát xuất xứ hàng hóa trong chợ đầu mối còn khó khăn.
3.8. Đối với vật liệu bao gói, bao bì chứa đựng thực phẩm
Theo quy đinh tại Thông tư liên tịch 13/2014/TTLT-BYT- BNNPTNT-BCT ngày 09/4/2016 hướng dẫn việc phân công, phối hợp trong quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm, Bộ Y tế quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh dụng cụ, vật liệu bao gói, chứa
22
đựng thực phẩm; Bộ Nông nghiệp & PTNT quản lý đối với vật liệu bao gói, bao bì trong quá trình sản xuất nông lâm thủy sản.
Trong nội dung các quy chuẩn, tiêu chí đánh giá các cơ sở sản xuất kinh doanh nông lâm thủy sản do Bộ ban hành đều có các nội dung đánh giá việc chấp hành qui định ATTP đối với vật liệu bao gói chứa đựng thực phẩm.
Nhìn chung, thời gian vừa qua các cơ sở chế biến quy mô công nghiệp thực hiện các quy định về vật liệu bao gói và chứa đựng thực phẩm cơ bản là tốt, tuy nhiên đối với các cơ sở nhỏ lẻ, cơ sở sản xuất kinh doanh thực phẩm tươi sống việc yêu cầu vật liệu bao gói và bao bì chứa đựng thực phẩm phải là loại chuyên dụng trong điều kiện thực tế là không khả thi cần điều chỉnh cho phù hợp.
4. Quản lý ATTP đối với thực phẩm biến đổi gen
Bộ Nông nghiệp & PTNT đã ban hành Thông tư số 02/2014/TT-BNNPTNT ngày 24/1/2014 quy định trình tự, thủ tục cấp và thu hồi Giấy xác nhận thực vật biến đổi gen đủ điều kiện sử dụng làm thực phẩm, thức ăn chăn nuôi, phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành Thông tư liên tịch số 45/2015/TTLT-BNNPTNT-BKHCN ngày 23/11/2015 hướng dẫn ghi nhãn đối với thực phẩm biến đổi gen bao gói sẵn.
Đến nay, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã tiếp nhận và xử lý 45 hồ sơ đăng ký cấp giấy xác nhận thực vật biến đổi gen đủ điều kiện sử dụng làm thực phẩm, thức ăn chăn nuôi; đã cấp giấy xác nhận cho 20 hồ sơ đăng ký đối với cây đậu tương, ngô; đang xử lý 25 hồ sơ đăng ký đối với cây đậu tương, ngô, bông, cây cải dầu, cỏ linh lăng, củ cải đường. Việc kiểm tra ghi nhãn đối với thực phẩm biến đối gen bao gói sẵn cũng được các cơ quan chức
23
năng của Bộ kiểm tra, kết hợp với kiểm tra ATTP và kiểm dịch thực vật.
5. Việc kiểm soát các nguy cơ gây mất ATTP (phân tích nguy cơ, đánh giá nguy cơ, quản lý nguy cơ, xây dựng hệ thống cảnh báo nguy cơ đối với ATTP và truy xuất nguồn gốc thực phẩm, xử lý thực phẩm không an toàn)
tư
Bộ Nông nghiệp & PTNT đã ban hành Thông tư số 02/2013/TT-BNNPTNT ngày 05/01/2013 Quy định phân tích nguy cơ và quản lý an toàn thực phẩm theo chuỗi sản xuất kinh doanh nông lâm thủy sản và muối, Thông tư số 03/2011/TT- BNNPTNT ngày 21/01/2011 quy định về truy xuất nguồn gốc và thu hồi sản phẩm không đảm bảo chất lượng, ATTP trong lĩnh vực thuỷ sản; Thông tư 74/2011/TT-PTNT ngày 31/10/2011 quy định về truy xuất nguồn gốc, thu hồi và xử lý nông lâm sản thực phẩm không đảm bảo an toàn; Thông tư 08/2016/TT-BNNPTNT quy định giám sát ATTP nông lâm thủy sản; Thông tư số 31/2015/TT-BNNPTNT ngày 6/10/2015 Quy định về giám sát dư lượng các chất độc hại trong động vật và sản phẩm động vật thủy sản nuôi (trước đây là Quyết định số 130/2008/QĐ-BNN ngày 31/12/2008); Thông số 33/2015/TT-BNNPTNT ngày 8/10/2015 Quy định về giám sát vệ sinh, ATTP trong thu hoạch nhuyễn thể hai mảnh vỏ (trước đây là Quyết định số 131/2008/QĐ-BNN ngày 31/12/2008);
Để kiểm soát ATTP hiệu quả trong toàn bộ chuỗi sản xuất kinh doanh thực phẩm, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã chỉ đạo lập hồ sơ xác định các mối nguy an toàn thực phẩm cần tập trung kiểm soát trong sản xuất kinh doanh thực phẩm đối với một số nhóm sản phẩm có nguy cơ cao, đang có nhiều bức xúc trong dư luận xã hội về ATTP (rau, quả, thịt lợn, thịt gà, tôm nuôi, cá
24
nuôi) và tổ chức phổ biến, đào tạo đến cơ sở sản xuất kinh doanh và cơ quan chức năng.
Trong giai đoạn 2011 - 2016, Bộ tiếp tục duy trì các Chương trình giám sát ATTP đối với các vùng nuôi thủy sản tập trung trên phạm vi cả nước: Chương trình giám sát dư lượng các chất độc hại trong động vật và sản phẩm động vật thuỷ sản nuôi, Chương trình giám sát vệ sinh, an toàn trong thu hoạch nhuyễn thể hai mảnh vỏ; các Chương trình giám sát ATTP nông lâm thủy sản trong sản xuất, chế biến, lưu thông trên thị trường. Cụ thể như sau:
+ Chương trình giám sát dư lượng các chất độc hại trong động vật và sản phẩm động vật thuỷ sản nuôi: Chương trình được thực hiện từ năm 1999. Các loài thủy sản có sản lượng thương phẩm lớn tại các vùng nuôi thủy sản tập trung sẽ được lấy mẫu giám sát các chỉ tiêu tồn dư hóa chất kháng sinh, kim loại nặng, thuốc trừ sâu và thông báo kết quả hằng tháng. Năm 2015, Chương trình thực hiện giám sát tại 166 vùng nuôi thủy sản tập trung tại 38 tỉnh, thành phố trên phạm vi cả nước.
+ Chương trình giám sát vệ sinh, an toàn trong thu hoạch nhuyễn thể hai mảnh vỏ: Chương trình được thực hiện từ năm 1997, lấy mẫu giám sát các chỉ tiêu độc tố sinh học biển, vi sinh vật, kim loại nặng, thuốc trừ sâu và thông báo kết quả 2 tuần/lần. Năm 2015, Chương trình được thực hiện tại 20 vùng nhuyễn thể 2 mảnh vỏ thuộc 12 tỉnh/thành phố.
Hiện 02 chương trình nêu trên đã được các quốc gia nhập khẩu thủy sản nuôi và nhuyễn thể 2 mảnh vỏ công nhận, kể cả các nước có quy định nghiêm ngặt về vệ sinh ATTP như: Uỷ ban Châu Âu, Hoa Kỳ, Nhật Bản, New Zealand, Úc, Hàn Quốc…
25
+ Chương trình giám sát ATTP nông lâm thủy sản trong sản xuất, chế biến, lưu thông trên thị trường thực hiện theo chương trình mục tiêu quốc gia về vệ sinh ATTP từ 2011 - 2015 và từ năm 2015 đến nay đã tổ chức và thực hiện chương trình giám sát an toàn thực phẩm chuỗi cung ứng nông sản, thủy sản cho thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội và các tỉnh lân cận.
Do nguồn lực hạn chế nên hoạt động giám sát tập trung vào các sản phẩm, vấn đề gây bức xúc trong xã hội, cụ thể là tồn dư thuốc bảo vệ thực vật trong rau và chất cấm, kháng sinh trong thịt, thủy sản nhằm xác định mức độ vi phạm, đánh giá rủi ro để kịp thời cảnh báo, khoanh vùng, đối tượng cần tăng cường thanh tra, xử lý vi phạm.
Kế hoạch lấy mẫu kiểm nghiệm, giám sát trên diện rộng tồn dư thuốc bảo vệ thực vật và kháng sinh, chất cấm trong thịt, thủy sản được thiết kế theo hướng dẫn của Ủy ban Thực phẩm Quốc tế (CODEX) về giám sát tồn dư hóa chất, kháng sinh trong thực phẩm nông sản, thủy sản. Kết quả giám sát là cơ sở đánh giá nguy cơ về ATTP, đưa ra biện pháp quản lý và kiểm soát ATTP (kể cả quản lý yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất) và cơ chế phối hợp giữa các ban ngành liên quan, cảnh báo kịp thời, thu hồi sản phẩm không an toàn, áp dụng các biện pháp xử lý kịp thời.
Triển khai việc điều tra và truy xuất nguồn gốc sản phẩm nông sản không đảm bảo an toàn theo Thông tư số 74/2011/TT- BNNPTNT của Bộ Nông nghiệp và PTNT. Khi có sự cố không bảo đảm ATTP, Bộ đã chỉ đạo các đơn vị chức năng kiểm tra, xác minh, cung cấp thông tin kịp thời, đầy đủ, chính xác về các sự cố ATTP. Các sai phạm đã được xác minh, xử lý và hoạt động giám sát, kiểm tra sau đó của các địa phương đã được tăng cường nhằm ngăn chặn tái phạm.
26
- Kết quả giám sát trên diện rộng các sản phẩm nông lâm thủy sản của ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn giai đoạn 2011 - 2016 được thực hiện bởi các cơ quan trung ương cho thấy tỷ lệ mẫu rau, củ, quả tươi, sơ chế, thịt tươi các loại, thủy sản nuôi đáp ứng yêu cầu về VSATTP có xu hướng cải thiện, tuy nhiên sự cải thiện còn chậm, không ổn định và chưa bền vững.
6. Kiểm nghiệm thực phẩm
Trong giai đoạn 2011 – 2016, Bộ đã ban hành 04 Thông tư về quản lý hoạt động kiểm nghiệm thực phẩm2. Tính đến thời điểm báo cáo, có 32 phòng kiểm nghiệm thực phẩm được Bộ Nông nghiệp & PTNT chỉ định và duy trì được hiệu lực chỉ định, trong đó có 23 phòng kiểm nghiệm thuộc các cơ quan nhà nước (Bộ NN & PTNT, Bộ KHCN...) và 09 phòng kiểm nghiệm xã hội hóa. Quyết định chỉ định các phòng kiểm nghiệm an toàn thực phẩm có hiệu lực trong vòng 3 năm và mỗi năm đều có hoạt động đánh giá giám sát, những nội dung không đạt yêu cầu được phát hiện trong quá trình đánh giá giám sát sẽ ban hành quyết định đình chỉ hiệu lực nội dung tương ứng.
27
2Thông tư 16/2011/TT-BNNPTNT ngày 1/4/2011 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quy định về đánh giá, chỉ định và quản lý phòng thử nghiệm ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn, Thông tư số 54/2011/TT- BNNPTNT ngày 3/8/2011 Yêu cầu năng lực phòng thử nghiệm về chất lượng, an toàn thực phẩm Nông lâm thủy sản và muối, Thông tư số 55/2012/TT- BNNPTNT ngày 31/10/2012 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn thủ tục chỉ định tổ chức chứng nhận hợp quy và công bố hợp quy thuộc phạm vi quản lý của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Thông tư liên tịch 20/2013/TTLT-BYT-BCT-BNNPTNT ngày 1/8/2013 của Bộ Y tế - Bộ Công Thương – Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn qui định điều kiện, trình tự thủ tục chỉ định cơ sở kiểm nghiệm thực phẩm phục vụ quản lý nhà nước
Các phòng kiểm nghiệm này ở các cấp độ khác nhau đều đã được đầu tư máy móc, thiết bị hiện đại; một số phòng kiểm nghiệm được trang bị máy móc thiết bị tương đương với các nước thuộc nhóm đầu ở ASEAN để phân tích được hầu hết các chỉ số về ATTP theo qui định quốc tế như: Sắc ký khối phổ phân giải cao phân tích Dioxin; thiết bị đo hàm lượng phóng xạ; quang phổ phát xạ khối phổi phân tích kim loại nặng; sắc khí lỏng, sắc khí ký khối phổ phân tích tồn dư thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y, hooc môn, phụ gia thực phẩm; thiết bị PCR thời gian thực phân tích thực phẩm biến đổi gien…. Cơ chế hoạt động chủ yếu của các phòng kiểm nghiệm được chỉ định là cung cấp dịch vụ và thu phí để duy trì hoạt động. Cán bộ, nhân viên các phòng kiểm nghiệm đều đã được đào tạo trong và ngoài nước. Các thành phố lớn như Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh đã triển khai đầu tư một số xe kiểm nghiệm nhanh phục vụ kiểm tra, thanh tra về ATTP.
Mặc dù số lượng các phòng kiểm nghiệm thực phẩm khá nhiều nhưng lại phân bố không đều, tập trung chủ yếu tại các tỉnh, thành phố lớn dẫn đến tình trạng các tỉnh vùng sâu, vùng xa, biên giới còn phải gửi mẫu phân tích về các tỉnh thành phố lớn không đảm bảo về thời gian kiểm nghiệm phục vụ công tác quản lý ATTP tại địa phương. Trong thời gian tới, đề nghị Chính phủ có chính sách ưu tiên thu hút đầu tư một số phòng kiểm nghiệm thực phẩm tại các tỉnh vùng sâu, vùng xa, biên giới.
7. Công tác thông tin, giáo dục truyền thông, phổ biến
chính sách pháp luật về ATTP
Hằng năm, Bộ đều xây dựng kế hoạch tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật. Việc phổ biến văn bản QPPL, quy định của thị trường nhập khẩu tới doanh nghiệp, cơ quan quản lý nhà nước
28
liên quan được thực hiện kịp thời, thông qua tổ chức các hội nghị phổ biến ngay sau khi văn bản được ban hành; đăng tải trên website của Bộ.
Năm 2011, Bộ đã phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương tổ chức 04 hội nghị phổ biến Luật ATTP, các văn bản quy phạm pháp luật, quy định mới về ATTP nông lâm thủy sản tại 4 tỉnh, thành phố cho trên 300 cán bộ tuyên giáo các cấp.
Năm 2012 - 2013, Bộ đã chủ trì, phối hợp với Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam tổ chức 06 Hội thảo tập huấn cán bộ của các tỉnh hội về tuyên truyền vận động sản xuất kinh doanh an toàn; hoàn thiện, xuất bản tài liệu tuyên truyền vận động và triển khai thí điểm tại một số địa phương trọng điểm; đã phối hợp với Đoàn thanh niên cơ quan Bộ Nông nghiệp và PTNT xây dựng và tổ chức tuyên truyền, phát tờ rơi về đảm bảo ATTP tới các cơ sở sản xuất, các hộ kinh doanh thực phẩm nông lâm thủy sản.
Đặc biệt, từ năm 2015 đến nay, công tác thông tin, truyền thông về vệ sinh ATTP ngày càng được tăng cường về quy mô, số lượng. Trong đợt cao điểm hành động về vệ sinh ATTP năm 2015, Bộ đã phối hợp phát sóng các clip truyền thanh, truyền hình chuyển tải các thông điệp ngắn về đảm bảo ATTP trong sản xuất, kinh doanh nông sản, thủy sản an toàn và quảng bá, giới thiệu các chuỗi cung cấp nông sản, thủy sản an toàn có xác nhận; xây dựng và gửi đến địa phương cấp phát đến từng nhóm đối tượng 04 loại tờ rơi tuyên truyền về đảm bảo ATTP trong trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản và tiêu dùng thực phẩm an toàn; tổ chức họp báo, mời các cơ quan báo chí tham gia Đoàn thanh tra đột xuất để kịp thời thông tin kết quả thanh tra...
29
Bộ đã chỉ đạo Trung tâm xúc tiến thương mại nông nghiệp tổ chức các hội chợ, phiên chợ hằng tháng giới thiệu, quảng bá các sản phẩm an toàn, các chuỗi cung ứng nông sản thực phẩm an toàn.
Đã phối hợp với Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình Việt Nam ký Chương trình phối hợp tuyên truyền về ATTP giai đoạn 2016 - 2020; tiếp đó đã phối hợp với VTV 24 thực hiện các phóng sự giới thiệu chuỗi cung ứng nông sản thực phẩm an toàn trên chuyên mục "Nói không với thực phẩm bẩn"; phối hợp với Ban Thời sự - Đài Truyền hình Việt Nam, Ngân hàng Agribank xây dựng và phát sóng hằng ngày chương trình truyền thông, quảng bá “Nông nghiệp sạch cho người Việt Nam cho Thế giới”.
Phối hợp với Báo Nông thôn Ngày nay cập nhật danh sách địa chỉ bán sản phẩm nông lâm thủy sản an toàn đã được kiểm soát theo chuỗi tại “Địa chỉ xanh – Nông sản sạch” và tổ chức Lễ ký cam kết cung ứng nông sản thực phẩm an toàn với top 15 doanh nghiệp có hệ thống phân phối lớn nông sản thực phẩm; với Báo Nông nghiệp giới thiệu quảng bá các mô hình sản xuất, các chuỗi cung ứng nông sản thực phẩm an toàn trên chuyên mục “Chuỗi thực phẩm an toàn – từ sản xuất đến bàn ăn”. Ngoài ra, đã cung cấp thông tin cho các báo, đài viết trên 1500 tin, bài, phóng sự về công tác quản lý của Bộ, ngành về ATTP.
Ngoài ra, Bộ cũng đã chỉ đạo tổ chức thực hiện tốt Chương trình phối hợp vận động và giám sát bảo đảm ATTP giai đoạn 2016 - 2020 ký kết giữa Chính phủ và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc theo nhiệm vụ được giao.
8. Quản lý hoạt động thông tin, quảng cáo thực phẩm
Về hoạt động quảng cáo thực phẩm thực hiện theo Thông tư 75/2011/TT-BNNPTNT ngày 31/10/2016 quy định về đăng ký và 30
xác nhận nội dung quảng cáo thực phẩm thuộc lĩnh vực quản lý của Bộ NN & PTNT. Cục Quản lý Chất lượng Nông Lâm sản và Thủy sản là cơ quan thường trực tiếp nhận hồ sơ, tổ chức xử lý, thẩm định hồ sơ, thông báo kết quả thẩm định và xác nhận nội dung quảng cáo thực phẩm cho các cơ sở theo quy định trong Thông tư này.
Tổng số hồ sơ tiếp nhận tại Bộ Nông nghiệp & PTNT từ năm 2011 đến nay là 54 hồ sơ và cấp xác nhận nội dung quảng cáo cho 43 hồ sơ; các sản phẩm chủ yếu là trà, cà phê, xúc xích; nước tương, súp, nấm, trái cây; nước mắm.
Tổng số hồ sơ xin cấp tại 57/63 tỉnh thành, phố có báo cáo về là 739 hồ sơ về sản phẩm nông lâm thủy sản và đã cấp xác nhận nội dung quảng cáo cho 713 hồ sơ (chiếm 96% tổng hồ sơ xin cấp).
9. Việc kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật về
ATTP
Từ năm 2011 - 2016, hoạt động kiểm tra điều kiện vệ sinh ATTP cơ sở sản xuất nông, lâm, thủy sản vẫn được duy trì. Ở cấp Trung ương, hằng năm, các đơn vị thuộc Bộ thực hiện trung bình hơn 2.000 lượt kiểm tra điều kiện đảm bảo vệ sinh ATTP các cơ sở chế biến nông, thủy sản.
Đối với địa phương, việc triển khai Thông tư 14/2011/TT- BNNPTNT (nay là Thông tư 45/2014/TT-BNNPTNT) đã góp phần tăng dần tỷ lệ cơ sở sản xuất kinh doanh nông, thủy sản được kiểm tra đạt yêu cầu về điều kiện đảm bảo vệ sinh, ATTP qua các năm, từ 69,7% năm 2011 lên 81,3% năm 2015 và lên 91% năm 2016; tỷ lệ cơ sở sản xuất kinh doanh nông lâm thủy sản xếp loại C được tái kiểm tra và nâng hạng A, B là 57%, tăng 111,9% so với năm 2015 (26,8%). Việc công khai các cơ sở xếp loại A, B, C trên website của Sở NN & PTNT và các phương tiện 31
thông tin đại chúng như báo, đài địa phương đã được thực hiện tại một số địa phương. Việc xử lý theo qui định của pháp luật đối với các cơ sở tái kiểm vẫn xếp loại C đang được các địa phương chú trọng thực hiện.
Hằng năm, Bộ đã tổ chức khoảng 6 - 10 đoàn thanh tra, kiểm tra liên ngành tại 63 tỉnh/thành phố nhân dịp Tết Nguyên đán, Tháng hành động về VSATTP và Tết Trung thu do Ban chỉ đạo liên ngành TW về chất lượng, ATTP phát động; chỉ đạo, tổ chức các đoàn thanh tra theo kế hoạch và đột xuất các cơ sở sản xuất, kinh doanh vật tư nông nghiệp và nông lâm thủy sản với trọng tâm là kiểm soát, ngăn chặn sử dụng chất cấm và lạm dụng hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, phụ gia thực phẩm.
Trong giai đoạn 2011 - 2016, các cơ quan thuộc Bộ đã tổ chức thanh, kiểm tra hàng chục nghìn lượt cơ sở sản xuất kinh doanh vật tư nông nghiệp, nông lâm thủy sản theo kế hoạch và đột xuất; kết quả đã xử phạt tiền 17.007 cơ sở với tổng số tiền phạt là 86,23 tỷ đồng; mức phạt trung bình 01 cơ sở trong lĩnh vực quản lý chất lượng VTNN, ATTP từ 1,88 triệu đồng năm 2011 lên đến 25 triệu đồng năm 2016.
Đặc biệt năm 2015, 2016 Bộ tổ chức 02 đợt cao điểm thanh, kiểm tra đấu tranh đẩy lùi đi đến chấm dứt việc sử dụng chất cấm trong chăn nuôi, ngăn chặn, lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật trong trồng trọt và thuốc thú y, hóa chất, kháng sinh trong chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản. Kết quả như sau:
- Về chất cấm trong chăn nuôi: đã phát hiện 08/15 công ty sử dụng chất cấm Salbutamol và chất phẩm màu công nghiệp, ban hành 17 Quyết định xử phạt vi phạm hành chính với số tiền 2,6 tỷ đồng nộp ngân sách nhà nước; buộc tiêu hủy chất cấm và thức ăn
32
có chất cấm, đình chỉ sản xuất các công ty có sử dụng chất cấm là 01 tháng; trực tiếp phối hợp với địa phương (TP. Hồ Chí Minh, Tiền Giang, Vĩnh Long, Hải Phòng, Hưng Yên, Hà Nội) tiến hành xử lý, xử phạt và tiêu hủy các đàn heo có sử dụng chất cấm trong chăn nuôi. Nhờ sự đấu tranh quyết liệt của các cấp trung ương và địa phương đã góp phần làm giảm tỷ lệ mẫu thịt tươi vi phạm chất cấm Salbutamol 11 tháng đầu năm 2016 xuống 0,44%, giảm so với năm 2015 (1,07%), đặc biệt trong 04 tháng gần đây (từ tháng 7 - 11/2016) không phát hiện Salbutamol trong các mẫu thịt kiểm nghiệm.
- Về kiểm soát hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y trong chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản: đã tiến hành thanh tra 45 công ty sản xuất, kinh doanh, nhập khẩu nguyên liệu kháng sinh, đình chỉ có thời hạn hoạt động nhập khẩu nguyên liệu kháng sinh đối với 5 công ty, rút chứng chỉ hành nghề 02 công ty, xử phạt hành chính 26 công ty với số tiền 1,65 tỷ đồng. Đã xác lập hành vi vi phạm đối với gần 200 đối tượng là các công ty sản xuất nhỏ, đại lý kinh doanh vật tư nông nghiệp, trang trại chăn nuôi, cơ sở nuôi trồng thủy sản… xử phạt số tiền 425 triệu đồng. Hành vi vi phạm chủ yếu: bán sai đối tượng, sử dụng nguyên liệu kháng sinh không đúng mục đích, cơ sở chưa đủ điều kiện sản xuất thuốc thú y, mua bán và sử dụng kháng sinh cấm…
- Về kiểm soát việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật trong trồng
trọt:
Năm 2016, Bộ đã phối hợp với các cơ quan chức năng, lực lượng công an thành lập các đoàn thanh tra hoạt động sản xuất kinh doanh thuốc bảo vệ thực vật tại một số tỉnh trong cả nước. Kết quả đã xử phạt vi phạm hành chính 50 công ty với số tiền 910 triệu đồng; đình chỉ hoạt động sản xuất đối với 03 Công ty
33
không có giấy phép sản xuất; buộc tiêu hủy các sản phẩm vi phạm với số lượng lớn. Hành vi vi phạm chủ yếu là sản xuất, kinh doanh thuốc bảo vệ thực vật ngoài danh mục, thuốc kém chất lượng, thuốc giả; nhập lậu; chưa có giấy phép đủ điều kiện sản xuất….
Trong giai đoạn 2011 – 2016, theo báo cáo của 55 tỉnh/thành phố đã tổ chức được 68.998 cuộc kiểm tra về an toàn thực phẩm theo kế hoạch đối với 206.671 lượt cơ sở sản xuất, kinh doanh sản phẩm nông lâm thủy sản; trong đó: xử phạt cảnh cáo 18.495 cơ sở (chiếm 9%); xử phạt tiền 8.007 cơ sở (chiếm 4%) với tổng số tiền phạt là 27.476 triệu đồng; tổ chức được 1.054 cuộc thanh, kiểm tra đột xuất về an toàn thực phẩm đối với 7.659 lượt cơ sở sản xuất, kinh doanh sản phẩm nông lâm thủy sản; trong đó: xử phạt cảnh cáo 1.140 cơ sở (chiếm 15%); xử phạt tiền 1029 cơ sở (chiếm 13%) với tổng số tiền phạt là 3.999 triệu đồng. Tuy nhiên, mức phạt trung bình 01 cơ sở trong lĩnh vực quản lý chất lượng VTNN, ATTP từ 1 triệu đồng năm 2011 lên đến 4 triệu đồng năm 2016 thấp hơn mức xử phạt tại các cơ quan trung ương.
Nhìn chung, công tác thanh tra, kiểm tra hằng năm đã được trung ương và địa phương chú trọng triển khai. Kết quả thanh, kiểm tra góp phần quan trọng chấn chỉnh tình trạng đảm bảo ATTP, ngăn chặn có hiệu quả việc lạm dụng chất cấm trong chăn nuôi, thuốc bảo vệ thực vật trong trồng trọt và thuốc thú y, hóa chất, kháng sinh trong chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của người sản xuất kinh doanh về ATTP.
10. Xã hội hóa công tác quản lý ATTP
Từ năm 2008, Bộ đã thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt động kiểm nghiệm. Trong giai đoạn 2011 - 2016, Bộ đã ban hành
34
06 Thông tư để đẩy mạnh xã hội hóa dịch vụ kỹ thuật phục vụ quản lý an toàn thực phẩm3. Cho đến nay, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã xã hội hóa được 28 tổ chức chứng nhận, 33 phòng kiểm nghiệm về chất lượng vật tư nông nghiệp, an toàn thực phẩm ngoài ngành nông nghiệp.
III. ĐÁNH GIÁ VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH,
PHÁP LUẬT VỀ ATTP GIAI ĐOẠN 2011 - 2016
1. Những kết quả đạt được và bài học kinh nghiệm
Với sự nỗ lực của toàn ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn, công tác quản lý nhà nước về ATTP của ngành giai đoạn 2011 - 2016 đã có những cải thiện đáng kể trên các mặt sau:
- Hệ thống văn bản qui phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật ATTP, Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa, Luật Bảo vệ và kiểm dịch thực vật, Luât Thú y đã được Bộ Nông nghiệp và PTNT chủ trì xây dựng trình ban hành và ban hành theo thẩm quyền đầy đủ, phủ kín các đối tượng công đoạn trong chuỗi giá trị sản phẩm, kịp thời (không nợ văn bản hướng dẫn thi hành) đảm bảo tính thống nhất, cơ bản đồng bộ, đáp ứng được yêu cầu
35
3Thông tư 16/2011/TT-BNNPTNT ngày 1/4/2011 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quy định về đánh giá, chỉ định và quản lý phòng thử nghiệm ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn, Thông tư số 54/2011/TT- BNNPTNT ngày 3/8/2011 Yêu cầu năng lực phòng thử nghiệm về chất lượng, an toàn thực phẩm Nông lâm thủy sản và muối, Thông tư số 55/2012/TT- BNNPTNT ngày 31/10/2012 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn thủ tục chỉ định tổ chức chứng nhận hợp quy và công bố hợp quy thuộc phạm vi quản lý của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Thông tư liên tịch 20/2013/TTLT-BYT-BCT-BNNPTNT ngày 1/8/2013 của Bộ Y tế - Bộ Công Thương – Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn qui định điều kiện, trình tự thủ tục chỉ định cơ sở kiểm nghiệm thực phẩm phục vụ quản lý nhà nước.
quản lý nhà nước về ATTP trên toàn chuỗi sản xuất, kinh doanh thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ. Trong đó, có những đổi mới quan trọng như: thay đổi phương thức kiểm tra cơ sở sản xuất kinh doanh vật tư nông nghiệp và nông lâm thủy sản từ bị động sang kiểm tra chủ động, có hệ thống, có phân loại trên đánh giá rủi ro, phân loại cơ sở để tập trung nguồn lực kiểm soát; chuyển hướng kiểm tra ATTP nhập khẩu ngay từ gốc đối với cả thực phẩm có nguồn gốc động vật và thực phẩm có nguồn gốc thực vật. Đặc biệt, khi ban hành văn bản Bộ đã chú trọng khảo sát đánh giá thực tiễn và các đối tượng thực thi để đảm bảo nguồn lực để triển khai cũng như tính phù hợp, khả thi với điều kiện sản xuất, kinh doanh ở nước ta hiện nay.
- Hệ thống qui chuẩn, tiêu chuẩn và qui trình, qui định kỹ thuật đã được xây dựng, ban hành cơ bản phù hợp với chuẩn mực, thông lệ quốc tế góp phần đổi mới nâng cao hiệu quả công tác quản lý ATTP, vượt qua các rào cản ATTP của thị trường, thúc đẩy xuất khẩu nông sản.
- Hầu hết các tỉnh đã phê duyệt quy hoạch giết mổ, sản xuất
rau quả an toàn và bước đầu đã phát triển VietGAP.
- Hệ thống cơ chế chính sách hỗ trợ, tạo động lực cho người dân, doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất kinh doanh nông sản thực phẩm chất lượng, an toàn đã được ban hành và bước đầu phát huy vai trò trong thực tiễn như Nghị định số 210/2013/NĐ-CP của Chính phủ về chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; Quyết định số 62/2013/QĐ-TTg ngày 25/10/2013 về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản, xây dựng cánh đồng lớn...; nhiều doanh nghiệp đã đầu tư vào nông nghiệp như: Vingroup, TH True Milk, Vinamilk, Dabaco...
36
- Bộ máy tổ chức quản lý nhà nước về ATTP của ngành từng bước được kiện toàn từ Trung ương đến địa phương, có sự phân công, phân cấp trách nhiệm rõ giữa Bộ và địa phương, hệ thống thanh tra chuyên ngành về ATTP được chú trọng và tăng cường năng lực nên đã phát huy hiệu lực và hiệu quả trong công tác quản lý chất lượng ATTP.
- Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật được đổi mới theo hướng tiếp cận trực tiếp đến đối tượng với nhiều hình thức phong phú đa dạng, tuyên truyền trên hệ thống thông tin cơ sở cấp xã, phường và trên sóng phát thanh truyền hình vào khung giờ thích hợp với nội dung được biên soạn chuyên biệt cho từng nhóm đối tượng đã tạo chuyển biến tích cực trong thay đổi hành vi của người sản xuất, kinh doanh. Việc kết hợp giữa tuyên truyền mang tính chất khuyến khích hướng dẫn với tuyên truyền răn đe (hình phạt hành chính hình sự đối với hành vi vi phạm về an toàn thực phẩm) cũng là một kinh nghiệm cần phát huy trong công tác truyền thông về an toàn thực phẩm.
- Công tác kiểm tra, thanh tra chuyên ngành phát huy hiệu quả do được chú trọng đầu tư tăng cường năng lực và đổi mới phương thức tổ chức thực hiện theo hướng từ thanh tra theo kế hoạch là chủ yếu sang thanh tra, kiểm tra đột xuất là chủ yếu; tổ chức các đợt thanh tra, kiểm tra cao điểm theo chuyên đề dựa trên đánh giá rủi ro và diễn biến của thực tiễn sản xuất, kinh doanh... đã giải quyết dứt điểm nhiều vấn đề bức xúc kéo dài nhiều năm như sử dụng chất cấm trong chăn nuôi, lạm dụng hóa chất kháng sinh trong chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản...
- Thực trạng đảm bảo an toàn thực phẩm nông sản từng bước được cải thiện trên tất cả các nhóm ngành hàng thuộc phạm vi quản lý của Bộ Nông nghiệp và PTNT. Điều kiện VSATTP tại
37
các cơ sở sản xuất kinh doanh nông lâm thủy sản được cải thiện hơn. Diện tích trồng rau an toàn, chăn nuôi quy mô trang trại, tăng dần theo từng năm. Ô nhiễm vi sinh vật và hóa chất trong một số sản phẩm thực phẩm tươi sống có chiều hướng giảm;tỷ lệ cơ sở được xếp loại A, B được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện ATTP tăng nhanh. Những kết quả đó đã góp phần quan trọng xây dựng, phát triển nông nghiệp bền vững, đẩy mạnh xuất khẩu nông sản.
- Các mô hình xã hội hóa đã được nhân rộng, nhiều phòng kiểm nghiệm đã được đầu tư nâng cấp hiện đại đáp ứng tiêu chuẩn ISO 17025, đáp ứng nhu cầu nhà nước, cung ứng dịch vụ công cho xã hội.
- Chế biến xuất khẩu nông sản phát triển mạnh mẽ đáp ứng yêu cầu của các thị trường lớn khó tính; tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản tăng từ 25,1 tỷ USD năm 2011 lên 32,1 tỷ USD năm 2016 chứng tỏ năng lực và khả năng sản xuất kinh doanh thực phẩm an toàn của Việt Nam.
Qua quá trình triển khai công tác quản lý an toàn thực phẩm giai đoạn 2011 –2016, Bộ nhận thấy cần tổng kết một số bài học kinh nghiệm trong việc tổ chức chỉ đạo triển khai để nghiên cứu phát huy, nhân rộng trong thời gian tới, cụ thể như sau:
(1) Kịp thời cụ thể hóa các chủ trương chính sách của Đảng, Quốc hội, Chính phủ thành các chương trình hành động cụ thể có phân công trách nhiệm thực hiện rõ ràng cho các ngành, các cấp, đồng thời, phải xác định được các giải pháp tổ chức triển khai sát với điều kiện thực tiễn của Việt Nam nhằm đảm bảo tính khả thi của các chính sách, giải pháp quản lý an toàn thực phẩm.
(2) Đổi mới công tác chỉ đạo điều hành là một trong những yếu tố quan trọng có vai trò quyết định đến kết quả của công tác 38
quản lý an toàn thực phẩm là việc thiết kế phương thức quản lý phù hợp và tương thích với thực tiễn sản xuất kinh doanh và trình độ phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam. Trong giai đoạn 2011 - 2016, Bộ đã kịp thời có những điều chỉnh về phương thức quản lý và áp dụng các biện pháp thực thi như tổ chức thống kê, đánh giá, phân loại cơ sở sản xuất kinh doanh để kiểm soát theo mức độ rủi ro, kiểm soát từ gốc đối với thực phẩm nhập khẩu, chuyển mạnh từ thanh, kiểm tra theo kế hoạch sang thanh kiểm tra đột xuất, ngăn chặn nguy cơ an toàn thực phẩm ngay từ gốc (nguồn cung ứng nguyên liệu kháng sinh, ngăn chặn đưa hóa chất công nghiệp vào thức ăn chăn nuôi...). Những chuyển hướng đó đã góp phần quan trọng để đạt được các kết quả nêu trên và duy trì các kết quả đó trong thời gian tới.
(3) Sự vào cuộc quyết liệt của tất cả các cấp trong ngành nông nghiệp phát triển nông thôn, trong đó, đặc biệt coi trọng vai trò của chính quyền địa phương trong việc đưa chính sách pháp luật vào cuộc sống, quan tâm chỉ đạo và bố trí nguồn lực cho lực lượng quản lý, tuyên truyền giáo dục pháp luật và giám sát ngay tại cơ sở, đặc biệt là huy động vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên như Hội Nông dân, Hội phụ nữ, Hội Cựu chiến binh,... Việc Thủ tướng ban hành kịp thời Chỉ thị số 13/CT-TTg ngày 09/5/2016 về tăng cường trách nhiệm quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm ngay đầu nhiệm kỳ của Chính phủ mới trong đó chỉ đạo kiện toàn Ban Chỉ đạo liên ngành vệ sinh an toàn thực phẩm tại các tỉnh/thành phố do Chủ tịch UBND các tỉnh/thành phố làm trưởng ban là yếu tố quan trọng, tác động trực tiếp và mạnh mẽ đến tăng cường hiệu quả hoạt động quản lý an toàn thực phẩm nông lâm thủy sản từ trung ương đến địa phương.
39
(4) Tăng cường phối hợp liên ngành là nhân tố nâng cao hiệu quả quản lý: Quản lý an toàn thực phẩm là nhiệm vụ có liên quan đến trách nhiệm quản lý của nhiều ngành nhiều cấp, vì vậy sự phối hợp liên ngành có vai trò quan trọng đến hiệu quả quản lý; nhờ đẩy mạnh sự phối hợp liên ngành nên nhiều vấn đề bức xúc trong an toàn thực phẩm đã được giải quyết dứt điểm như: phối hợp liên ngành nông nghiệp, công thương, công an, bộ đội biên phòng trong kiểm soát gia cầm nhập lậu; phối hợp liên ngành nông nghiệp, công an, y tế trong kiểm soát chất cấm trong chăn nuôi; phối hợp giữa nông nghiệp với công thương trong kiểm soát lạm dụng hóa chất công nghiệp trong chăn nuôi và thực phẩm.
2. Tồn tại, yếu kém
(1) Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật về ATTP,
tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật
- Hệ thống văn bản về quản lý chất lượng, ATTP đã được ban hành đầy đủ, tuy nhiên, còn một số văn bản triển khai trong thực tiễn còn khó khăn do thiếu nguồn lực, một số văn bản còn chưa sát với thực tiễn nên chậm đi vào cuộc sống như: chính sách về thu hút đầu tư vào nông nghiệp, giải pháp quản lý đối với cơ sở sản xuất kinh doanh nhỏ lẻ.
- Các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật còn thiếu do qui trình xây dựng theo quy định của Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật thường kéo dài từ 1 đến 2 năm; cơ sở khoa học phục vụ xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và nguồn lực xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật còn hạn chế.
- Một số chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất, đảm bảo chất lượng, ATTP chưa thực sự hiệu quả do thủ tục để được hưởng chính sách hỗ trợ còn khó khăn, phức tạp; đặc biệt một số chính 40
sách phát triển liên kết sản xuất, phát triển việc tích tụ đất đai để sản xuất quy mô lớn còn chưa hiệu quả.
(2) Công tác chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện của Bộ; việc thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại và xử lý vi phạm pháp luật về ATTP
- Việc xử lý dứt điểm một số tồn tại như: chất cấm trong chăn nuôi, tồn dư thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y, hóa chất, kháng sinh trong rau, quả, chè, thịt, thủy sản còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu của nhân dân;
- Ở nhiều địa phương, mặc dù tổ chức thanh, kiểm tra nhiều nhưng tỷ lệ xử lý thấp, kỷ cương, kỷ luật không nghiêm, vẫn còn có sự đùn đẩy trách nhiệm giữa các ngành có liên quan. Đặc biệt, nhiều địa phương chưa chuyển hướng mạnh sang thanh tra đột xuất như chỉ đạo của Bộ và Chính phủ nên hiệu quả thanh tra không cao.
- Cấp Bộ chỉ đạo giải pháp nhưng địa phương không có nguồn
lực tương thích để thực hiện có hiệu quả, đồng bộ các giải pháp.
(3) Việc thực hiện chính sách, quy định của pháp luật về
ATTP
- Việc thực thi pháp luật ở nhiều địa phương còn hình thức, dàn trải, chưa đạt yêu cầu, chưa công khai và xử lý nghiêm các vụ việc vi phạm cũng như chưa tạo được động lực khuyến khích các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm an toàn.
- Việc thực hiện phân công quản lý nhà nước về ATTP ở một số địa phương còn chồng chéo, lúng túng như: quản lý cơ sở kinh doanh trong chợ; quản lý đối với cơ sở vừa sản xuất, vừa kinh doanh nhiều mặt hàng...
41
- Việc thực hiện các phương thức để tích tụ ruộng đất phục vụ cho sản xuất hàng hóa quy mô lớn đảm bảo ATTP còn nhiều lúng túng, cản trở việc kêu gọi doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, phát triển sản xuất công nghệ cao đảm bảo ATTP.
- Về việc thực hiện quy hoạch: nhiều địa phương đã ban hành quy hoạch tuy nhiên tỷ trọng thực hiện quy hoạch còn rất thấp, đặc biệt là diện tích trồng rau, quả an toàn và quy hoạch giết mổ tập trung.
- Lực lượng cán bộ quản lý nhà nước về ATTP còn thiếu về số lượng và hạn chế về chuyên môn, thiếu tính chuyên nghiệp (một số Chi cục hiện chỉ có khoảng 10 biên chế như Tuyên Quang, Bắc Ninh, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Tĩnh, Cao Bằng, Lai Châu, Bình Dương nên rất khó khăn trong triển khai công việc được giao).
- Công tác phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước về
ATTP, nhất là tuyến cơ sở còn hạn chế;
- Công tác vận động, tuyên truyền, giáo dục về ATTP chưa thường xuyên, kết quả còn hạn chế; còn tình trạng nội dung thông tin không chính xác hoặc chưa được kiểm chứng, thiếu căn cứ khoa học, gây ảnh hưởng đến sản xuất, kinh doanh và niềm tin của nhân dân đối với công tác quản lý ATTP.
(4) Đánh giá các yếu tố tác động, ảnh hưởng đến ATTP
- Tình hình sử dụng chất cấm, lạm dụng hóa chất, kháng sinh, thuốc BVTV, thuốc thú y, chất cải tạo xử lý môi trường, phụ gia, chất bảo quản trong sơ chế, chế biến, sau thu hoạch nông sản ngày càng phức tạp;
- Điều kiện vệ sinh ATTP trong các khâu sản xuất ban đầu như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản đến khâu bảo quản,
42
sơ chế, giết mổ chưa đáp ứng qui định vệ sinh ATTP, còn nhiều cơ sở xếp loại C chậm chuyển biến, khắc phục.
- Các phòng kiểm nghiệm chưa phát triển phương pháp theo kịp nhu cầu kiểm nghiệm phát sinh; tính đồng đều trong các kết quả giữa các phòng kiểm nghiệm được chỉ định còn chưa cao, chưa phát triển được hệ thống phòng kiểm nghiệm kiểm chứng để làm trọng tài xử lý các tranh chấp về các kết quả kiểm nghiệm.
- Việc tổ chức sản xuất kinh doanh theo chuỗi giá trị là định hướng đúng và là xu hướng trong thời gian tới, hướng đến mục tiêu đảm bảo an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc và nhận diện thực phẩm an toàn; tuy nhiên cần các điều kiện hỗ trợ để có thể phát triển nhanh và trên diện rộng.
- Rau, quả, thịt, thủy sản là thực phẩm tươi sống nên phần lớn chưa có nhãn, mác, dấu hiệu nhận diện và thông tin về nguồn gốc xuất xứ. Do vậy khi phát hiện mẫu vi phạm đã gặp rất nhiều khó khăn trong truy xuất, xác định nguyên nhân và xử lý vi phạm. Đây cũng là bất cập khiến người tiêu dùng chưa thể nhận biết được đâu là sản phẩm an toàn, sản phẩm có nguồn gốc xuất xứ từ nơi đã được chứng nhận đủ điều kiện ATTP;
3. Nguyên nhân của tồn tại yếu kém
3.1. Nguyên nhân chủ quan
- Nhận thức của một số cấp ủy, chính quyền, cán bộ, lãnh đạo quản lý về vai trò của ATTP chưa đầy đủ; lực lượng thực thi các nhiệm vụ quản lý nhà nước còn yếu kém; tính quyết liệt trong thực thi các giải pháp về đảm bảo an toàn thực phẩm của nhiều địa phương còn chưa cao, đặc biệt ở tuyến huyện, xã. Lực lượng cán bộ các cấp địa phương còn thiếu và yếu, kinh phí đầu tư cho ATTP còn hạn chế. Rất nhiều địa phương có tổ chức thanh, kiểm
43
tra, phát hiện các cơ sở vi phạm nhưng không xử phạt hoặc phạt chưa nghiêm, mức phạt trung bình trên 01 cơ sở còn rất thấp, không đủ sức răn đe.
- Nhận thức, ý thức trách nhiệm của người sản xuất, kinh doanh, người tiêu dùng về công tác đảm bảo chất lượng, ATTP nông lâm thủy sản còn hạn chế; sự xuống cấp về đạo đức kinh doanh của 1 bộ phận người sản xuất có tác động tiêu cực đến an toàn thực phẩm cũng như gây bức xúc trong xã hội.
- Cơ chế chính sách chưa đủ mạnh để khuyến khích, động viên người dân, doanh nghiệp đầu tư sản xuất kinh doanh vật tư nông nghiệp đảm bảo chất lượng và thực phẩm nông lâm thủy sản an toàn, phát triển các mô hình chuỗi chất lượng cao, đảm bảo ATTP;
- Công tác tuyên truyền, giáo dục chính sách, pháp luật được triển khai nhưng thiếu tổng kết, đánh giá hiệu quả tác động đến các nhóm đối tượng được tuyên truyền. Dung lượng tuyên truyền trên các phương tiện thông tin vẫn nặng về phê phán, lên án các mô hình, cơ sở sản xuất không đảm bảo ATTP, dung lượng tuyên truyền các mô hình sản xuất tốt bảo đảm ATTP còn chưa tương xứng với sự phát triển của thực tiễn. Kinh phí cho tuyên truyền, giáo dục, thông tin, quảng bá về chất lượng, ATTP trong nông nghiệp còn hạn chế;
- Sự phối hợp liên ngành và ngành dọc từ trung ương đến địa phương trong nhiều vấn đề còn lúng túng chưa hiệu quả, chưa chặt chẽ, đặc biệt là việc phối hợp liên ngành ở cấp địa phương, tỉnh, huyện, xã còn kém dẫn đến chồng chéo và bỏ sót.
3.2. Nguyên nhân khách quan
- ATTP là lĩnh vực lớn và phức tạp cần có sự tham gia và phối hợp của toàn xã hội. Rủi ro do sử dụng thực phẩm là rất khó
44
tránh, ngay cả các nước phát triển các sự cố về ATTP vẫn xảy ra. Mặt khác, xuất phát điểm của công tác quản lý ATTP ở Việt Nam thấp hơn các nước trên thế giới và trong khu vực.
- Việc sản xuất, kinh doanh thực phẩm ở nước ta cơ bản vẫn là nhỏ lẻ, quy mô hộ gia đình; điều kiện ATTP trong các khâu sản xuất ban đầu như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản đến khâu bảo quản, sơ chế, chế biến, đặc biệt tại cơ sở giết mổ chưa đáp ứng qui định, qui chuẩn kỹ thuật ATTP; trình độ, thói quen canh tác, công nghệ sơ chế, chế biến quy mô nhỏ còn lạc hậu gây khó khăn lớn cho quản lý ATTP. Trong nhân dân còn tồn tại nhiều tập quán sử dụng thực phẩm không bảo đảm an toàn. Điều kiện đảm bảo ATTP ở các chợ đầu mối, chợ dân sinh còn rất kém.
- Tình trạng ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu ngày càng nghiêm trọng ngoài tác động ô nhiễm trực tiếp đến thực phẩm còn là nguyên nhân dẫn đến phát sinh dịch bệnh, là nguyên nhân dẫn đến lạm dụng thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, hóa chất...
- Nước ta có đường biên giới trên đất liền dài, nhiều cửa khẩu đường sông, biển nên việc kiểm soát hàng hóa thực phẩm nhập khẩu rất khó khăn, đặc biệt là kiểm soát thực phẩm nhập khẩu qua đường tiểu ngạch, thực phẩm nhập lậu.
45
Phần II
NHỮNG YÊU CẦU ĐẶT RA ĐỐI VỚI CÔNG TÁC
QUẢN LÝ ATTP TRONG TÌNH HÌNH MỚI ĐỐI VỚI CÁC BỘ, NGÀNH
1. Thuận lợi, khó khăn trong quản lý ATTP của Bộ hiện
nay
Thuận lợi:
- An toàn thực phẩm là một trong những vấn đề mà Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm chỉ đạo, ban hành chính sách hỗ trợ và ưu tiên nguồn lực.
- Nhận thức của các cấp chính quyền và nhân dân về ATTP ngày càng cao vừa là động lực vừa là cơ sở để triển khai các giải pháp quản lý ATTP có hiệu quả.
- Các chủ trương lớn của Đảng, Chính phủ về tái cơ cấu ngành nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới đều hết sức quan tâm và xác định tiêu chí cụ thể về ATTP.
Khó khăn:
- Bên cạnh việc phát triển và thúc đẩy nền sản xuất hàng hóa nông lâm thủy sản chất lượng cao thì cũng có nhiều vụ việc về thực phẩm không đảm bảo an toàn, việc lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y, hóa chất trong sản xuất kinh doanh nông lâm thủy sản còn diễn biến phức tạp ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng, giảm khả năng tiếp cận thị trường cho các mặt hàng nông sản.
- Việc ký kết và thực thi các hiệp định tự do thương mại quốc tế vừa là cơ hội cũng vừa là thách thức lớn trong đảm bảo ATTP
46
nông sản để đảm bảo được khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam trên thị trường thế giới và thị trường nội địa.
- Sự phát triển không ngừng của đời sống, sản xuất; tốc độ gia tăng dân số, đô thị hóa mạnh mẽ và yêu cầu ngày càng cao về chất lượng sản phẩm của người tiêu dùng và thị trường quốc tế là áp lực lớn lên công tác quản lý ATTP.
- Thực trạng sản xuất, kinh doanh ở nước ta cơ bản vẫn là nhỏ lẻ, quy mô hộ gia đình; trình độ canh tác, công nghệ chế biến lạc hậu; vấn đề ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu ngày càng nghiêm trọng tác động trực tiếp đến thực phẩm gây khó khăn lớn cho quản lý ATTP.
- Nguồn lực cho quản lý ATTP sẽ hạn chế trong bối cảnh khó
khăn về ngân sách và chủ trương giảm biên chế.
2. Mục tiêu, yêu cầu đối với công tác quản lý ATTP trong
tình hình mới gắn với chiến lược phát triển của Bộ
2.1. Mục tiêu:
Mục tiêu chung: Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng cường năng lực thực thi pháp luật của hệ thống cơ quan quản lý nhà nước, huy động mạnh mẽ sự tham gia của các lực lượng sản xuất kinh doanh và nguồn lực xã hội đảm bảo hiệu lực và hiệu quả quản lý ATTP nông sản, nhằm góp phần phát triển bền vững nông nghiệp, nông thôn, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, mở rộng thị trường xuất khẩu.
Mục tiêu cụ thể 2016 - 2020:
(1) Hệ thống văn bản QPPL quản lý ATTP nông sản hài hòa với quy định quốc tế, phương thức quản lý an toàn thực phẩm được hoàn thiện, đổi mới dựa trên phân tích nguy cơ.
47
(2) Bộ máy quản lý nhà nước về ATTP của ngành được kiện toàn theo hướng thu gọn đầu mối và được đầu tư tăng cường năng lực.
(3) Hiệu quả truyền thông, giáo dục kiến thức ATTP được nâng cao tạo chuyển biến căn bản về nhận thức và hành vi của người sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm, người quản lý, người tiêu dùng có kiến thức và thực hành đúng về an toàn thực phẩm.
(4) 100% các tỉnh, thành phố xây dựng và phê duyệt quy hoạch sản xuất nông sản an toàn và đảm bảo điều kiện hạ tầng các vùng sản xuất thực phẩm an toàn.
(5) 100% cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm được kiểm tra
điều kiện đảm bảo an toàn thực phẩm.
(6) Lượng nông sản không đạt chỉ tiêu ATTP giảm ít nhất
10% mỗi năm.
2.2. Yêu cầu:
- Tiếp tục ngăn chặn, xử lý dứt điểm sử dụng chất cấm trong chăn nuôi và lạm dụng kháng sinh trong chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản; giảm thiểu rõ nét vi phạm về ô nhiễm vi sinh và tồn dư thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y, hóa chất, kháng sinh, chất bảo quản, phụ gia trong sản xuất, kinh doanh thực phẩm nông lâm thủy sản thuộc phạm vi quản lý của ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn, tạo niềm tin cho người tiêu dùng thực phẩm nông lâm thuỷ sản.
- Đảm bảo chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm (ATTP) là yêu cầu đặc biệt quan trọng trong bảo vệ sức khỏe nhân dân, là một thành tố của an ninh quốc gia, là yếu tố quyết định sự phát
48
triển bền vững nông nghiệp, nông dân, nông thôn và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Quản lý chất lượng, ATTP phải là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Phải huy động được sự tham gia tích cực của người sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng. Đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động dịch vụ kỹ thuật, tư vấn, đánh giá, chứng nhận chất lượng, ATTP nông lâm thủy sản. Tăng cường hợp tác và hội nhập quốc tế.
- Quản lý chất lượng, ATTP nông lâm thủy sản phải thực hiện theo nguyên tắc kiểm soát toàn bộ quá trình “từ trang trại tới bàn ăn”; kiểm soát chặt chẽ công đoạn có nguy cơ, nguy cơ cao trong toàn bộ quy trình sản xuất và cung cấp nông lâm thủy sản.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động, thuyết phục nhằm tạo sự chuyển biến thực sự trong nhận thức của xã hội về ATTP, nhất là nâng cao trách nhiệm xã hội và đạo đức của người sản xuất, kinh doanh thực phẩm, đồng thời phải gắn với việc xử lý nghiêm minh các tổ chức, cá nhân vi phạm các quy định của pháp luật về ATTP.
49
Phần III GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ
I. GIẢI PHÁP
1. Giải pháp về lãnh đạo, chỉ đạo hoàn thiện chính sách
pháp luật
- Phối hợp Bộ Y tế và Bộ Công Thương thực hiện đánh giá 5 năm triển khai thi hành Luật ATTP và rà soát, sửa đổi, điều chỉnh các Nghị định, Thông tư hướng dẫn thi hành Luật ATTP theo hướng tích hợp, đảm bảo phù hợp với điều kiện thực tiễn sản xuất, kinh doanh thực phẩm nông lâm thủy sản tại Việt Nam và chuẩn mực, thông lệ quốc tế; tiếp tục chuyển hướng nâng cao vai trò đảm bảo ATTP của người sản xuất kinh doanh.
- Đề xuất Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định 210/2013/NĐ-CP về chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; ban hành Nghị định về chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và kinh doanh tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; chính sách đầu tư hạ tầng và hỗ trợ phát triển các mô hình chuỗi giá trị thực phẩm theo hướng sản xuất quy mô lớn gắn với thị trường tiêu thụ trong nước cũng như xuất khẩu, từ đó nhân rộng ra khắp cả nước.
- Rà soát điều chỉnh quy định về điều kiện, thủ tục công nhận hoặc cho phép lưu hành vật tư nông nghiệp (thức ăn chăn nuôi, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y, hóa chất, chế phẩm xử lý cải tạo môi trường nuôi trồng thủy sản) đảm bảo chỉ cho phép lưu hành hạn chế số lượng sản phẩm sản xuất với công nghệ tiên tiến, chất lượng cao và đặc biệt không gây mất ATTP cho sản phẩm nông lâm thủy sản; có giải pháp cụ thể để các tổ chức cá nhân
50
hoạt động giết mổ nhỏ lẻ tại các cơ sở, điểm giết mổ không đảm bảo điều kiện theo quy định chuyển đổi ngành nghề, hoặc khuyến khích thực hiện tại các cơ sở điểm giết mổ đã được chỉ định đảm bảo điều kiện vệ sinh thú y, ATTP và bảo vệ môi trường.
- Hướng dẫn, đôn đốc các địa phương ban hành các văn bản chỉ đạo, các qui định và cơ chế chính sách đặc thù của địa phương trong quản lý và hỗ trợ phát triển liên kết chuỗi sản xuất kinh doanh nông lâm thủy sản đảm bảo chất lượng, ATTP dựa trên các cơ chế chính sách pháp luật chung của Nhà nước.
2. Giải pháp về lãnh đạo, chỉ đạo thực thi hiệu quả chính
sách pháp luật
2.1. Thông tin, truyền thông về ATTP
- Tăng cường tuyên truyền, phổ biến cho người sản xuất, kinh doanh nông lâm thủy sản biết về các mức xử phạt hành chính, truy tố hình sự đối với các hành vi vi phạm quy định về vệ sinh ATTP trong Bộ Luật Hình sự; Nghị định 178/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính về ATTP; phổ biến cho người dân áp dụng quy trình thực hành sản xuất tốt (GAP, GMP) đặc biệt không sử dụng chất cấm, chất bảo quản, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y ngoài danh mục.
- Phối hợp với các phương tiện thông tin đại chúng thông tin đầy đủ, kịp thời, chính xác các sản phẩm vi phạm, cơ sở sản xuất, kinh doanh có sản phẩm vi phạm cũng như thông tin về các cơ sở sản xuất, kinh doanh sản phẩm an toàn, giới thiệu cho người dân địa chỉ nơi bán sản phẩm an toàn;
- Thông tin đầy đủ, kịp thời về kết quả giám sát, thanh tra, kiểm tra các cơ sở sản xuất kinh doanh thực phẩm nông lâm thủy sản; kết quả xử lý các sự cố an toàn thực phẩm.
51
2.2. Tổ chức thực thi các chính sách pháp luật về đảm bảo
ATTP nông lâm thủy sản
- Tổ chức kiểm tra, chấn chỉnh việc cho phép nhập khẩu và kiểm soát việc sử dụng sau nhập khẩu đối với kháng sinh nguyên liệu, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật.
- Chỉ đạo các cấp tăng cường kiểm tra, thanh tra đột xuất cơ sở lưu thông, phân phối buôn bán thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y, chất xử lý cải tạo môi trường sử dụng trong trồng trọt, chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm theo quy định của pháp luật.
- Tổ chức kiểm tra, phân loại 100% cơ sở sản xuất kinh doanh vật tư nông nghiệp và nông lâm thủy sản trên địa bàn quản lý; tái kiểm tra 100% cơ sở loại C (không đủ điều kiện ATTP) theo Thông tư số 45/2013/TT-BNNPTNT và xử lý nghiêm các cơ sở loại C theo quy định của pháp luật; tuyên truyền vận động cơ sở sản xuất ban đầu (trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản) nhỏ lẻ ký cam kết sản xuất nông lâm thủy sản an toàn theo Thông tư số 51/2014/TT-BNNPTNT.
- Tăng cường thanh tra chuyên ngành đột xuất các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm nông, lâm, thủy sản nhằm kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các vi phạm về chất lượng, ATTP theo qui định của pháp luật.
- Tổ chức hệ thống lấy mẫu giám sát, cảnh báo và điều tra, truy xuất, xử lý tận gốc đối với sản phẩm, cơ sở sản xuất kinh doanh vi phạm các qui định về ATTP.
- Tiếp tục triển khai mở rộng Chương trình phát triển chuỗi cung cấp rau, thịt cho Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh và một số đô thị lớn trong cả nước; Mở rộng, nhân rộng các chuỗi cung ứng thực
52
phẩm nông lâm thủy sản an toàn kết hợp với kiểm tra, xác nhận sản phẩm được kiểm soát ATTP theo chuỗi.
3. Giải pháp về nâng cao năng lực hệ thống quản lý ATTP
của ngành
3.1. Giải pháp về hoàn thiện tổ chức bộ máy, cơ chế phối hợp
- Kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý và thanh tra chuyên ngành chất lượng vật tư nông nghiệp, ATTP nông lâm thủy sản từ trung ương tới địa phương. Rà soát, hoàn thiện phân công, phân cấp, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan cùng cấp cũng như giữa cấp trung ương và địa phương.
lâm theo Thông thủy sản liên tư
- Các địa phương khẩn trương kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý và thanh tra chuyên ngành chất lượng vật tư nông nghiệp, ATTP nông tịch số 14/2015/TTLT-BNNPTNT-BNV và Thông tư số 15/2015/TT- BNNPTNT về tổ chức bộ máy ngành nông nghiệp ở địa phương và ưu tiên bố trí kinh phí cho hoạt động giám sát kiểm tra chất lượng vật tư nông nghiệp, ATTP nông lâm thủy sản.
3.2. Tăng cường năng lực hệ thống quản lý
- Đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động kiểm nghiệm, tư vấn, chứng
nhận chất lượng vật tư nông nghiệp, ATTP nông lâm thủy sản.
- Tổ chức đào tạo, đào tạo nâng cao cho cán bộ tham gia quản lý chất lượng vật tư nông nghiệp, ATTP nông lâm thủy sản, đặc biệt là cán bộ các cơ quan quản lý cấp địa phương về nghiệp vụ, kỹ năng trong tuyên truyền phổ biến pháp luật; trong giám sát, kiểm tra, thanh tra chuyên ngành, xử phạt vi phạm qui định đảm bảo chất lượng vật tư nông nghiệp, ATTP nông lâm thủy sản.
- Huy động nguồn vốn từ các chương trình tín dụng, các nguồn vốn từ các dự án nhằm hỗ trợ và tạo điều kiện cho các tổ
53
chức, cá nhân vay vốn để đầu tư xây dựng và mua sắm trang thiết bị phục vụ hoạt động giết mổ công nghiệp, kết nối tiêu thụ sản phẩm nông lâm thủy sản an toàn...
3.3. Hoàn thiện cơ chế phối hợp
- Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng của Bộ Công an, Bộ Y tế, Bộ Công Thương, Bộ đội Biên phòng, Hải quan phát hiện, điều tra, triệt phá dứt điểm các đường dây nhập lậu, tàng trữ, lưu thông, buôn bán chất cấm, kháng sinh, thuốc bảo vệ thực vật ngoài danh mục được phép sử dụng trong trồng trọt, chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản.
- Phối hợp chặt chẽ với Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện Chương trình phối hợp số 17-CTPH/HND- MTTQ-BNN&PTNT-BCT ngày 17/7/2014 trong giám sát thực hiện pháp luật về sản xuất, kinh doanh vật tư nông nghiệp giai đoạn 2014-2020 và Chương trình phối hợp vận động và giám sát bảo đảm ATTP giai đoạn 2016-2020 ký kết giữa Chính phủ và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc.
- Phối hợp với Bộ Công Thương tổ chức các hoạt động kết nối sản xuất – tiêu thụ sản phẩm an toàn, xúc tiến/quảng bá sản phẩm an toàn.
II. KIẾN NGHỊ
1. Kiến nghị với Đảng
- Đề nghị Ban Bí thư chỉ đạo các cấp ủy tổ chức thực hiện nghiêm Kết luận số 11-KL/TW ngày 19/01/2017 về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị 08-CT/TW ngày 21/10/2011 của Ban Bí thư khoá 11 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với vấn đề an toàn thực phẩm trong tình hình mới.
54
- Đề nghị Bộ Chính trị sớm ban hành Nghị quyết về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác an toàn thực phẩm trong tình hình mới, đặc biệt là bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng của đất nước.
2. Kiến nghị với Quốc hội
- Cho phép sửa đổi Luật An toàn thực phẩm theo hướng đổi mới phương thức quản lý đối với cơ sở sản xuất kinh doanh và sản phẩm thực phẩm, cụ thể:
+ Xem xét bỏ qui định đăng ký bản công bố hợp quy với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Theo phản ánh của các doanh nghiệp, đây là biện pháp quản lý theo phương thức “tiền kiểm” thực chất ít hiệu quả, gây phiền hà, tốn kém cho doanh nghiệp, cần chuyển sang áp dụng phương thức quản lý “hậu kiểm” (kiểm tra, thanh tra theo quy định, quy chuẩn kỹ thuật và tiêu chuẩn do cơ sở công bố áp dụng) nhằm tạo điều kiện thuận lợi về môi trường đầu tư, kinh doanh của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh vẫn công bố hợp quy nhưng không cần đăng ký bản công bố hợp quy với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để lấy giấy tiếp nhận bản công bố hợp quy.
+ Sửa đổi Điều 65 nhằm qui định rõ hơn trách nhiệm quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân các cấp theo hướng nâng cao trách nhiệm của các cấp chính quyền địa phương trong quản lý an toàn thực phẩm trên địa bàn quản lý và giao quyền chủ động hơn trong thiết kế tổ chức, bộ máy, nguồn lực…
- Sửa đổi bổ sung Bộ Luật hình sự để tăng cường răn đe và xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật về ATTP theo hướng quy định rõ hình phạt tù và phạt tiền tương ứng với mức độ vi phạm và
55
hậu quả trong việc sử dụng hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc BVTV thuộc danh mục cấm sử dụng hoặc sản xuất kinh doanh thực phẩm mà biết rõ là thực phẩm có chứa chất cấm hoặc không đáng ứng quy chuẩn thực phẩm (Bộ Nông nghiệp & PTNT đã có đề xuất cụ thể với Ủy ban tư pháp của Quốc hội).
- Đề nghị Quốc hội ưu tiên kinh phí đầu tư cho công tác an toàn thực phẩm trong quá trình quyết định phân bổ ngân sách nhà nước hằng năm cho các ngành, lĩnh vực; cho phép sử dụng kinh phí xử phạt vi phạm hành chính phục vụ công tác thanh tra, kiểm tra ATTP.
3. Kiến nghị với Chính phủ
- Sửa đổi bổ sung các chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp nông thôn; chính sách khuyến khích, hỗ trợ phát triển các vùng sản xuất tập trung, ứng dụng công nghệ cao, liên kết sản xuất với chế biến tiêu thụ nông sản thực phẩm theo hướng gia tăng giá trị, đảm bảo ATTP.
- Chỉ đạo Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các tỉnh/thành phố đưa tiêu chí an toàn thực phẩm trở thành một tiêu chí quan trọng trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của từng địa phương trong cả nhiệm kỳ và hằng năm để trên cơ sở đó tập trung sự chỉ đạo và bố trí nguồn lực cho công tác an toàn thực phẩm, đặc biệt chú trọng nguồn lực cho tuyến cơ sở để quản lý giám sát điều kiện đảm bảo an toàn thực phẩm đối với nhóm đối tượng sản xuất kinh doanh thực phẩm nhỏ lẻ.
4. Kiến nghị các Bộ, ngành
- Đề nghị Bộ Y tế sớm hoàn thành việc tổ chức đánh giá 05 năm thi hành Luật ATTP làm cơ sở để sửa đổi bổ sung Luật
56
ATTP theo hướng nâng cao hiệu quả quản lý và hài hòa với quốc tế; sớm hoàn thành việc sửa đổi bổ sung Nghị định 38/2012/NĐ- CP hướng dẫn thi hành Luật ATTP theo chỉ đạo của Chính phủ và đề nghị của cộng đồng doanh nghiệp;
- Đề nghị Bộ Kế hoạch Đầu tư đẩy nhanh tiến độ sửa đổi Nghị
định số 210/2013/NĐ-CP ngày 19/12/2013.
- Đề nghị Bộ Khoa học Công nghệ sớm nghiên cứu đề nghị sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa, Luật tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật và các Nghị định hướng dẫn thi hành theo hướng hài hòa với quy định của quốc tế phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn hiện nay.
- Đề nghị Bộ Tài chính ưu tiên bố trí nguồn lực ngân sách cho công tác an toàn thực phẩm đặc biệt là các cơ chế tạo sự chủ động cho hoạt động của các cơ quan làm nhiệm vụ ATTP như cơ chế sử dụng nguồn kinh phí xử lý vi phạm hành chính, cơ chế tự chủ tài chính, cơ chế điều phối kinh phí giữa các cơ quan quản lý an toàn thực phẩm và tổ chức sự nghiệp công về an toàn thực phẩm.
5. Kiến nghị với địa phương:
- Đề nghị UBND các cấp đưa tiêu chí an toàn thực phẩm trở thành một tiêu chí chính trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của từng địa phương trong cả nhiệm kỳ và hàng năm để trên cơ sở đó tập trung sự chỉ đạo và bố trí nguồn lực cho công tác an toàn thực phẩm, đặc biệt chú trọng nguồn lực cho tuyến cơ sở để quản lý giám sát điều kiện đảm bảo an toàn thực phẩm đối với nhóm đối tượng sản xuất kinh doanh thực phẩm nhỏ lẻ.
57
- Đề nghị UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nhanh chóng kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý an toàn thực phẩm ở địa bàn, đặc biệt ở cấp huyện và cấp xã để nâng cao hiệu quả quản lý.
6. Kiến nghị với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Đề nghị Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên tiếp tục tăng cường giám sát hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước trong việc thực hiện chính sách pháp luật về quản lý chất lượng ATTP; tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện pháp luật về quản lý chất lượng ATTP. Chỉ đạo triển khai tích cực Chương trình phối hợp số 90 về vận động và giám sát đảm bảo an toàn thực phẩm giai đoạn 2016-2020 của Chính phủ và Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
58
PHẦN IV KẾ HOẠCH NĂM CAO ĐIỂM HÀNH ĐỘNG VỆ SINH,
AN TOÀN THỰC PHẨM TRONG LĨNH VỰC
NÔNG NGHIỆP NĂM 2017
Ngày 24/1/2017, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT đã ký Quyết định số 235/QĐ-BNN-QLCL ban hành Kế hoạch Năm cao điểm hành động vệ sinh, an toàn thực phẩm trong lĩnh vực nông nghiệp năm 2017 với các nội dung chính như sau:
1. Mục tiêu
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm; giảm thiểu ô nhiễm sinh học và tồn dư hóa chất, kháng sinh trong sản xuất kinh doanh nông sản thực phẩm, đáp ứng yêu cầu về an toàn thực phẩm cho tiêu dùng trong nước và mở rộng thị trường xuất khẩu
2. Kết quả và chỉ số cần đạt
- Các văn bản qui phạm pháp luật, tiêu chuẩn, qui chuẩn kỹ thuật về chất lượng vật tư nông nghiệp, vệ sinh ATTP được sửa đổi, bổ sung theo đúng kế hoạch.
- Các chính sách khuyến khích, tạo động lực cho người dân, doanh nghiệp đầu tư, liên kết chuỗi sản xuất kinh doanh nông sản thực phẩm an toàn được rà soát, điều chỉnh bổ sung phù hợp với thực tiễn sản xuất nông nghiệp và thị trường nông sản.
- Tuyên truyền, phổ biến pháp luật về ATTP cho các tổ chức, cá nhân tham gia sản xuất, kinh doanh nông sản thực phẩm; thông tin về vệ sinh, ATTP nông lâm thủy sản và truyền thông, quảng bá nông sản thực phẩm an toàn được tăng cường;
- Đến cuối năm 2017, tỷ lệ mẫu giám sát vi phạm qui định về tồn dư thuốc bảo vệ thực vật trong rau, củ, quả; tồn dư hóa chất,
59
kháng sinh trong các loại sản phẩm thịt, thủy sản; ô nhiễm vi sinh trong thịt giảm 10% so với năm 2016;
- Tỷ lệ cơ sở sản xuất kinh doanh nông lâm thủy sản được kiểm tra đạt yêu cầu về điều kiện đảm bảo ATTP (xếp loại A,B) tăng 10% so với năm 2016.
- 100% các tỉnh/thành phố phát triển, nhân rộng chuỗi cung ứng thực phẩm nông lâm thủy sản an toàn và tổ chức kiểm tra, giám sát, cấp giấy xác nhận sản phẩm an toàn và công khai tại nơi bày bán cho người tiêu dùng;
3. Các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu
3.1. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách, pháp luật
- Rà soát, hoàn thiện hệ thống văn bản qui phạm pháp luật, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật phục vụ công tác quản lý chất lượng vật tư nông nghiệp, ATTP nông lâm thủy sản;
- Rà soát tổng thể về quản lý chất lượng vật tư nông nghiệp, an toàn thực phẩm, trong đó xem xét điều chỉnh cần thiết về phân công, phân cấp trong quản lý, đảm bảo chất lượng vật tư nông nghiệp (VTNN), ATTP sau khi bãi bỏ Thông tư 20/2014/TT- BNNPTNT.
- Phối hợp Bộ Y tế đánh giá 5 năm thi hành Luật ATTP; sửa đổi Nghị định số 38/2012/NĐ-CP ngày 25/4/2012 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật An toàn thực phẩm.
- Trình Chính phủ ban hành Nghị định về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản thực phẩm an toàn thay thế Quyết định số 62/2013/QĐ-TTg và Quyết định số 01/2012/QĐ-TTg;
- Phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư sửa đổi bổ sung Nghị định số 210/2013/NĐ-CP ngày 19/12/2013 về chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; 60
- Các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ban hành chính sách đặc thù dựa trên khung chính sách chung của Nhà nước về khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; xây dựng vùng sản xuất nông nghiệp công nghệ cao gắn với phát triển hợp tác, liên kết sản xuất với tiêu thụ nông sản thực phẩm an toàn;
3.2. Tiếp tục đẩy mạnh thông tin, truyền thông về an toàn
thực phẩm
- Tuyên truyền, phổ biến pháp luật về ATTP, tập trung vào các qui định, qui chuẩn kỹ thuật về sản xuất kinh doanh nông sản an toàn; các qui định về xử lý hành chính, hình sự đối với các vi phạm về vệ sinh an toàn thực phẩm.
- Chủ động phối hợp với các Báo, Đài kịp thời thông tin đầy đủ về vệ sinh, ATTP nông lâm thủy sản và đẩy mạnh truyền thông, quảng bá nông sản thực phẩm an toàn “Nông nghiệp sạch cho người Việt Nam, cho Thế giới”, “Địa chỉ xanh – Nông sản sạch”, “Chuỗi thực phẩm an toàn Từ sản xuất đến bàn ăn”.
3.3. Tăng cường giám sát, kiểm tra, thanh tra, xử lý vi
phạm
- Tổ chức giám sát ATTP, tập trung vào nông sản thực phẩm tươi sống, kịp thời phát hiện, cảnh báo và truy xuất, xử lý tận gốc sản phẩm không đảm bảo an toàn;
- Tiếp tục triển khai Chương trình phối hợp Chính phủ và Ủy ban Trung ương MTTQ về vận động và giám sát bảo đảm ATTP giai đoạn 2016 - 2020;
- Phối hợp với Bộ Công Thương, Bộ Y tế, Bộ Công an trong quản lý, kiểm soát ngăn chặn tàng trữ, buôn bán chất cấm, lạm
61
dụng hóa chất công nghiệp, kháng sinh y tế trong sản xuất, chế biến, bảo quản nông sản thực phẩm;
- Tổ chức kiểm tra, phân loại cơ sở sản xuất kinh doanh VTNN và nông lâm thủy sản; tái kiểm tra cơ sở loại C và xử lý dứt điểm cơ sở tái kiểm tra vẫn xếp loại C theo Thông tư số 45/2014/TT-BNNPTNT. Tổ chức cho các cơ sở sản xuất ban đầu nhỏ lẻ ký cam kết đảm bảo vệ sinh, ATTP theo Thông tư 51/2014/TT-BNNPTNT.
- Tổ chức kiểm tra chặt chẽ về vệ sinh an toàn thực phẩm đối với thực phẩm có nguồn gốc thực vật, động vật và thủy sản nhập khẩu vào Việt Nam;
- Tổ chức thanh tra đột xuất cơ sở sản xuất kinh doanh vật tư nông nghiệp, sản phẩm nông lâm thủy sản, tập trung vào cơ sở lưu thông buôn bán thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y, sản phẩm xử lý cải tạo môi trường nuôi trồng thủy sản, lò mổ, cơ sở sản xuất kinh doanh thực phẩm tươi sống nhằm kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm vi phạm.
3.4. Tổ chức sản xuất kết nối với tiêu thụ nông sản thực
phẩm an toàn
- Xây dựng và triển khai các đề án, chương trình xây dựng vùng sản xuất nông nghiệp tập trung, công nghệ cao gắn với phát triển hợp tác, liên kết sản xuất với tiêu thụ nông sản thực phẩm an toàn;
- Tiếp tục triển khai Đề án xây dựng và phát triển chuỗi cung ứng nông sản thực phẩm an toàn; Chương trình phối hợp phát triển chuỗi cung cấp rau, thịt cho Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh và mở rộng Chương trình sang một số đô thị lớn như Đà Nẵng, Hải Phòng...
62
- Phối hợp với Bộ Công Thương tổ chức các hoạt động kết nối sản xuất với tiêu thụ, xúc tiến thương mại, truyền thông, quảng bá nông sản thực phẩm an toàn.
3.5. Tổ chức lực lượng, nâng cao năng lực
- Các địa phương khẩn trương kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý và thanh tra chuyên ngành chất lượng vật tư nông nghiệp, an toàn thực phẩm;
- Tổ chức đào tạo, đào tạo nâng cao cho cán bộ tham gia quản
lý chất lượng vật tư nông nghiệp, an toàn thực phẩm;
- Tập trung đầu tư nâng cấp các phòng kiểm nghiệm của ngành đạt tiêu chuẩn quốc tế; Đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động kiểm nghiệm, tư vấn, chứng nhận chất lượng vật tư nông nghiệp, an toàn thực phẩm nông lâm thủy sản.
4. Tổ chức thực hiện
4.1. Các cơ quan thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn
- Cơ quan được phân công chủ trì chịu trách nhiệm xây dựng kế hoạch triển khai từng nhiệm vụ cụ thể để đảm bảo tiến độ, hiệu quả;
- Định kỳ hằng tháng, cơ quan được phân công chủ trì báo cáo Bộ (qua Cục Quản lý Chất lượng Nông lâm sản và Thủy sản) kết quả thực hiện;
- Cục Quản lý Chất lượng Nông lâm sản và Thủy sản chủ trì theo dõi, đôn đốc việc triển khai thực hiện kế hoạch, định kỳ tổng hợp báo cáo Bộ.
4.2. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn:
- Xây dựng, trình Ủy ban Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phê duyệt và tổ chức triển khai kế hoạch Năm cao
63
điểm hành động vệ sinh an toàn thực phẩm trong lĩnh vực nông nghiệp 2017 tại địa phương đảm bảo đúng tiến độ, hiệu quả;
- Định kỳ hằng quý, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn báo cáo Ủy ban Nhân dân tỉnh và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (qua Cục Quản lý Chất lượng Nông lâm sản và Thủy sản) kết quả thực hiện.
4.3. Sơ kết và tổng kết
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì tổ chức sơ kết và tổng kết để đánh giá kết quả triển khai Kế hoạch; thống nhất giải pháp, biện pháp khắc phục các khó khăn vướng mắc trong thực hiện làm cơ sở cho việc triển khai Kế hoạch giai đoạn tiếp theo./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo của Bộ Nông nghiệp và PTNT về tình hình thực thi chính sách pháp luật về quản lý an toàn thực phẩm trong lĩnh vực nông nghiệp giai đoạn 2011 - 2016.
2. Báo cáo của Chính phủ về tình hình thực thi chính sách pháp luật về quản lý an toàn thực phẩm giai đoạn 2011 - 2016.
3. Tài liệu của Trung tâm Thông tin và dự báo kinh tế xã hội
quốc gia (Bộ Kế hoạch và Đầu tư).
64