QT6.2/KHCN1-BM3.2

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH KHOA NÔNG NGHIỆP – THỦY SẢN

ĐỀ TÀI CẤP TRƯỜNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ

THỰC NGHIỆM NUÔI CUA BIỂN (Scylla sp.) TRONG LỒNG NHỎ TẠI TỈNH TRÀ VINH

CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI: LÂM THÁI XUYÊN CÁN BỘ THỰC HIỆN: LÂM THÁI XUYÊN DIỆP THÀNH TOÀN

Trà Vinh, 2/2009

i

LỜI CẢM ƠN

Nhóm tác giả thực hiện đề tài xin chân thành cảm ơn: - Ban Giám Hiệu Trường Đại Học Trà Vinh - Khoa Nông Nghiệp – Thủy sản - Phòng Nghiên cứu Khoa Học và Đào tạo sau đại học - Phòng Kế hoạch - Tài Vụ - Trại Thực nghiệm Nuôi trồng Thủy sản nước mặn …đã tạo điều kiện tốt để hoàn thành nghiên cứu này.

Nhóm tác giả cũng gởi lời cảm ơn đến các đồng nghiệp, các anh chị em tại xã Trường Long Hòa và đặc biệt là em Mai Văn Hoàng, Dương Văn Dân, Hồ Khánh Nam và Lâm Công Bằng đã giúp đỡ nhiệt tình trong thu thập số liệu, chăm sóc cua thí nghiệm và thu hoạch sản phẩm.

ii

Trà Vinh, 22 tháng 2 năm 2009 Nhóm tác giả

TÓM TẮT

iii

Cua biển (Scylla sp.) là loài động vật giáp xác biển có giá trị kinh tế cao, thịt thơm ngon, giàu chất dinh dưỡng được nhiều người ưa chuộng nên được nhiều nơi nuôi. Các mô hình nuôi cua thường là trong ao và lồng tre. Đề tài này gồm 2 thí nghiệm. Thí nghiệm 1 so sánh nuôi cua trong lồng gỗ 1 m2 và lồng nhựa PP 0,05 m2, kết quả trọng lượng cua khác biệt không có ý nghĩa thống kê (P<0,05) nhưng có sự khác biệt lớn về tỷ lệ sống, năng suất và FCR. Thí nghiệm 2 nuôi cua trong lồng nhựa 0,05 m2 với 3 giai đoạn cua khác nhau: 1/ Nuôi cua con thành cua thịt. Kết quả sau 4 tháng cua tăng trọng 3,4 lần so với lúc thả, tỷ lệ sống 18,89%, đạt năng suất 3,69 kg/m2. 2/ Nuôi vỗ béo cua chấm thành cua gạch. Kết quả sau 28 cua tăng trọng 11,23%, tỷ lệ sống 93,33 %, thời gian đầy gạch 18,62 ngày, FCR 2,15 và đạt năng suất 6,59 kg/m2. 3/ Nuôi cua lột. Kết quả cua tăng trưởng 11,83% về CW và 29,68% về trọng lượng, cần 16,3 ngày để thu cua lột xác, tỷ lệ sống 84,35%, tỷ lệ lột xác 79,29% và năng suất 1,87 kg/m2. Kết thúc đề tài còn thu được 28,89 kg cá chẽm và cá rô phi từ việc tận dụng diện tích mặt nước còn lại.

MỤC LỤC

Trang

LỜI CẢM ƠN ..................................................................................................... i TÓM TẮT ......................................................................................................... iii MỤC LỤC......................................................................................................... iv DANH SÁCH BẢNG........................................................................................ vi DANH SÁCH HÌNH ........................................................................................ vii

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT .......................................................................... viii PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ ....................................................................................1 1.1 Giới thiệu ..................................................................................................1 1.2 Mục tiêu đề tài..........................................................................................1 1.3 Nội dung đề tài .........................................................................................1 PHẦN 2: LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU .................................................................3 2.1 Sơ lược về đặc điểm sinh học của cua biển .............................................3 2.1.1 Đặc điểm phân loại ..............................................................................3 2.1.2 Đặc điểm phân bố ................................................................................3 2.1.3 Tập tính sống cua biển .........................................................................4 2.1.4 Đặc điểm dinh dưỡng ..........................................................................4 2.1.5 Lột xác và sinh trưởng .........................................................................5 2.2 Một số yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động sống của cua biển ...................5 2.3 Tình hình nghiên cứu nuôi cua biển........................................................6 2.3.1 Nghiên cứu nuôi cua biển trên thế giới ................................................6 2.3.2 Nuôi cua biển ở Việt Nam ...................................................................8 PHẦN 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU...................................................12 3.1. Thời gian và địa điểm............................................................................12 3.2 Bố trí thí nghiệm ....................................................................................12 3.3 Điều kiện thí nghiệm ..............................................................................13 3.3.1 Nguồn nước và xử lý nước.................................................................13 3.3.2 Môi trường nuôi cua biển...................................................................13 3.3.3 Cua thí nghiệm ..................................................................................13 3.3.4 Lồng nuôi cua....................................................................................14 3.3.5 Thức ăn .............................................................................................14 3.3.6 Thả cá................................................................................................15 3.4 Thu mẫu và xử lý số liệu ........................................................................15 3.4.1 Thu mẫu ............................................................................................15 3.4.2 Xử lý số liệu ......................................................................................15 PHẦN 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN .........................................................16

iv

4.1 Thí nghiệm 1: Nuôi cua biển thương phẩm với các loại lồng khác nhau ......................................................................................................................16

4.1.1 Các yếu tố môi trường .......................................................................16 4.1.2 Tăng trưởng của cua nuôi ..................................................................18 4.1.3 Tỷ lệ sống..........................................................................................20 4.1.4 Năng suất và tiêu tốn thức ăn .............................................................21

4.2 Thí nghiệm 2: Nuôi cua biển trong lồng nhỏ với các giai đoạn khác nhau ..............................................................................................................21 4.2.1 Các yếu tố môi trường .......................................................................21 4.2.2 Tăng trưởng của cua nuôi ..................................................................22 4.2.3 Tỷ lệ sống, tỷ lệ lột xác và năng suất .................................................23 4.2.4 Tiêu tốn thức ăn.................................................................................24 4.2.5 Thu hoạch cá .....................................................................................25 4.2.6 Phân tích hiệu quả kinh tế ..................................................................25 PHẦN 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT .............................................................27 5.1 Kết luận ..................................................................................................27 5.2 Đề xuất....................................................................................................27 TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................................28

v

PHỤ LỤC

DANH SÁCH BẢNG

vi

Bảng 2.1: Tình hình nuôi cua biển tỉnh Trà Vinh năm 2001-2006........................9 Bảng 2.2: Kế hoạch nuôi cua biển tỉnh Trà Vinh năm 2006-2010 ........................9 Bảng 4.1: Biến động các yếu tố môi trường thí nghiệm 1...................................16 Bảng 4.2: Tăng trưởng về chiều rộng mai cua (cm) qua các lần đo ....................18 Bảng 4.3: Tăng trưởng về trọng lượng cua.........................................................19 Bảng 4.4: Diễn biến tỷ lệ sống của thí nghiệm 1 ................................................20 Bảng 4.5: Năng suất và tiêu tốn thức ăn.............................................................21 Bảng 4.6: Các yếu tố môi trường thí nghiệm 2...................................................21 Bảng 4.7: Tăng trưởng của cua trong thí nghiệm 2 ............................................22 Bảng 4.8: Tỷ lệ sống, tỷ lệ lột xác và năng suất thí nghiệm 2.............................23 Bảng 4.9: Tiêu tốn thức ăn thí nghiệm 2 ............................................................25 Bảng 4.10: Kết quả thu hoạch cá chẽm và cá rô phi ...........................................25 Bảng 4.11: Phân tích hiệu quả kinh tế................................................................25

DANH SÁCH HÌNH

vii

Hình 2.1: Vòng đời cua biển theo NIOT ..............................................................4 Hình 2.2: Lồng tre nuôi cua 1 con/lồng theo Cholik và Hanafi (1991) ................7 Hình 2.3: Lồng tre nuôi cua 1 con/lồng ở Ấn Độ theo NIOT ...............................7 Hình 2.4: Xuất khẩu cua biển của Việt Nam năm 2001-2004...............................9 Hình 2.5: Lồng nuôi cua bằng tre và nhựa PP ....................................................11 Hình 3.1: Ao thực hiện thí nghiệm.....................................................................12 Hình 3.2: Các cỡ cua thí nghiệm........................................................................13 Hình 3.3: Lồng gỗ 1 m3 và lồng nhựa 0,006 m3 .................................................14 Hình 3.4: Hệ thống phao nổi..............................................................................14 Hình 3.5: Cân trọng lượng cua...........................................................................15 Hình 3.6: Đo chiều rộng mai cua .......................................................................15 Hình 3.7: Kiểm tra cua gạch ..............................................................................15 Hình 3.8: Ba khía làm thức ăn cho cua ..............................................................15 Hình 4.1: Diễn biến nhiệt độ thí nghiệm 1 .........................................................16 Hình 4.2: Diễn biến pH thí nghiệm 1 .................................................................17 Hình 4.3: Diễn biến oxy thí nghiệm 1 ................................................................17 Hình 4.4: Diễn biến độ mặn thí nghiệm 1 ..........................................................18 Hình 4.5: Diễn biến độ kiềm thí nghiệm 1 .........................................................18 Hình 4.6: Tăng trưởng về chiều rộng mai cua sau 120 ngày nuôi.......................19 Hình 4.7: Tăng trưởng về trọng lượng cua sau 120 ngày nuôi............................20 Hình 4.8: Chiều rộng mai thí nghiệm 2 ..............................................................23 Hình 4.9: Trọng lượng cua thí nghiệm 2 ............................................................23

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

CW: Carapace Wide – Chiều rộng mai cua (cm) TB: Trung bình

ĐBSCL: Đồng Bằng Sông Cữu Long DWG: Day weigh growth: Tăng trưởng tuyệt đối (g/ngày) SGR: Specific growth rate: Tăng trưởng tương đối (%/ngày) TB: Trung bình

viii

FCR: Feed conversion ratio – Tiêu tốn thức ăn NIOT: National Institute of Ocean Technology

PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ

1.1 Giới thiệu Việt Nam có nguồn lợi cua biển phong phú, những năm gần đây do nhu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu tăng nên cùng với nghề khai thác cua tự nhiên, nghề nuôi cua đã phát triển ở nhiều địa phương trong cả nước, mô hình nuôi một vụ cua và một vụ tôm sú được ứng dụng rộng rãi, nó đã đem lại hiệu quả kinh tế cao và phần nào hạn chế được dịch bệnh tôm (Nguyễn Cơ Thạch và ctv, 2004). Cua biển (Scylla sp.) là loài động vật giáp xác biển có giá trị kinh tế cao, thịt ngon, giàu chất dinh dưỡng được nhiều người ưa chuộng. Trước tình hình dịch bệnh tôm ngày càng diễn biến phức tạp, phong trào nuôi cua ngày một phát triển (Trung tâm Khuyến nông Quốc Gia, 2008). Con cua được xem là đối tượng nuôi xoá đói giảm nghèo của bà con ngư dân vùng biển (Nguyễn Ngọc Tú, 2008). Hiện nay, người dân nuôi cua theo nhiều hình thức như nuôi cua ao, nuôi kết hợp hoặc luân canh với tôm sú quảng canh, nuôi kết hợp tôm-cua-rừng, nuôi cua trong lồng ... tùy theo điều kiện vùng nuôi. Sản phẩm thu lại theo mong muốn là cua gạch nhưng cua y, cua chấm, cua đực và cua xô cũng chiếm tỷ lệ khá cao nhưng giá trị thấp nhiều so với cua gạch. Mặt khác, sản phẩm cua lột hiện nay là mặt hàng thực phẩm phổ biến có giá trị xuất khẩu cao, được chế biến thành sản phẩm cua tẩm bột chiên, một món ăn hấp dẫn và quen thuộc đối với thị trường châu Á, xu hướng đang mở rộng sang nhiều thị trường khác trên thế giới (http://www.fishtenet.gov.vn).

Tại Trà Vinh, nghề nuôi cua đang phát triển mạnh do có nguồn giống dồi dào. Hình thức nuôi chủ yếu là nuôi kết hợp và nuôi chuyên trong ao(Hồ Hoàng Hà, 2005). Việc sử dụng lồng để nuôi vỗ béo hay nuôi cua lột chưa được nhiều người nuôi quan tâm vì chưa có mô hình thí điểm. Xuất phát từ thực tế trên và nhằm góp phần phát triển nghề nuôi cua biển thương phẩm, chúng tôi đề xuất đề tài “Thực nghiệm nuôi cua biển (Scylla sp) trong lồng nhỏ tại tỉnh Trà Vinh”.

1.2 Mục tiêu đề tài Mục tiêu chung của đề tài là nâng cao thu nhập cho người dân nuôi cua biển, góp phần xóa đói giảm nghèo, đa dạng hóa đối tượng nuôi và sử dụng một cách có hiệu quả đất nuôi trồng thủy sản ven biển đồng thời góp phần phát triển ngành nuôi trồng thủy sản của tỉnh Trà Vinh. Mục tiêu cụ thể của đề tài là :

(cid:61485) Xây dựng mô hình nuôi cua biển mới hiệu quả cao, dễ áp dụng.

(cid:61485) Nâng giá trị cua thương phẩm trên đơn vị một diện tích.

1

1.3 Nội dung đề tài (1) Nuôi cua biển trong lồng (2) Nuôi cua biển trong lồng nhỏ với các giai đoạn khác nhau.

2

(3) Khảo sát một số chỉ tiêu môi trường nước và sinh trưởng, tỷ lệ sống, tỷ lệ lột xác, năng suất và FCR. (4) Đánh giá hiệu quả mô hình nuôi.

PHẦN 2: LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU

2.1 Sơ lược về đặc điểm sinh học của cua biển 2.1.1 Đặc điểm phân loại Cua biển có tên tiếng Anh là mud-crab, green crab, hay mangrove crab; tên tiếng Việt gọi là cua biển, cua sú, cua xanh, cua bùn, là một trong những hải sản có giá trị cao trong thực phẩm và y dược học (Joachim và Felicitas, 2000; Nguyễn Chung, 2006).

Bằng phương pháp điện di và hình thái giải phẫu, Keenan (1999) đã đi đến kết luận cua biển giống Scylla có 4 loài phân biệt và được định danh trong hệ thống phân loại như sau: Ngành Arthropoda

Ngành phụ Crustacea

Lớp Malacostraca Bộ Decapoda Họ Portunidae Giống Scylla Loài S. paramamosain (Estampador, 1949)

S. serrata (Forskal, 1755) S. olivacea (Herbst, 1796) S. tranquebarica (Fabricius, 1798)

3

2.1.2 Đặc điểm phân bố Cua biển (Scylla sp.) là một trong những đối tượng rất quan trọng của nghề nuôi trồng và khai thác thủy sản ở các vùng nước lợ ven biển, đặc biệt là các nuớc thuộc Ấn Ðộ - Thái Bình Dương (Angell, 1992) bao gồm các nước Ấn Độ, Thái Lan, Trung Quốc, Malaysia, Philippine, Singapore, Úc, Nhật Bản,…là đối tượng nuôi thuỷ sản có giá trị kinh tế ở nhiều nước (Hoàng Đức Đạt, 1995; Nguyễn Cơ Thạch và ctv, 2004; Phạm Thị Tuyết Ngân, 2005). Ở Việt Nam cua biển được khai thác và nuôi ở các tỉnh ven biển như Quảng Ninh, Hải Phòng, Thanh Hóa, Thừa Thiên-Huế, Bà Rịa-Vũng Tàu, TP.HCM, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Minh Hải và Kiên Giang (Hoang Duc Dat, 1999; Vũ Ngọc Út, 2005). Đặc biệt, ĐBSCL với diện tích mặt nước lợ gần 300.000 ha được đánh giá là nơi quan trọng cho cua biển phân bố tự nhiên trong đầm lầy rừng ngập mặn và vùng ven biển cửa sông (Trần Ngọc Hải và ctv, 2003; Vũ Ngọc Út, 2005; Nguyễn Chung, 2006). Theo Keenan và ctv (1998 trích dẫn bởi Phạm Thị Tuyết Ngân và ctv, 2005) ở Việt Nam, đặc biệt là vùng ĐBSCL có hai loài chủ yếu là S.paramamosain và S.olivacea. Loài cua S.paramamosain chiếm ưu thế ở ĐBSCL (Hoang Duc Dat, 1999). Nhưng DANIDA-Bộ Thủy Sản (2003) cho rằng cua biển phân bố rộng ở Việt Nam, đặc biệt vùng triều, cửa sông và rừng ngập mặn, có cả ở châu thổ ĐBSCL và Sông Hồng.

2.1.3 Tập tính sống cua biển Vòng đời cua biển trãi qua nhiều giai đoạn khác nhau và mỗi giai đoạn có tập tính sống, cư trú khác nhau. Thời kỳ phôi thai được cua mẹ mang và phát triển ở vùng ven biển ven bờ, ấu trùng Zoea và Mysis sống trôi nổi và nhờ dòng nước đưa vào ven bờ biến thái thành cua con. Cua con theo thuỷ triều dạt vào vùng nước lợ: những bãi lầy ven bờ biển, cửa sông, nơi có đáy bùn, bùn cát hoặc đất thịt pha cát mịn giàu mùn bã hữu cơ thuộc vùng trung, hạ triều chuyển từ đời sống trong môi trường nước mặn sang nước lợ. Cua bắt đầu sống bò trên đáy và đào hang để sống hay chui rúc vào gốc cây, bụi rậm.Cua đạt giai đoạn thành thục có tập tính di cư ra vùng nước mặn ven biển sinh sản. Cua có khả năng bò lên cạn và di chuyển rất xa. Đặc biệt, vào thời kỳ sinh sản cua có khả năng vượt cả rào chắn để ra biển sinh sản (Hoàng Đức Đạt, 1995; Trần Ngọc Hải và ctv, 1999; DANIDA-Bộ Thủy Sản, 2003). Theo Trần Ngọc Hải và ctv (1999) cua có thể di chuyển trung bình 13 giờ/ngày và gần như suốt đêm. Quãng đường trung bình cua di chuyển trong một đêm là 461 m, dao động 219-910 m. Cua cái có thể bò xa 45 km để tìm bãi đẻ (Lee, 1991). Theo báo cáo của Hyland (1984 trích dẫn bởi Trần Ngọc Hải, 1999) sự phân bố của cua trong tự nhiên có liên quan đến dòng chảy, trong đó, vận tốc nước thích hợp 0,06-1,6 m/giây.

Zoea

Trứng

VÒNG ĐỜI CUA BIỂN

Cua cái

Megalopa

Cua Hình 2.1: Vòng đời cua biển theo NIOT

4

2.1.4 Đặc điểm dinh dưỡng Cua là động vật ăn thịt, thích bắt cá, tôm, động vật hai mảnh vỏ (DANIDA-Bộ Thủy Sản, 2003; Trung tâm khuyến ngư Quốc Gia-Bộ Thủy Sản, 2006). Theo Phạm Thị Tuyết Ngân và ctv. (2005) thức ăn tự nhiên chứa 50% nhuyễn thể, 21% giáp xác, 29% các mảnh vụn hữu cơ, ít khi có cá trong ống tiêu hóa của cua. Tuy nhiên, tập tính dinh dưỡng của cua biến thay đổi tùy theo giai đoạn phát triển.

Giai đoạn ấu trùng cua thích ăn thực vật và động vật phù du. Cua con chuyển dần sang ăn tạp như rong tảo, giáp xác, nhuyển thể, cá hay ngay cả xác chết động vật. Cua con 2-7 cm ăn chủ yếu là giáp xác, cua 7-13 cm thích ăn nhuyễn thể và cua lớn hơn thường ăn cua nhỏ, cá...Cua có tập tính trú ẩn vào ban ngày và kiếm ăn vào ban đêm. Nhu cầu thức ăn của chúng khá lớn nhưng chúng có khả năng nhịn đói 10-15 ngày (Trần Ngọc Hải và ctv, 1999; Nguyễn Chung, 2006; Nguyễn Thanh Bình, 2007; Nguyễn Ngọc Tú, 2008).

2.1.5 Lột xác và sinh trưởng Từ ấu trùng đến trưởng thành cua phải qua nhiều lần lột xác và qua mỗi lần lột xác vừa để sinh trưởng vừa để biến thái, thay đổi về kích thước và hình thái cấu tạo để đạt được hình dạng và cấu tạo thực thụ của cua. Ở giai đoạn ấu trùng và cua bột thời gian giữa các lần lột xác thường ngắn, từ 2-3 ngày hoặc 3-5 ngày. Cua bột 3 ngày tuổi lột xác lần thứ nhất có chiều rộng mai đạt 5 mm và chiều dài mai 3,5 mm. Ở cua giống và trưởng thành thời gian lột xác dài hơn thường lột xác vào chu kỳ của thuỷ triều (Hoàng Đức Đạt, 1995; Nguyễn chung, 2006). Cua biển là loài sinh trưởng không liên tục, được đặc trưng bởi sự gia tăng đột ngột về kích thước và trọng lượng. Cua lột xác để tăng kích thước và quá trình này phụ thuộc rất lớn vào điều kiện dinh dưỡng, môi truờng và giai đoạn phát triển của cơ thể. Theo Triño và ctv (1999), khi nuôi chung cua đực và cua cái thì cua đực tăng trưởng tốt hơn cua cái. Khatun và ctv (2008) nuôi cua S.olivacea đơn tính (cua đực hoặc cua cái) và cả 2 giới tính (cua cái + cua) đực) thì cua đực cũng tăng trưởng tốt hơn cua cái. Cua biển trải qua 12 lần lột xác, khi tuyến sinh dục bắt đầu phát, cua lột xác lần thứ 13 trước khi giao phối (Trung tâm khuyến ngư Quốc Gia-Bộ Thủy Sản, 2006). Cua trưởng thành có khoảng cách giữa 2 lần lột xác từ 20-28 ngày (Khoa Sinh – Trường Đại Học Tổng Hợp Huế, 1994). Quá trình lột xác của cua mang tính đặc trung riêng biệt từng loài. Cua càng lớn thì chu kỳ lột xác càng kéo dài. Ðặc biệt, trong quá trình lột xác, cơ thể của chúng có thể tái sinh những phần phụ bộ đã mất. Ðối với những con cua bị tổn thương, khi mất phần phụ bộ thì cua có khuynh hướng lột xác sớm hơn (Trần Ngọc Hải và ctv, 1999). Tuổi thọ trung bình của cua từ 2-4 năm, qua mỗi lần lột xác trọng lượng cua tăng trung bình 20-50%. Kích thước tối đa của cua biển có thể từ 19-28 cm với trọng lượng từ 1-3 kg/con. Thông thường trong tự nhiên cua có kích cỡ trong khoảng 7,5-10,5 cm. Với kích cỡ tương đương nhau về chiều dài hay chiều rộng thì cua đực nặng hơn cua cái (http://www.vietlinh.com.vn).

5

2.2 Một số yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động sống của cua biển pH: Cua sống phát triển tốt trong nước độ pH trong khoảng 7,5 – 9,2 thích hợp nhất từ 7,5-8,2. Tuy nhiên cua có thể chịu đựng được trong nước có độ pH thấp hơn 6.5 (Hoàng Đức Đạt 1995; Nguyễn Chung, 2006). Theo Munawar và ctv (1998) cần quản lý pH ở mức 7,5-8,5. Độ mặn: Trong tự nhiên, từ giai đoạn cua con trở đi, cua có thể chịu đựng được độ mặn 2-60o/oo (Trần Ngọc Hải và ctv, 1999). Theo Hoàng Đức Đạt (1995), Trần Ngọc Hải và ctv (1999), Nguyễn Chung (2006) cua có khả năng thích ứng cao

với sự thay đổi độ mặn của nước. Cua có thể sống trong vùng nước gần như ngọt cho đến độ mặn trên 33o/oo. Nhưng trong thời kỳ đẻ trứng, ấp trứng và thời kỳ ấu trùng, cua đòi hỏi độ mặn từ 28 – 32%o. Tuy nhiên, theo Trung tâm Khuyến ngư Quốc Gia-Bộ Thủy Sản (2006) cua biển sống, sinh trưởng và phát triển tốt trong độ mặn từ 5-33,2o/oo và phù hợp nhất 13,7-26,9o/oo. DANIDA-Bộ Thủy Sản (2003) cho rằng giới hạn độ mặn để cua sống và phát triển từ 2-35o/oo. Nhiệt độ nước: Cua biển là loài chuyên sống ở đáy, thích ứng với nhiệt độ rộng (Trung tâm khuyến ngư Quốc Gia-Bộ Thủy Sản, 2006). Ở vùng biển phía nam nước ta cua biển thích nghi với nhiệt độ nước từ 25 – 29 0C. Nhiệt độ cao thường ảnh hưởng xấu đến các hoạt động sinh lý của cua, là một trong nhưng nguyên nhân gây chết (Hoàng Đức Đạt, 1995). Theo Nguyễn Chung (2006) cua phát triển tốt ở nhiệt độ 25-29 0C, chịu đựng nhiệt độ thấp dưới 10-15 0C, nhiệt độ trên 32 0C sẽ ảnh hưởng đến các hoạt động sinh lý và có thể làm cua chết. Tuy nhiên theo Trung tâm khuyến ngư Quốc Gia-Bộ Thủy Sản (2006) nhiệt độ thích hợp 18-32 0C, nhiệt độ dưới 18 0C cua giảm hoạt động và giảm bắt mồi, nhiệt độ 7 0C cua dừng hoạt động hoàn toàn, vùi mình trong bùn chỉ để lộ 2 mắt và rơi vào trạng thái ngủ, nhiệt độ 5 0C cua sống được 4-5 ngày, nếu nhiệt độ nước cao đến 35 0C cua nằm ngửa và dơ chân bò lên trời để phần bụng không tiếp xúc với bùn đất hoặc năm bò trên bãi bùn. Nhiệt độ nước lên đến 39 0C, mai cua xuất hiện những chấm đỏ xám, cua yếu dần rồi chết. Nhu cầu oxy hoà tan: Hàm lượng oxy hoà tan lớn hơn 2 mg/l, cua bắt mồi rất nhiều. Khi hàm lượng oxy hoà tan nhỏ hơn 1 mg/l, cua phản ứng chậm chạp, không bắt mồi, xuất hiện nổi đầu, thậm chí chết. Khi cua lột xác, yêu cầu hàm lượng oxy hòa tan rất cao, nếu không đủ oxy việc lột xác không thuận lợi, cua sẽ chết (Trung tâm khuyến ngư Quốc Gia-Bộ Thủy Sản, 2006). Ðịch hại của cua: Theo Hoàng Ðức Ðạt (1995) cua có nhiều địch thủ lợi hại: Cua ăn thịt lẫn nhau. Ngoài ra, còn có rất nhiều loài dịch hại khác gây hại đến cua, tùy mỗi giai đoạn cua sẽ có từng loại dịch hại khác nhau bao gồm nhiều loài động vật sống trong nước, trên cạn như các loài cá dữ, chim ăn thịt, chuột, rắn,…

6

2.3 Tình hình nghiên cứu nuôi cua biển 2.3.1 Nghiên cứu nuôi cua biển trên thế giới Trên thế giới, nuôi cua biển đã phát triển ở Trung Quốc từ hơn 100 năm và hơn 30 năm tại các nước Châu Á khác (Keenan, 1999). Rất nhiều báo cáo về nuôi cua được đề cập tại hội thảo về nuôi và thương mại cua biển tổ chức tại Swat Thani, Thái Lan năm 1991 như Báo cáo về nuôi, thương mại và định hướng phát triển cua biển ở vịnh Bengal của Sivasubramaniam và Angell; Báo cáo về sinh học và nuôi cua biển ở Queensland của Lee; nuôi cua biển ở Philippines của Jericardo và Mondgagon; về nuôi vỗ béo cua ở Sri Lanka (Silva), ở Thái Lan (Rattanachote và Dangwatanakul), ở Malaysia (Liong); nuôi cua biển trong ao ở Sri Lanka của Samarasinghe và ctv…Đặc biệt báo cáo về khai thác và nuôi cua biển ở Indonesia của Cholik và Hanafi. Trong đó ý tưởng nuôi vỗ béo cua 1 con/lồng 0,025 m2 dùng để nuôi vỗ lên cua gạch đã được trình bày, hệ thống này nuôi được 40 con cua/1 m2... cũng

với ý tưởng này, Zafar (2005) ở Bangladesh lồng tre 7 m x 3 m x 1 m, phân ra 60 ô nhỏ, mỗi ô nuôi 1 con. Theo NIOT ở Ấn Độ nuôi cua vỗ béo 1 con/lồng tre 1m x 1m x 0,2 m.

Hình 2.2: Lồng tre nuôi cua 1 con/lồng theo Cholik và Hanafi (1991)

7

Hình 2.3: Lồng tre nuôi cua 1 con/lồng ở Ấn Độ theo NIOT Theo Keenan (1999) trên thế giới có 2 cách nuôi cua cơ bản là nuôi vỗ béo và nuôi cua thịt. Các nước có nghề nuôi cua phát triển như Srilanka, Thái Lan, Malaysia, Phillipine, Đài Loan… Tuy nhiên, theo Khoa Sinh-Trường Đại học Tổng Hợp Huế (1994), Hoàng Đức Đạt (1995), Doan Van Dau et al (1998), Hoang Duc Dat(1999) ở Việt Nam ngoài 2 cách thức trên còn có hình thức nuôi cua lột. Nuôi cua vỗ béo: Tại Malaysia , Tan (1999) tổng kết nuôi vỗ béo cua cần 10-20 ngày để đạt kích cỡ xuất bán trên 150 g. Tuy nhiên, tại Thái Lan, Rattanachote và Dangwatanakul (1991) thời gian là 20-30 ngày với tỷ lệ sống 85,20-93,77%. Nghiên cứu của Liong (1991) trong ao và lồng tre chỉ cần sau 2-14 ngày là cua đầy gạch với tỷ lệ sống 60-80% (trong lồng) và 50-80% (trong ao). Theo Hoang Duc Dat (1999) trong điều kiện Việt Nam nuôi vỗ béo cần 25-35 ngày với mật độ 0,5-1 kg/m2 trong ao và 10-25 kg/m2 trong lồng. Về trọng lượng tăng thêm sau vỗ béo: Theo Ladra (1991) ở Philippine nuôi trong ao và lồng tre (140 x 70 x 25 cm). Trọng lượng tăng thêm 110 g sau 15-30 ngày nuôi. Nghiên cứu của Silva (1991) ở Sri Slanka nuôi vỗ trong bể ximăng (4 x 4 x 1m) trọng lượng cua tăng 62,83% sau 62 ngày nuôi và 96 g sau 35 ngày nuôi trong ao nuôi tôm 0,4 ha.

Về nuôi cua thịt trong ao: Tại Ấn Độ, Munawar và ctv (1998) nuôi cua S. tranquebarica trọng lượng 80-100 g/con, mật độ 1-5 con/m2 nuôi 4 tháng đạt 400-500 g/con, nuôi 7 tháng đạt 800-1.000 g/con. Tỷ lệ sống đạt 70-80%. Christensen và ctv (2004) nuôi cua trong ao ở ĐBSCL, Việt Nam từ 120-186 ngày đạt kích cỡ 200-300 g/con. Tại Indonesia, Cholik (1999) thí nghiệm nuôi cua với 3 mật độ 1, 3 và 5 con/m2 trong 6 ao 96 m2 sau 90 ngày cua đạt kết quả tương ứng 146, 159 và 158 g/con với tỷ lệ sống 81,2%, 43,1% và 32,9%. Một vấn đề cũng được một số tác giả nghiên cứu là so sánh nuôi cua đực và cái riêng. Báo cáo mới nhất về vấn đề này là của Khatun và ctv (2008) ở Bangladesh so sánh tăng trưởng loài cua S.olivacea nuôi đơn tính (cua đực hoặc cua cái) và cả 2 giới tính (cua cái + cua) đực) trong lồng tre với mật độ (0,5 con/m2) cho thấy: Sau 100 ngày nuôi cua đạt 80-120g/con. Mô hình nuôi cua toàn đực có tốc độ tăng trưởng khác biệt có ý nghĩa thống kê so với nuôi toàn cái, trong khi đó mô hình cua đủ 2 giới tính tốc độ tăng trưởng khác biệt không có ý nghĩa thống kê so với nuôi toàn đực và toàn cái. Trước đó, Trino và ctv (1999) dùng cua S.serrata thí nghiệm với 3 mật độ 0,5, 1,5 và 3 con/m2 với đực và cái riêng. Kết quả có sự khác biệt giữa mật độ nuôi và giới tính cua (P<0,05)…

2.3.2 Nuôi cua biển ở Việt Nam 2.3.2.1 Tình hình nuôi cua biển Nghề nuôi cua biển của Việt Nam bắt đầu từ đầu những năm 1980. Cua biển Việt Nam dồi dào giá thấp hấp dẫn nên các công ty ở Hồng Kông, Đài Loan đến mua. Khi sản lượng khai thác cua tự nhiên giảm sút nhưng lợi nhuận hấp dẫn nên ở Cà Mau, Bạc Liêu, Bến Tre nhiều người đã bắt cua giống, cua ốp ngoài thiên nhiên về thả nuôi (Nguyễn Chung, 2006). Năm 1993, Việt Nam đã đạt sản lượng nuôi 3.800 tấn trên diện tích 1.600 ha (Doan Van Dau et al, 1998). Tuy nhiên, sau đó (1993) xu hướng nuôi cua bị lấn át bởi phong trào nuôi tôm sú vì lợi nhuận cao hơn rất nhiều lần so với nuôi cua. Nhiều người phát lên nhờ tôm sú nhưng cũng nhiều người đã và đang lận đận vì con tôm sú. Vì vậy, nhiều hộ ngư dân nay lại trở về với nghề nuôi cua biển. Theo số liệu điều tra năm 1995 thì ÐBSCL có trên 3.000 ha nuôi cua với sản luợng trên 1.600 tấn/năm (Trần Ngọc Hải và ctv, 2003). Theo DANIDA-Bộ Thủy Sản (2003) cua được nuôi rộng rãi khắp các tỉnh ven biển đặc biệt vùng cửa sông Châu thổ phía Bắc (Thái Bình, Hải Phòng, Nam Định) và các tỉnh Duyên Hải Nam Bộ. Năng suất nuôi cua đạt 1.000 kg/ha/vụ.

8

Năm 2004, khối lượng cua biển xuất khẩu Việt Nam đạt gần 6000 tấn, giá trị hơn 25 triệu USD (http://www.fishtenet.gov.vn).

Nguồn: http://www.fishtenet.gov.vn

Hình 2.4: Xuất khẩu cua biển của Việt Nam năm 2001-2004 Tại ĐBSCL, theo điều tra của Vũ Ngọc Út (2005) có 8 tỉnh nuôi cua: Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Kiên Giang, Tiền Giang, Bến Tre và Long An. Ở Tiền Giang, phong trào nuôi cua còn rất kém phát triển, chỉ rải rác ở huyện Gò Công. Trong khi đó, Long An là địa phương duy nhất có mô hình nuôi cua lột rất phát triển ở huyện Cần Giuộc. Sóc Trăng, Kiên Giang và Bến Tre là các địa bàn có hình thức nuôi cua đơn trong ao phổ biến và một số hình thức nuôi kết hợp cua-tôm và cua-tôm-rừng. Cà Mau và Bạc Liêu phổ biến nhất với các mô hình (ngoại trừ nuôi cua lột), trong đó kết hợp cua-tôm và cua-tôm-rừng là chủ lực. Ở Trà Vinh, nghề nuôi cua biển đã hình thành và phát triển ở 4 địa phương ven biển của tỉnh, đặc biệt nuôi nhiều ở huyện Duyên Hải, mang lại nhiều thu nhập cho người dân và cũng là đối tượng “cứu cánh” cho nhiều người nuôi tôm sú thất bại (Hồ Hoàng Hà, 2005). Diện tích nuôi cua biển của tỉnh Trà Vinh không ngừng được mở rộng. Bảng 2.1: Tình hình nuôi cua biển tỉnh Trà Vinh năm 2001-2006 Nguồn Sản lượng (tấn) Năm

Diện tích (ha) 350 1.356 1.329 3.300 3.681 6.171

2001 2002 2003 2004 2005 2006

450 387 870 1.196 1.875 1.684

Hồ Hoàng Hà, 2005 Sở Thủy Sản Trà Vinh, 2007 Hồ Hoàng Hà, 2005 Sở Thủy Sản Trà Vinh, 2005 Sở Thủy Sản Trà Vinh, 2007 Sở Thủy Sản Trà Vinh, 2007

2007 4.050

2008 4.100

2006 4.000

2010 4.200

Năm Diện tích

Nguồn : Hồ Hoàng Hà, 2005

Bảng 2.2: Kế hoạch nuôi cua biển tỉnh Trà Vinh năm 2006-2010 2009 4.150

9

2.3.2.2 Nghiên cứu về cua biển ở Việt Nam Nguồn giống cung cấp cho nghề nuôi cua biển ở nước ta chủ yếu là bắt từ tự nhiên (Nguyễn Cơ Thạch và ctv; Vũ Ngọc Út, 2005). Cua giống tự nhiên thường được vận chuyển xa từ địa bàn nuôi và qua nhiều thương lái nên khi về đến ao nuôi thường yếu và có tỉ lệ tỷ lệ sống thấp (Vũ Ngọc Út, 2005). Tuy nhiên, cua sản xuất nhân tạo cũng đã được nuôi thử nghiệm thành công. Theo Trung tâm

10

Khuyến Nông Quốc Gia (2008) cua bột có kích thước 0,5-0,7 cm được ương trong giai đặt trong ao đất lên giống 2-3 cm. Sau đó thả nuôi trong ao với mật độ thả 1 con/m2. Sau gần 6 tháng nuôi, cua đạt tỷ lệ sống trên 60%, năng suất đem lại gần 1,2 tấn cua/ha, giá bán 80.000 đồng/kg cua thương phẩm 250-350 g/con, sau khi trừ các khoản chi phí, lợi nhuận hơn 30 triệu đồng/ha”. Về hình thức nuôi: theo Doan Van Dau et al (1998), Hoang Duc Dat (1999) gồm có nuôi cua thịt, nuôi cua vỗ béo và nuôi cua lột. Tuy nhiên, theo Vũ Ngọc Út (2005) nuôi cua được phát triển dưới các hình thức như nuôi cua đơn (trong ao), nuôi cua kết hợp với tôm (cua-tôm) hoặc cua kết hợp với tôm trong rừng (cua- tôm-rừng). Với hình thức nuôi cua đơn thì có các mô hình nuôi cua thịt (từ con giống lên kích thước thương phẩm), nuôi cua gạch và nuôi cua lột. Ý tưởng nuôi cua trong hộp nhựa PP tại Việt Nam được Nguyễn Chung (2006) đề cập đến trong sách “Kỹ thuật sản xuất giống và nuôi ghẹ xanh, cua biển” trên cơ sở tài liệu kỹ thuật nuôi ghẹ xanh của Thái Lan và nuôi cua lột của Việt Nam. Về nuôi cua lột: đây là một loại cua thương phẩm đặc biệt và có giá trị cao (Hoàng Đức Đạt, 1995; Nguyễn Chung, 2006). Mô hình nuôi cua lột rất phát triển ở huyện Cần Giuộc – Long An từ 1998 (Cửu Long, 2003; Vũ Ngọc Út, 2005). Năm 2000 có hơn 500 tấn cua lột thương phẩm tiêu thụ trong nước và xuất khẩu (Nguyễn Chung, 2006). Trên thế giới chưa có nhiều báo cáo về nuôi cua lột. Tại Việt Nam, năm 1994, Khoa Sinh-Trường Đại học Tổng Hợp Huế đã đề cập đến kỹ thuật này. Năm 1995, Hoàng Đức Đạt đề cập đến trong sách “Kỹ thuật nuôi cua biển”. Năm 1999, trong báo cáo tại Hội nghị Sinh học và nuôi cua biển tại Australia, Hoang Duc Dat mô tả: sử dụng cua 30-60 g, bẻ càng và chân bò chỉ chừa 2 chân chèo. Cho cua vào lồng tre (1,5m x 1m x 0,25m) hoặc ao, sau 11-20 ngày có thể thu sản phẩm cua lột. Trước đó, kỹ thuật này được Doan Van Dau et al báo cáo tại Hội nghị quốc tế về nuôi cua tại Philippine năm 1998 nhưng với cỡ cua 50-100 g với mật độ (ao hoặc lồng) 10-12 kg/m2 và thời gian cua lột xác là 20-30 ngày. Năm 2006, Trần Ngọc Hải và ctv đã phát triển kỹ thuật nuôi cua lột trong bể composite với hệ thống tuần hoàn. Theo Nguyễn Chung (2006) ngoài các hình thức nuôi cua lột truyền thống có thể phát triển cách nuôi cua lột trong lồng nhựa PP. Về nuôi cua vỗ béo: là nuôi cua thương phẩm còn ốp (ít thịt, chưa đầy gạch) để tạo thành cua y (cua chắc, nhiều thịt) và cua gạch để bán giá cao hơn (Prinpanapong và Youngwanichsaed, 1991). Ý tưởng này được Khoa Sinh – Trường Đại Học Tổng Hợp Huế đề cập năm 1994. Có thể thuật ngữ “nuôi cua vỗ béo” được đề cập ở Việt Nam từ tài liệu này. Hoàng Đức Đạt (1995), Doan Van Dau et al el al (1998), Đoàn Văn Đẩu (1998), Hoang Duc Dat (1999)… là những tác giả tiếp theo đề cập đến vấn đề nuôi vỗ béo cua trong hệ thống lồng tre. Ý tưởng nuôi cua vỗ béo trong lồng nhựa PP 0,05 m2 chỉ được Nguyễn Chung đề cập đến năm 2006. Về nuôi cua thịt, có nhiều báo cáo đề cập đến. Một trong những sách viết về nuôi cua biển đầu tiên tại Việt Nam là cuốn “Kỹ thuật nuôi cua” của Vụ quản lý khoa học kỹ thuật–Bộ Thủy Sản xuất bản tháng 1/1991. Năm 1994, Khoa Sinh-Trường Đại học Tổng Hợp Huế xuất bản sách “Kỹ thuật nuôi và vỗ béo cua biển” phục vụ cho Chương trình Quốc tế EC về tái hòa nhập người Việt Nam hồi hương.

NIOT

Năm 1995, Hoàng Đức Đạt đã tập hợp các công trình nghiên cứu về cua biển và viết sách “Kỹ thuật nuôi cua biển” đến nay vẫn còn giá trị tham khảo. Các nghiên cứu tiếp theo của Hoàng Đức Đạt về các mô hình nuôi cua ở Việt Nam được trình bày tại các hội nghị quốc tế về Sinh học và nuôi cua biển tại Australia năm 1999, của Doan Van Dau et al tại Hội thảo quốc tế về cua biển tại Phillipine năm 1998 về nuôi cua giống Scylla ở Việt Nam. Đoàn Văn Đẩu và ctv (1998) công bố báo cáo “Kết quả nghiên cứu sinh trưởng và sinh sản của cua biển (Scylla serrata) nuôi trong đầm nước lợ” trong Tuyển tập các công trình nghiên cứu cá biển (tập 1)-Viện nghiên cứu Hải Sản-Bộ Thuỷ Sản. Nghiên cứu này đề cập chi tiết về các yếu tốt môi trường, sinh trưởng…bằng thực nghiệm tại ao. Các tác giả nước ngoài nghiên cứu về nuôi cua ở Việt Nam nổi bật nhất là Johnston và Keenan với khảo sát “Nuôi cua biển tại Minh Hải, Việt Nam”. Đề tài này được trình bày năm 1999 ở Hội nghị quốc tế về Sinh học và nuôi cua biển tại Australia – tại hội nghị này Keenan đã trình bày hoàn chỉnh về phân loại cua biển trên thế giới trong đó có cua biển ở Việt Nam. Các nghiên cứu về cua biển đã, đang và sẽ tiếp tục nhằm các cải tiến năng suất, tỷ lệ sống và hiệu quả nghề nuôi, đặc biệt khi xu hướng phát triển nuôi cua của người dân đã trở lại (do nuôi tôm sú thất bại) và con giống sản xuất nhân tạo ngày càng nhiều thêm. Nghiên cứu về hình thức nuôi cua 1 con/lồng như ở Indonesia và Bangladesh nhằm kiểm chứng lại và phát triển thêm mô hình nuôi cua mới của Trà Vinh và Việt Nam.

11

Hình 2.5: Lồng nuôi cua bằng tre và nhựa PP

PHẦN 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.1. Thời gian và địa điểm - Thời gian: Từ tháng 01/2008 – 01/2009 - Địa điểm: Trại Thực nghiệm Nuôi trồng Thủy sản nước mặn, Khoa Nông Nghiệp - Thủy Sản, Trường Đại học Trà Vinh - Ấp Ba Động, Xã Trường Long Hòa, Huyện Duyên Hải, Tỉnh Trà Vinh.

3.2 Bố trí thí nghiệm Đề tài gồm 2 thí nghiệm :

Thí nghiệm 1: Nuôi cua biển thương phẩm với các loại lồng khác nhau Thí nghiệm được bố trí khối hoàn toàn ngẫu nhiên trong lồng lớn (1 m2) và lồng nhỏ (0,05 m2), 3 lần lập lại ở mỗi nghiệm thức: - Nghiệm thức 1 (NT1) : nuôi cua trong lồng nhỏ - Nghiệm thức 2 (NT2): nuôi cua trong lồng lớn Các lồng thí nghiệm được đặt trong ao đất. Mật độ thả cua là 1 con/lồng nhỏ, 30 con/lồng lớn. Cỡ cua là cua giống lớn 40 -60 g/con. Thời gian nuôi 3-4 tháng. Số mẫu cua của nghiệm thức 1 là 90 con. Lồng được cố định bằng tầm vong và hệ thống làm nổi. Các số liệu cần theo dõi: môi trường nước, tăng trưởng cua, tỷ lệ sống, thức ăn.

Hình 3.1: Ao thực hiện thí nghiệm

12

Thí nghiệm 2: Nuôi cua biển trong lồng nhỏ với các giai đoạn cua khác nhau Thí nghiệm được bố trí khối hoàn toàn ngẫu nhiên với 3 lần lặp lại: - Nghiệm thức 1 (NT1): Nuôi từ cua nhỏ lên cua thương phẩm. - Nghiệm thức 2 (NT2): Nuôi cua chấm lên cua gạch. - Nghiệm thức 3 (NT3): Nuôi cua lột.

Tổng số lồng cua trong các nghiệm thức 1 là 90 lồng, nghiệm thức 2 là 60 lồng, nghiệm thứ 3 là 90 lồng. Lồng được cố định bằng tầm vong và phao nổi. Sử dụng lưới lan và nhà lá để che nắng khu vực thí nghiệm. Mật độ 1 con/lồng. Các cỡ cua thí nghiệm: NT1: cua giống lớn 40-60 g/con, NT2: cua chấm trọng lượng từ 100-200 g/con, NT3: trọng lượng cua 50-100 g/con. Thời gian nuôi 1-4 tháng. Các số liệu cần theo dõi là: môi trường nước, tăng trưởng cua, tỷ lệ sống, tỷ lệ lột xác, thức ăn.

3.3 Điều kiện thí nghiệm 3.3.1 Nguồn nước và xử lý nước Các lồng thí nghiệm được bố trí trong ao 1.200 m3, độ sâu 1,2 m, chủ động cấp thoát nước và được xử lý nước bằng Clorine 30 ppm trước bố trí thí nghiệm.

3.3.2 Môi trường nuôi cua biển

Môi trường nuôi cua biển đảm bảo các điều kiện sau: - Nhiệt độ thích hợp 25-30 0C. - pH thích hợp 7,5 – 9,2, thích hợp nhất: 7,5-8,2. - Độ mặn: 2-38 ‰. - Thay nước theo con nước

3.3.3 Cua thí nghiệm Nguồn cua thí nghiệm được mua từ cua đánh bắt từ tự nhiên. Cua lớn được thu mua từ chợ hoặc ao nuôi.

Hình 3.2: Các cỡ cua thí nghiệm

13

Trong các thí nghiệm, cua được thuần dưỡng 7 ngày để quen với điều kiện thí nghiệm sau đó mới tiến hành bố trí thí nghiệm.

3.3.4 Lồng nuôi cua Thông thường lồng (lớn) nuôi cua được làm từ ván gỗ tạp. Tùy theo điều kiện nuôi mà lồng được làm lớn hay nhỏ, thông thường 0,5 – 2 m3/lồng. Trong nghiên cứu này là lồng 1 m3. Lồng nhỏ được làm từ nhựa PP chịu được môi trường nước mặn và nắng, có màu đen dày 2 mm. Lồng có kích cỡ 18 x 28 cm chia làm 2 phần: phần nắp nằm trên mặt nước cao 6 cm và phần đáy chìm trong nước cao 12 cm. Nắp lồng có lỗ 3 x 3 cm để cho thức ăn vào. Lồng này có thể sử dụng 2-4 năm.

Hình 3.3: Lồng gỗ 1 m3 và lồng nhựa 0,006 m3 Các lồng lớn được đặt xuống ao với độ ngập nước 0,7 m và được cố định bằng các cây tầm vong. Hệ thống phao nổi được làm bằng 6 ống PVC Ø 42 ghép lại, khoảng cách giữa các ống PVC là 30 cm và đặt trong ao mực nước sâu 1,2 m. Để tránh gió thổi dạt, hệ thống này được cố định bằng cây tầm vong. Một hệ thống phao nổi 8 m x 1,5 m bố trí được 400 lồng nhỏ. Sử dụng lưới lan và nhà lá để che nắng khu vực thí nghiệm.

Hình 3.4: Hệ thống phao nổi

14

3.3.5 Thức ăn Trong nghiên cứu này, thức ăn nuôi cua là tôm tép tạp, còng, hến và cá tạp (gọi chung là cá tạp) được mua từ chợ Trường Long Hòa và Long Hữu.

3.3.6 Thả cá Nhằm tận dụng diện tích còn lại của ao, cá chẽm được thả vào ao với số lượng là 400 con kích cỡ 4-5 cm, trọng lượng 3 g/con. Cá rô phi giống 300 con/kg được thả vào ao với số lượng 10 kg để làm thức ăn cho cá chẽm. Thời gian thả cá chẽm ngay khi bắt đầu thí nghiệm 1 và thu hoạch khi kết thúc thí nghiệm 2. Khi thu hoạch cá chỉ cân trọng lượng tổng và đếm số con để tính trọng lượng trung bình.

3.4 Thu mẫu và xử lý số liệu 3.4.1 Thu mẫu Mẫu nước - pH, Oxy hoà tan và nhiệt độ: đo 2 lần/ ngày vào lúc 6 giờ 30 và 14 giờ. - Độ kiềm, Độ mặn, NH3: 7 ngày đo 1 lần

Hình 3.6: Cân trọng lượng cua

Hình 3.7: Đo chiều rộng mai cua

Hình 3.8: Kiểm tra cua gạch

Hình 3.9: Ba khía làm thức ăn cho cua

Mẫu cua Mẫu cua được cân, đo 15 ngày/lần, sau đó được thả về vị trí thu.

15

3.4.2 Xử lý số liệu Số liệu được xử lý bằng chương trình Microsoft Excel 2003 và xử lý thống kê bằng SPSS 13.0.

PHẦN 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

4.1 Thí nghiệm 1: Nuôi cua biển thương phẩm với các loại lồng khác nhau 4.1.1 Các yếu tố môi trường Sau 120 ngày ghi nhận, kết quả biến động các yếu tố môi trường ở thí nghiệm 1 được trình bày ở Bảng 4.1, Hình 4.1, Hình 4.2, Hình 4.3, Hình 4.4 và Hình 4.5. Bảng 4.1: Biến động các yếu tố môi trường thí nghiệm 1

pH

Độ mặn

Độ kiềm (mgCaCO3/l) 87,3±6,59

NH3 (mg/l) 0

14,35±1,42

Nhiệt độ (0C) 27,27±0,82 29,48±0,96 28,38±0.89

Oxy hòa tan (mg/l) 4,35±0,38 5,09±0,41 4.72±0,36

7,56±0,25 7,93±0,28 7,75±0,27

14,35±1,42

87,3±6,59

0

Sáng Chiều TB Nhiệt độ trong ngày dao động khoảng 27,27-29,48 0C, trung bình 28,38 0C. Theo Hoàng Đức Đạt (1995) ở vùng phía Nam nước ta cua biển thích nghi với nhiệt độ nước từ 25 – 29 0C. Nhiệt độ cao thường ảnh hưởng xấu đến các hoạt động sinh lý của cua, là một trong nhưng nguyên nhân gây chết cua. Như vậy nhiệt độ thu được nằm trong khoảng phù hợp cho sự sinh trưởng tốt cho cua nuôi.

31

30

)

29

C 0 (

28

27

26

25

ộ đ t ệ i h N

24

23

1

8

15 22 29 36 43 50 57 64 71 78 85 92 99 106 113 120

Thời gian

16

Hình 4.10: Diễn biến nhiệt độ thí nghiệm 1 pH thu được dao động không lớn từ 7,56-7,93 (Hình 4.2). Theo Nguyễn Chung (2006) pH cho cua sống và phát triển tốt ở 7,5-9,2 và cua chịu được pH <6,5. Giá trị pH thu được rất phù hợp cho nuôi cua biển. Khi cua biển lột xác, yêu cầu hàm lượng oxy hòa tan cao, nếu không đủ oxy việc lột xác không thuận lợi, cua sẽ chết. Bình thường cần lớn hơn 2 mg/l là phù hợp (Trung tâm khuyến ngư Quốc Gia-Bộ Thủy Sản, 2006). Giá trị oxy hòa tan đo được từ 4,35 – 5,09 (Hình 4.3). Kết quả này do ao nuôi được cải tạo kỹ, lồng nuôi đặt gần mặt nước, thời gian thí nghiệm rất ít mưa và định kỳ 2 tuần thay nước nên giá trị oxy này rất tốt cho các hoạt động sinh lý và lột xác. Kết quả này cũng phù hợp với nhận định của Doan Van Dau et al (1998) oxy hòa tan nuôi cua biển thích hợp trong khoảng 4-6 mg/l.

9

8.5

8

H p

7.5

7

6.5

1

8 15 22 29 36 43 50 57 64 71 78 85 92 99 106 113 120

Thời gian

6

5

4

Hình 4.11: Diễn biến pH thí nghiệm 1

) l /

3

(

.

2

g m O D

1

0

1

8 15 22 29 36 43 50 57 64 71 78 85 92 99 106 113 120

Thời gian

17

Hình 4.3: Diễn biến oxy thí nghiệm 1 Kết quả cho thấy, trong thời gian nuôi độ mặn dao động 13-17o/oo(Hình 4.4), trung bình 14,35o/oo. Theo Hoàng Đức Đạt (1995) cua có khả năng thích ứng cao với sự thay đổi độ mặn của nước. Cua có thể sống trong vùng nước gần như ngọt cho đến độ mặn trên 33o/oo tuy nhiên độ mặn thích hợp là 15-25 o/oo. Như vậy, độ mặn trên là thích hợp để nuôi cua biển. Độ kiềm và NH3 là 2 yếu tố theo dõi quan trọng trong nuôi tôm sú nhưng trong nuôi cua biển chưa thấy nhiều tài liệu đề cập đến. Kết quả ghi nhận độ kiềm đạt 87,3±6,59, NH3 = 0 mg/l. Theo Boyd (1990) độ kiềm và NH3 thích hợp cho nuôi thủy sản nước lợ, mặn là 75-125 mg/l và <0,1 mg/l. Với nhận định trên, kết quả độ kiềm và NH3 đo được cũng phù hợp với nuôi cua biển. Dao động độ kiềm thể hiện ở Hình 4.5.

20

15

10

n ặ m ộ Đ

5

0

1

2

3

4

5

6

7

8

9 10 11 12 13 14 15 16 17 18

Tuần

100

80

60

Hình 4.4: Diễn biến độ mặn thí nghiệm 1

) l / 3 O C a C g m

(

40

20

m ề i k ộ Đ

0

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10 11 12 13 14 15 16 17 18

Tuần

Hình 4.5: Diễn biến độ kiềm thí nghiệm 1

Các giá trị trung bình trong cùng một hàng có chữ cái giống nhau thì khác nhau không có ý nghĩa thống kê (P>0,05)

18

4.1.2 Tăng trưởng của cua nuôi Kết quả ghi nhận tăng trưởng chiều dài và trọng lượng sau 120 ngày nuôi trong lồng được trình bày ở Bảng 4.2, Bảng 4.1, Hình 4.6 và 4.7 Bảng 4.2: Tăng trưởng về chiều rộng mai cua (cm) qua các lần đo NT1 6,62±0,38a 7,08±0,31a 7,53±0,29a 7,85±0,23a 8,43±0,48b 8,86±0,58a 9,13±0,58a 9,55±0,40a 9,69±0,45a NT2 6,41±0,66a 6,69±0,66a 7,05±0,72a 7,33±0,52a 7,71±0,46a 8,15±0,41a 8,56±0,37a 9,08±0,63a 9,40±0,51a Ngày 0 15 30 45 60 75 90 105 120

NT1

NT2

12.00

10.00

m)

8.00

6.00

4.00

c ( a u c i a m g n ộ r u ề i h C

2.00

0.00

0 ngày

15 ngày

30 ngày

45 ngày

60 ngày

75 ngày

90 ngày

105 ngày

120 ngày

Thời gian

Hình 4.12: Tăng trưởng về chiều rộng mai cua sau 120 ngày nuôi Qua Bảng 4.2 và Hình 4.6 cho thấy, tăng trưởng về chiều rộng mai cua NT1 và NT2 qua nhiều lần đo khác biệt không có ý nghĩa thống kê (P>0,05), chỉ lần đo vào ngày 60 sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (P<0,05). Sau 120 ngày nuôi đạt trung bình chiều rộng mai cua dao động 9,40-9,69 cm. Tuy nhiên trong suốt chu kỳ nuôi NT1 tăng trưởng nhanh hơn NT2, đặc biệt trong khoảng 60-75 ngày mức chênh lệch nhiều nhất. Theo Khoa Sinh – Trường Đại Học Tổng Hợp Huế (1994) mức tăng trưởng hàng tháng trong ao đất là 1,4 cm và 29 g/con. Theo Cerezo (1998) nuôi cua trong lồng tre từ cỡ CW=6,3 cm trong 87 ngày tăng lên CW=8,5 cm. Triño và Rodriguez (1998a) nuôi cua trong mô hình có rừng đước sau 160 ngày CW đạt được 11,55-11,71 cm. Ngoài tăng trưởng về CW, trọng lượng là chỉ tiêu sinh trưởng quan trọng của cua biển. Bảng 4.3 và Hình 4.7 thể hiện kết quả thu được. Bảng 4.3: Tăng trưởng về trọng lượng cua

NT1

NT2

Chỉ số Ngày

TB

TB

DWG (g/ngày)

SRG (%/ngày)

DWG (g/ngày)

SRG (%/ngày)

53,11±10,73a 65,07±10,16a 81,22±10,19a 92,30±8,14a 116,42±20,34a 136,36±21,49a 147,21±21,63a 166,91±15,97a 180,04±22,86a

49,83±14,61a 56,84±15,97a 66,68±18,54a 77,59±13,72a 91,14±14,59a 109,44±16,86a 134,66±15,19a 175,42±42,80a 211,83±32,37a

0 15 30 45 60 75 90 105 120 TB

0,80 1,08 0,74 1,61 1.33 0,72 1,31 0,88 1,06

1,35 1,48 0,85 1,55 1,05 0,51 0,84 0,50 1,02

0,47 0,66 0,73 0,90 1,22 1,68 2,72 2,43 1,35

0,88 1,06 1,01 1,07 1,22 1,38 1,76 1,26 1,21

Các giá trị trung bình trong cùng một hàng có chữ cái giống nhau thì khác nhau không có ý nghĩa thống kê (P>0,05)

19

Hình 4.7: Tăng trưởng về trọng lượng cua sau 120 ngày nuôi Bảng 4.3 và Hình 4.7 cho thấy: Sau 120 ngày cua đạt trọng lượng trung bình 195,94 g/con, dao động 180-211,8 g/con. Ở NT2 trong khoảng 90 ngày đầu tăng trọng luôn thấp hơn NT1 nhưng sau 90 ngày đến kết thu hoạch thì lớn hơn NT1 (211,8 g/con so với 180 g/con ). Điều này được lý giải là do tỷ lệ sống NT2 thấp hơn NT1 nên ít bị cạnh tranh về không gian sống và thức ăn, ngoài ra không loại trừ khả năng cua ở NT1 bị stress. Theo Marichary và ctv. (1986 trích dẫn bởi Jerome (1998) nuôi cua S. serrata trong lồng với mật độ 17 con/m2, cỡ 70 g/con trong 180 ngày cua đạt trọng lượng 93-168 g/con với tỷ lệ sống 85% nhưng khi mật độ còn 2,5-5 con/m2 sau147 ngày cua đạt trọng lượng 188,8-276,7 g/con (Jerome, 1998). Tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (P>0,05). Về tốc độ tăng trưởng đặc biệt (%/ngày) NT2 cho kết quả 1,21 %/ngày cao hơn NT1 là 1,02 %/ngày. Kết quả này thấp hơn so với nghiên cứu của Triño và Rodriguez (1998a) SGR từ 1,74-1,79 %/ngày trong mô hình cua-rừng hay của Triño và ctv (1998) 1,81-1,87 %/ngày khi nuôi trong ao.

4.1.3 Tỷ lệ sống Bảng 4.4: Diễn biến tỷ lệ sống của thí nghiệm 1

Ngày 15 30 45 60 75 90 105 120

NT1 85,56±8,39b 80,0±10,00b 72,22±13,47b 66,66±15,28b 48,89±18,96b 42,22±18,36b 30,00±8,82b 18,89±5,09b

NT2 64,44±10,18a 41,11±17,11a 31,11±11,71a 24,44±10,72a 17,78±8,39a 15,56±6,94a 11,11±6,94a 8,89±6,94a

Các giá trị trung bình trong cùng một hàng có chữ cái khác nhau thì khác nhau có ý nghĩa thống kê (P<0,05)

20

Tỷ lệ sống của thí nghiệm 1 được trình bày ở Bảng 4.4. Sau 120 ngày nuôi, tỷ lệ sống ở NT1 luôn cao hơn NT2 và sự khác biệt này có ý nghĩ thống kê (P<0,05).

Nếu so sánh kết quả NT1 và NT2 với nuôi trong ao đất thì kết quả này thấp hơn. Nghiên cứu của Triño và ctv (1997) là 44,67-48,67% hay của Phạm Minh Truyền và ctv (2006) nuôi trong ao nuôi tôm quảng canh ở Trà Vinh sau 3,5 tháng tỷ lệ sống là 46,4-76,2%.

4.1.4 Năng suất và tiêu tốn thức ăn (FCR) Bảng 4.5: Năng suất và tiêu tốn thức ăn

Chỉ số

Trọng lượng thu hoạch (g/con) Tổng thu hoạch (kg) Tổng thức ăn (kg) Năng suất (kg/m2) FCR

NT1 180±22,87a 3,12 27,98 3,69±0,38b 8,96

NT2 211,83±32,37a 1,59 28,01 0,53±0,34a 17,61

Các giá trị trung bình trong cùng một hàng có chữ cái khác nhau thì khác nhau có ý nghĩa thống kê (P<0,05.

Qua Bảng 4.5 cho thấy, năng suất cua nuôi NT1 và NT2 khác biệt này ó ý nghĩa thống kê (P<0,05). Năng suất NT2 (0,53 kg/m2) thấp hơn rất nhiều so với NT1 (3,69 kg/m2) tuy nhiên vẫn cao hơn kết quả nghiên cứu của Romeo và Mamon (1998) nuôi cua 118 ngày trong lồng tre đặt trong ao, mật độ 1-1,5 con/m2 thì cua đạt năng suất 520-796 kg/ha (0,052-0,0796 kg/m2) với tỷ lệ sống 17,3-23,13%. Theo Triño và Rodriguez (1998a) nuôi cua-rừng năng suất đạt 0,089-0,157 kg/m2. Tại Trà Vinh, Hồ Hoàng Hà (2005) cho biết mô hình cua-rừng đạt năng suất trung bình/ha/năm là 165-225 kg (0,0165-0,0225 kg/m2), mô hình nuôi cua đơn trong ao đạt 1.014-1.816 kg/ha/năm (0,1014 – 0,1816 kg/m2). Tiêu tốn thức ăn ở NT1 (8,96) nhỏ hơn của NT2 (17,61). Điều này có ý nghĩa là khi nuôi cua trong lồng nhỏ thì tiết kiệm thức ăn hơn khi nuôi trong lồng lớn. So sánh với mô hình nuôi cua-rừng của Triño và Rodriguez (1998a) FCR là 5,3-7,6 thì FCR của NT1 và NT2 tốn nhiều thức ăn hơn nhưng năng suất cao hơn.

4.2 Thí nghiệm 2: Nuôi cua biển trong lồng nhỏ với các giai đoạn khác nhau

4.2.1 Các yếu tố môi trường Bảng 4.6: Các yếu tố môi trường thí nghiệm 2

pH

Độ mặn

Nhiệt độ (0C)

Nghiệm thức NT1

11,94±1,89

Độ kiềm (mgCaCO3/l) 80,0±9,2

NH3 (mg/l) 0

NT2

13,8±0,45

78,88±13,13

0

NT3

12,8±0,45

82,8±9,86

0

27,70±0,84 7,56±0,24 29,48±1,01 7,94±0,27 26,07±1,34 7,65±0,12 29,20±1,23 8,04±0,27 27,74±0,75 7,63±0,25 8,05±0,3 29,66±0,81

Oxy hòa tan (mg/l) 4,28±0,35 4,93±0,39 4,37±0,33 4,87±0,33 4,21±0,21 4,81±0,42

Sáng Chiều Sáng Chiều Sáng Chiều

21

Qua bảng cho thấy, nhiệt độ trung bình NT1 từ 27,7-29,50C, NT2 từ 26,1-29,20C và NT3 từ 27,7-29,70C. Theo Manjulatha và Babu (1998 trích dẫn bởi Hồ Hoàng Hà, 2005) nhiệt độ từ 26-310C tập tính ăn và lột xác của cua biểu hiện bình thường. Theo Khoa Sinh-Trường Đại học Tổng Hợp Huế (1994) nuôi cua vỗ béo

cần nhiệt độ 25-30 0C. Nuôi cua lột cần nước mát và nhiệt độ 27-280C (Nguyễn Chung, 2006).

Giá trị pH của 3 nghiệm thức dao động từ 7,56-8,05. Kết quả này phù hợp với khảo sát nuôi cua trong ao của Hồ Hoàng Hà (2005) pH từ 7,6-8,1. Theo Hoàng Đức Đạt (1995) pH thích hợp nhất để nuôi cua biển là 7,5-8,2. Hàm lượng Oxy hòa tan của 3 nghiệm thức dao động trong khoảng 4,21-4,93, không khác biệt lớn giữa các nghiệm thức. Theo Triño và ctv (1997) oxy hòa tan tốt để nuôi cua là 3,5-8 mg/l. Khoa Sinh-Trường Đại học Tổng Hợp Huế (1994) cho biết oxy hòa tan khi nuôi cua vỗ béo khoảng 4-6 mg/l Độ mặn đo được trong thời gian thí nghiệm giảm dần theo thời gian nuôi 17-8‰, trung bình dao động từ 11,9-13,88‰ ở 3 nghiệm thức. Theo Phạm Minh Truyền và ctv (2006) từ tháng 6-10/2005 độ mặn trong các ao nuôi cua biển tại Trường Long Hòa giảm dần từ lúc thả 30-25‰ còn 16-12‰ lúc thu hoạch. Tuy vậy không ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng của cua vì độ mặn giảm từ từ và ở trong khoảng thích hợp với cua biển sinh sống là 2-38‰ (Trần Ngọc Hải, 2003). Độ kiềm thu được của 3 nghiệm thức từ 78,9-82,8 mg/l. Theo Phạm Minh Truyền và ctv (2006) 1 điểm thí nghiệm tại Trường Long Hòa vào mùa mưa độ kiềm giảm do ao bị nhiễm phèn, độ kiềm có thể giảm còn 68-41 mg/l sau 40 ngày nuôi nhưng cua vẫn đạt kết quả tốt. NH3 kết quả đo được là 0 mg/l. Theo Trần Ngọc Hải và ctv (2006) nuôi cua lột trong điều kiện 0,63 mg/l cua lột trong khoảng 15-23 ngày.

4.2.2 Tăng trưởng của cua nuôi Bảng 4.7: Tăng trưởng của cua trong thí nghiệm 2

Ban đầu

Thu hoạch

Nghiệm thức NT1

NT2

NT3

6,62±0,38a 53,11±10,73a 13,43±1,03a 351,7±85,6a 7,20±0,75a 66,10±18,52a

9.69±0,45b 180,04±22,86b 13,50±1,02a 388,5±83,25b 7,96±1,06b 88,21±25,86a

Tăng trưởng (%) 46,37±18,42 239±113,05 0,005 11,23±4,41 11,83±5,07 29,68±13,15

Chiều rộng mai (cm) Trọng lượng (g/con) Chiều rộng mai (cm) Trọng lượng (g/con) Chiều rộng mai (cm) Trọng lượng (g/con)

Các giá trị trung bình trong cùng một hàng có chữ cái khác nhau thì khác nhau có ý nghĩa thống kê (P<0,05).

22

NT1 sau 120 ngày nuôi tăng trưởng 46,37% về chiều rộng mai và 239 % về trọng lượng (tăng 3,4 lần so với trọng lượng ban đầu). Theo Hoàng Đức Đạt (1995) nuôi cua trong ao sau 3-8 tháng cua tăng trọng 3-5 lần (lúc thả 60-80 g/con, thu hoạch 250-350 g/con). NT2 sau 28 ngày nuôi vỗ béo, so sánh giữa lúc thả và thu hoạch, trung bình chiều rộng mai cua khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) nhưng trung bình trọng lượng khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Trung bình trọng lượng tăng thêm là 36,8 g bằng 11,23%. Theo Triño và Rodriguez (1998) cua cái trọng lượng 286-338 g nuôi vỗ béo trong ao 30 ngày thêm 86-131 g bằng 23,11-

)

B A N Đ Ầ U

T H U H O Ạ C H

1 6

1 4

1 2

27,93%. Ladra (1991) ở Phillipine nuôi vỗ béo trong lồng tre trọng lượng 175 g sau 15 ngày cua tăng thêm 110 g bằng 38,6%.

m c ( a u c i a m

1 0

8

g n ộ r

6

4

u ề i

2

h C

0

N T 1

N T 2

N T 3

N g h iệ m t h ứ c

BAN ĐẦU THU HOẠCH

Hình 4.13: chiều rộng mai thí nghiệm 2

) n o c / g ( a u c g n ợ ư

l g n ọ r T

450 400 350 300 250 200 150 100 50 0

NT1

NT2

NT3

Nghiệm thức

Hình 4.14: Trọng lượng cua thí nghiệm 2 NT3 khảo sát 115 cua (59 đực và 56 cái) trung bình trọng lượng 66,1 g và chiều rộng mai 7,2 cm trong 30 ngày. Kết quả cho thấy trọng lượng và chiều rộng mai cua đều có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (P<0,05) (Bảng 4.7). Trọng lượng thu hoạch đạt 88,21 g tăng 29,68%. Chiều rộng mai đạt 7,96 cm tăng 11,83%. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Trần Ngọc Hải và ctv (2006) nuôi cua lột trong bể composite tăng trưởng về chiều rộng mai 5,94-8,77% và trọng lượng 14,58-38,87%.

Tỷ lệ sống (%)

Tỷ lệ lột xác/đầy gạch (%)

4.2.3 Tỷ lệ sống, tỷ lệ lột xác và năng suất Bảng 4.3: Tỷ lệ sống, tỷ lệ lột xác và năng suất thí nghiệm 2 Nghiệm thức NT1 NT2 NT3

Thời gian lột xác /đầy gạch (ngày) 26,43±4,78 20,10±5,69 16,30±5,08

18,89±5,09 93,33±2,89 84,35±3.30

94,74±5,26 76,29±10,44

Năng suất (kg/m2) 3,69±0,38 6,59±1,64 1,87±0,50

23

Theo Bảng 4.8 nghiệm thức 1 sau 4 tháng nuôi tỷ lệ sống đạt 18,89%. Theo Jerome (1998) nuôi trong lồng tỷ lệ sống 8,43-18,87 %. Theo Hoàng Đức Đạt (1995), Hồ Hoàng Hà (2005) nuôi trong ao 3-8 tháng tỷ lệ sống 40-60%. Thời gian cua lột xác là 26,43 ngày, dao động 22,91-28,53 ngày. Theo Khoa Sinh- Trường Đại học Tổng Hợp Huế (1994) thời gian giữa 2 lần lột xác của cua từ 20- 28 ngày.

NT2 sau 28 ngày nuôi vỗ béo kết quả tỷ lệ sống đạt 93,33%, tỷ lệ cua đầy gạch (trong tổng số cua còn sống) 94,74%, năng suất 6,59 kg/m2 và mất trung bình 20,1 ngày để cua đạt đầy gạch. Kết quả này cao hơn nghiên cứu của Hoàng Đức Đạt (1995) cua cái được nuôi vỗ tích cực trong 25-35 ngày (trong ao/lồng) sẽ đầy gạch đạt tiêu chuẩn cua thương phẩm. Tỷ lệ sống 80-85%. Kết quả NT3: thời gian lột xác của cua là 16,30 ngày, sớm nhất là ngày thứ 11, nhiều nhất là ngày thứ 13 và 14 chiếm gần 25%, giảm dần sau ngày thứ 18 và kết thúc vào ngày thứ 30. Tỷ lệ lột xác là 76,29%. Theo Trần Ngọc Hải và ctv (2006) thí nghiệm trong bể Composite cua bắt đầu lột từ ngày 15, nhiều nhất ngày 17, từ ngày 18 giảm dần và kết thúc vào ngày 23, tỷ lệ lột xác 75-93,75%. Theo Nguyễn Chung (2006) nuôi cua lột trong hộp nhựa cỡ cua 50-100 g/con, cua lột đồng loạt vào ngày thứ 15-18, số chậm nhất đến ngày 25-30. Như vậy, thí nghiệm trong lồng nhựa (NT3) cho kết quả sớm hơn về thời gian lột xác so nuôi trong ao và bể Composite. So với Nguyễn Chung (2006) thì nhiệt độ NT3 cao hơn 0,7-1,7 0C, có thể đây là nguyên nhân chủ yếu của kết quả khác biệt trên. Tỷ lệ sống trong nuôi cua lột: Theo Hoang Duc Dat (1999) nuôi cua lột ở Long An thời gian 1 tháng, tỷ lệ sống đạt trên 50%. Trần Ngọc Hải và ctv (2006) cua đạt tỷ lệ sống 75-93,75%. Như vậy, với tỷ lệ sống 84,35%, NT3 cao hơn cách nuôi truyền thống và nằm trong khoảng trung bình trong điều kiện tốt hơn (Bể Composite). Năng suất cua lột đạt 1,87 kg/m2. Kết quả này đạt gần với năng suất cao nhất 0,71-2,23 kg/m2 của Trần Ngọc Hải và ctv (2006).

24

4.2.4 Tiêu tốn thức ăn Kết quả cho thấy, với NT1 nuôi cua thịt cần 8,96 kg thức ăn để được 1 kg cua thương phẩm. NT2 nuôi cua vỗ béo chỉ cần 2,15 kg thức ăn để đạt cua lên gạch đều. NT3 nuôi cua lột cần 2,46 kg thức ăn để có 1 kg cua lột (Bảng 4.9). Tiêu tốn thức ăn trong nuôi cua thịt: Triño và Rodriguez (1998a), Samarasinghe và ctv. (1991) nuôi cua-rừng đước FCR là 5,3-7,6. Theo Triño và ctv (1998) nuôi cua thịt trong ao FCR 2,16-2,62. Kết quả FCR nuôi cua trong ao tại Trà Vinh của Phạm Minh Truyền và ctv (2006) là 2,9-6. William và Ikhwanuddin (1999) cho rằng nuôi cua thịt trong lồng FCR là 2,59. Như vậy, FCR của NT1 là cao hơn so với các kết quả nuôi cua thịt ở các mô hình khác. Nguyên nhân thức ăn sử dụng nhiều (27,98 kg) mà cua tăng trọng ít nên tổng thu thấp. Ngoài ra Bảng 4.9 tiêu tốn thức ăn trong nuôi vỗ béo là 2,15.

Bảng 4.9: Tiêu tốn thức ăn thí nghiệm 2

FCR

Nghiệm thức

NT1 NT2 NT3

Tổng thức ăn (kg) 27,98 41,09 17,08

Tổng thu hoạch (kg) 3,12 19,1 6,94

8,96 2,15 2,46

Tiêu tốn thức ăn trong nuôi cua lột: Theo Trần Ngọc Hải và ctv. (2006) khi sử dụng thức ăn viên 25-35% đạm, tiêu tốn thức ăn từ 0,28-0,31 và 2,26 khi sử dụng cá tạp. FCR nuôi cua lột trong điều kiện lồng nhựa là 2,57.

4.2.5 Thu hoạch cá Do các thí nghiệm của đề tài cua được thả trong lồng nhựa, các lồng nhựa chỉ đặt cách mặt nước xuống khoảng 10 cm nên phần còn lại của ao có thể tận dụng thả thêm cá để tạo thêm thu nhập. Sau 1 năm nuôi cá chẻm với thức ăn là cá rô phi. Trong thí nghiệm này không cho cá chẻm ăn thêm thức ăn bổ sung. Bảng 4.4: Kết quả thu hoạch cá chẽm và cá rô phi

Loài

Cá thả (g/con)

Số lượng (con)

Tổng thu hoạch (kg)

Tỷ lệ sống (%)

3 3,3

400 3000

5,2 0,02

Trọng lượng thu hoạch (g/con) 698 200

18,14 10,75 28,89

Cá chẽm Cá rô phi Tổng

Sau 1 năm nuôi trọng lượng cá chẽm đạt trung bình 698 g/con, cá lớn nhất đạt 2,8 kg/con, cá nhỏ nhất là 100 g/con. Cá rô phi đạt trung bình 200 g/con. Tổng trọng lượng cá thu hoạch là 28,89 kg. Thí nghiệm này góp phần thêm cơ sở khẳng định là có thể thả nuôi cá khi nuôi cua biển trong hộp nhựa.

4.2.6 Phân tích hiệu quả kinh tế Bảng 4.5: Phân tích hiệu quả kinh tế

Đơn vị tính: 1.000 đồng

NT1

NT2

NT3

Nghiệm thức

Chi/thu

%

Chi/thu

%

Chi/thu

%

20,16 30,25 9,26 6,72 20,16 13,44

12,10 48,41 19,31 4,03 12,10 8,07

20,75 39,78 4,88 6,92 20,75 13,84

300 450 137,8 100 300 200 1.487,8

300 1200 478,7 100 300 200 2.478,7

300 575 70,5 100 300 200 1.445,5

54,26 45,74

93,28 6,72

87,05 12,95

245 206,5 451,5 -936,3 0,3 -0,63

2.865 206,5 3.071,5 592,8 1,24 0,24

1.388 206,5 1.594,5 149 1,1 0,1

Chi phí đầu tư Cải tạo Con giống Thức ăn (kg) Vôi, thuốc Khấu hao công trình Chi phí khác Tổng chi phí Thu hoạch Cua Cá Tổng thu Thu nhập Hiệu suất đồng vốn Tỷ suất thu nhập

25

Ghi chú: chưa tính tiền nhân công vào chi phí Kết quả phân tích về hiệu quả kinh tế của các mô hình cho thấy: NT1 lỗ 936.300 đồng, NT3 đạt lợi nhuận 149.000 đồng và NT2 đạt lợi nhuận cao nhất 592.800 đồng. Từ tỷ suất lợi nhuận cho thấy khi đầu tư nuôi trong lồng nhựa thì đầu tư vào nuôi vỗ béo cua sinh lợi cao nhất (24%), kế tiếp là nuôi cua lột (10%) và thấp nhất là nuôi cua thịt (-63%). Chi phí nhiều nhất của NT1 tập trung 3 hạn mục chi con giống, cải tạo và khấu hao công trình chiếm trên 70% nhưng mức thu lại với sản phẩm chính (cua) thấp nên gây lỗ cho nghiệm thức này. Nghiệm thức 2 chi nhiều nhất là con giống và thức ăn chiếm trên 67,7%. Sản phẩm thu hoạch là cua gạch với giá bán chênh lệch 80.000-90.000 đồng/kg so với cua chấm nên mức lợi nhuận đem lại là rất cao. Kết quả NT3 – nuôi cua lột mức chi về con giống vẫn rất cao chiếm 39,78% nhưng chi phí thức ăn chiếm rất ít 4,88%. Điều này cho thấy khi nuôi cua lột cua nguyên liệu là quan trọng hơn cả, thức ăn là không đáng kể.

26

PHẦN 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT

5.1 Kết luận - Trong điều kiện môi trường nuôi cho thấy nhiệt độ, pH, oxy hòa tan, độ mặn, độ kiềm tuy có biến động nhưng vẫn nằm trong khoảng thuận lợi cho cua phát triển.

- Kích cỡ cua thu hoạch không có sự khác biệt (P>0,05) khi nuôi ở lồng gỗ 1 m2 và lồng nhựa 0,05 m2 nhưng có sự khác biệt lớn về tỷ lệ sống, năng suất và FCR giữa 2 loại lồng trên.

- Nuôi cua thịt trong lồng nhựa trong 4 tháng cua tăng trọng 3,4 lần so với lúc thả, tỷ lệ sống 18,89%, đạt năng suất 3,69 kg/m2. Tuy nhiên mô hình này lỗ 63% trong phân tích của thí nghiệm này nhưng năng suất 3,69 kg/m2 là con số khác biệt rất lớn so với các mô hình nuôi cua biển khác.

- Nuôi vỗ béo cua chấm thành cua gạch trong lồng nhựa sau 28 cua tăng trọng 11,23%, tỷ lệ sống 93,33 %, thời gian đầy gạch 18,62 ngày, FCR 2,15 và đạt năng suất 6,59 kg/m2. Phân tích lợi nhuận cho thấy mô hình lời 24% so vốn đầu tư. Vì thế có thể ứng dụng mô hình này vào sản xuất.

- Nuôi cua lột trong lồng nhựa cua tăng trưởng 11,83% về CW và 29,68% về trọng lượng, cần 16,3 ngày để thu cua lột xác, tỷ lệ sống 84,35%, tỷ lệ lột xác 79,29% và năng suất 1,87 kg/m2. Mô hình nuôi cua lột trong lồng nhựa cho mức lợi nhuận 10%.

- Tổng thu hoạch cá 28,89 kg, bao gồm cá chẽm và cá rô phi. Đây là khoảng thu nhập thêm từ mô hình.

- Do đơn giản và hiệu quả, các kết quả nghiên cứu bước đầu cho thấy, các lồng nhựa 0,05 m2 hoàn toàn có thể sử dụng để nuôi cua, đặc biệt là nuôi cua vỗ béo và nuôi cua lột.

5.2 Đề xuất Cần tiếp tục nghiên cứu những vấn đề sau để phát triển nuôi cua trong lồng nhựa: - Nghiên cứu ảnh hưởng của các biện phát kỹ thuật để nâng cao hiệu quả nuôi cua thịt như dinh dưỡng (nhiều loại thức ăn, mức dinh dưỡng khác nhau, các Vitamine và chất béo…)

- So sánh hiệu quả của phương pháp nuôi cua lột loại bỏ càng và không loại bỏ càng, cắt mắt và không cắt mắt, các loại thức ăn (tươi sống và viên), các Vitamine và chất béo… để nâng cao hàm lượng dinh dưỡng cua lột cũng như các kích cỡ cua khác nhau để cua làm cua nguyên liệu cho nuôi cua lột.

- Nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật nuôi cua vỗ béo cua trong lồng nhỏ như

27

- các loại thức ăn, hàm lượng các các Vitamine và chất béo… Nghiên cứu bệnh xảy ra khi nuôi cua biển

TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Agell C.A.,1992. The mud crab. A report of the mud crab culture and trade, held at Surat Thani, Thailand, November 5--8, 1991. 2. Boyd, C.E., 1990. Water quality for pond aquaculture. Elsevier scientific publishing Co. Page: 5-7

3. Cerezo, R.B., 1998. Effect of aftificial shelters on the growth and survival of mud crab, Scylla serrata Forskal, fed with commercial. International forum on the culture of Portunid Crabs 1-4 December 1998 Boracay, Philippine. SPONSORS. Page: 65-66

4. Chin How-Cheong, U.P.D.Gunasekera and H.P.Amandakoon, 1991. Formulation of artifical feeds for mud crab culture: A preliminary biochemical, physical and biological evaluation. The mud crab a report on the seminar convened in Surat Thani, Thailand, November 5-8, 1991. Pages: 179- 184

5. Cholik, F. and Adi Hanafi, 1991. A review of the status of the mud crab (Scylla sp.) fishery and culture in Indonesia. The mud crab a report on the seminar convened in Surat Thani, Thailand, November 5-8, 1991. Pages: 13- 27

6. Cholik, F., 1999. Review of Mud crab culture research in Indonesia. Mud crab aquaculture and biology - Proceeding of an international scientific forum held in Darwin, Australia 21-24 April 1997. ACIAR proceedings No 78. Page: 14-20

7. Christensen, S.M., D.J. Macintosh & N.T. Phuong, 2004. Pond production of the mud crabs Scylla paramamosain (Estampador) and S. olivacea (Herbst) in the Mekong Delta, Vietnam, using two different supplementary diets. Issue 11, Date: September 2004, Aquaculture Research Volume 35, Pages: 1013-1024

8. Cửu Long, 2003. Thăng trầm nghề nuôi cua lột. http://vietnamnet.vn/kinhte /toancanh/2003/12/38838/

9. DANIDA-Bộ Thủy Sản, 2003. Danh mục các loài nuôi trồng thủy sản biển và nước lợ ở Việt Nam. SUMA-Hợp phần Hỗ trợ Nuôi trồng Thủy sản Biển và Nước lợ. Trang: 52-53

10. Doan Van Dau et al, 1998. The culture of Scylla species in Vietnam. International forum on the culture of Portunid crabs 1-4 December 1998 Boracay, Philippine. SPONSORS. Page: 12-13

11. Đoàn Văn Đẩu, Phạm Ngọc Đẳng, Đồng Xuân Vĩnh, Đỗ Văn Minh Và Nguyễn Cơ Thạch, 1998. Kết quả nghiên cứu sinh trưởng và sinh sản của cua biển (Scylla serrata) nuôi trong đầm nước lợ. Tuyển tập các công trình nghiên cứu cá biển (tập 1). Viện nghiên cứu Hải Sản-Bộ Thuỷ Sản. NXB Nông nghiệp. Trang 371-379

12. Hai, T.N, Hassan A., Law A.T. and Shazili N.A., 2000. Some aspects on maturation and spawning performance of mud crab (Scylla sp.) in captive conditions. In: 2001

28

13. Hoàng Đức Đạt, 1995. Kỹ thuật nuôi cua biển. Nhà xuất bản Nông nghiệp, thành phố Hồ Chí Minh. 80 trang.

14. Hoang Duc Dat, 1999. Descpription of Mud Crab (Scylla spp.) culture methods in Viet Nam. Mud crab aquaculture and biology - Proceeding of an international scientific forum held in Darwin, Australia 21-24 April 1997. ACIAR proceedings No 78. Page: 67-71 15. http://www.fishtenet.gov.vn/ details.asp?Object=cua_bien. Cập nhât 02/7/2007.

16. http://www.vietlinh.com.vn/kithuat/thuysankhac/cuabien.htm. Sinh học và kỹ thuật nuôi cua biển. Ngày cập nhật 12/12/2008.

17. Jerome G.G., 1998. Study of pen culture of the mud crab, Scylla serrata, in a mangrove area at two stocking densities with and without feed. International forum on the culture of Portunid Crabs 1-4 December 1998 Boracay, Philippine. SPONSORS. Page: 47-48 18. Joachim, W.H. and Felicitas Piedad-Pascual, 2000. Handbook on ingredients for Aquaculture feed. Kluwer academic publishers. Page: 109-113

19. Johnston, D. and C.P.Keenan, 1999. Mud crab culture in the Minh Hai province, South Vietnam. Mud crab aquaculture and biology - Proceeding of an international scientific forum held in Darwin, Australia 21-24 April 1997. ACIAR proceedings No 78. Page: 95-98

20. Keenan, C.P., 1999. The fourth species of Scylla. Mud crab aquaculture and biology - Proceeding of an international scientific forum held in Darwin, Australia 21-24 April 1997. ACIAR proceedings No 78. Page: 48-58

21. Keenan, C.P., 1999a. Aquaculture of the Mud Crab, Genus Scylla-Past, Present and Future. Mud crab aquaculture and biology - Proceeding of an international scientific forum held in Darwin, Australia 21-24 April 1997. ACIAR proceedings No 78. Page: 9-13

22. Khatun, M., D.Kamal, K.Ikejima & Yang Yi, 2008. Comparisons of growth and economic performance among monosex and mixed-sex culture of red mud crab (Scylla olivacea Herbst, 1796) in bamboo pens in the tidal flats of mangrove forests, Bangladesh. Aquaculture Research Early View, Date: October 2008

23. Khoa Sinh – Trường Đại Học Tổng Hợp Huế, 1994. Kỹ thuật nuôi và vỗ béo cua biển. NXB Nông nghiệp. 32 trang.

24. Ladra, D.F. and J.S.Mondragon, 1991. An overview of the mud crab fishing gear in the Philippine. The mud crab a report on the seminar convened in Surat Thani, Thailand, November 5-8, 1991. Pages: 71-83

25. Ladra, D.F., 1991. Mud crab fattening practices in the Philippine. The mud crab a report on the seminar convened in Surat Thani, Thailand, November 5- 8, 1991. Pages: 71-83

26. Lee, C., 1991. A brief overwiew of the ecology and fisheries of the mud crab, Scylla serrata, in Queensland. The mud crab a report on the seminar convened in Surat Thani, Thailand, November 5-8, 1991. Pages: 65-70

29

27. Liong, P.C., 1991. The fattening and culture of the mud crab (Scylla serrata) in Maylaysia. The mud crab a report on the seminar convened in Surat Thani, Thailand, November 5-8, 1991. Pages: 185-190

28. Munawar S., M.Kathirvel, S.Srinivasagam and G.R.M.Rao, 1998. Mud crab culture. Central institute of Brackishwater Aquacultre (Indian Council of Agricultural Research). CIBA extension series No.14

29. Nguyễn Chung, 2006. Kỹ thuật sản xuất giống và nuôi ghẹ xanh, cua biển. Nhà xuất bản Nông nghiệp, thành phố Hồ Chí Minh. 149 trang.

30. Nguyễn Cơ Thạch, Trương Quốc Thái, Nguyễn Diễu, Nguyễn Thanh Thùy, Hà Văn Khô và Đỗ Văn Phiên, 2004. Đặc điểm sinh học sinh sản và quy trình loài Scylla serratavar.paramamosain kỹ thuật sản xuất cua giống Estampador, 1949. Trang: 227-266

31. Nguyễn Ngọc Tú, 2008. Kỹ thuật nuôi cua thương phẩm trong ao đất. http://www.khuyennongvn.gov.vn/e-khcn/ky-thuat-nuoi-cua-thuong-pham- trong-ao-111at. Cập nhật: 02/10/2008 10:30

32. Nguyễn Thanh Bình, 2007. Kỹ thuật nuôi cua biển thương phẩm. /newsdetail670-c69-s67-p0 .com

http://agriviet Ky_thuat_nuoi_cua_bien_thuong pham.html. Cập nhật: 08/07/2007 21:16 33. NIOT,. Entrepreneur’s Guide to Mud crab Fattening. National Institute of Ocean Technology Narayanapuram, Pallikaranai Chennai - 601 302 Tamil Nadu, India.

34. Phạm Minh Truyền, Trần Hoàng Phúc, Lâm Thị Ngọc Trân và Nguyễn Vũ Phương, 2006. Thử nghiệm nuôi cua thịt luân canh trong ao nuôi tôm sú quảng canh cải tiến. Tạp chí Nghiên cứu Khoa học, Số đặc biệt Chuyên đề Thủy sản (Quyển 2), Trường Ðại học Cần Thơ. Trang: 171-177

35. Phạm Thị Tuyết Ngân, Vũ Ngọc Út, Trương Trọng Nghĩa, Trần Thị Thanh Hiền, Tô Công Tâm, Quách Thế Vinh và Phạm Trần Nguyên Thảo, 2005. Ảnh hưởng của chế độ dinh dưỡng lên chất lượng bố mẹ và ấu trùng cua biển (Scylla paramamosain). Khoa Thủy Sản, Đại học Cần Thơ, Bộ Giáo Dục và Đào Tạo (Đề tài cấp bộ). Mã số đề tài: B2003-31-52. Trang: 4-12

36. Prinpanapong, S and T.Youngwanichsaed, 1991. Rearing of mud crab (Scylla serrata). The mud crab a report on the seminar convened in Surat Thani, Thailand, November 5-8, 1991. Pages: 191-194

37. Rattanachote, A and R.Dangwatanakul, 1991. Mud crab (Scylla serrata Forskal) fattening in Surat Thani province. The mud crab a report on the seminar convened in Surat Thani, Thailand, November 5-8, 1991. Pages: 171- 177

38. Romeo, D.F and G.A.A. Mamon, 1998. Use of bamboo shelters in the reading of the mud crab Scylla serrata Forskal in shallow brackishwater earthen pons. International forum on the culture of Portunid Crabs 1-4 December 1998 Boracay, Philippine. SPONSORS. Page: 67-68

39. Samarasinghe, R.P., D.Y.Fernando and O.S.S.C de Siha, 1991. Pond culture of mud crab in Sri Lanka. The mud crab a report on the seminar convened in Surat Thani, Thailand, November 5-8, 1991. Pages: 161-169

40. Silva, L.B.D.D., 1991. Result of mud crab (Scylla serrata) fattening. The mud crab a report on the seminar convened in Surat Thani, Thailand, November 5- 8, 1991. Pages: 155-159

30

41. Sivasubramaniam, K and C. Angell., 1991. A review of the culture, marketing and resources of the mud crab (Scylla serrata) in the bay of Bengal regon.

The mud crab a report on the seminar convened in Surat Thani, Thailand, November 5-8, 1991. Pages: 5-12

42. Sở Thủy Sản Trà Vinh, 2005. Báo cáo tình hình thực hiện 5 năm 2001-2005 và kế hoạch phát triển 5 năm 2006-2010 ngành thủy sản Trà Vinh. 43. Sở Thủy Sản Trà Vinh, 2007. Quy hoạch chi tiết nuôi thủy sản huyện Duyên Hải tỉnh Trà Vinh đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2020. 122 trang.

44. Srinivasagam, S. and M. Kathirvel, 1991. A review of experimental culture of the mud crab, Scylla serrata (Forskal) in Indian. The mud crab a report on the seminar convened in Surat Thani, Thailand, November 5-8, 1991. Pages: 195-203

45. Stephenson, W., 1962. Evolution and ecology of portunid crabs with special reference to the Australian species. In Leeper, G.W. (ed), The evolution of living organisms, pp. 311-327.

46. Tan, E.S.P., 1999. Malaysian crab reasearch. Mud crab aquaculture and biology - Proceeding of an international scientific forum held in Darwin, Australia 21-24 April 1997. ACIAR proceedings No 78. Page: 25-26

47. Trần Ngọc Hải, Nguyễn Thanh Phương và Trần Văn Việt, 2003. Khảo sát sự biến động cua giống và tình hình khai thác giống cua ở vùng ven biển phía Tây-Nam Ðồng bằng Sông Cửu Long. Tạp chí thủy sản số tháng 2/2003 48. Trần Ngọc Hải, Nguyễn Thanh Phương và Trương Trọng Nghĩa, 1999. Bài giảng Kỹ thuật sản xuất giống thủy sản nước lợ. Khoa Nông Nghiệp, Trường Đại học Cần Thơ. Trang: 67-87

49. Trần Ngọc Hải, Nguyễn Thanh Phương, Nguyễn Anh Tuấn và Phạm Minh Đức, 2006. Nuôi cua lột (Scylla sp.) trong hệ thống tuần hoàn với các loại thức ăn và mật độ khác nhau. Tạp chí Nghiên cứu Khoa học, Số đặc biệt Chuyên đề Thủy sản (Quyển 2), Trường Ðại học Cần Thơ. Trang: 159-170 50. Triño, A.T. and E.M. Rodriguez, 1998. Mud crab fattening in pond. International forum on the culture of Portunid Crabs 1-4 December 1998 Boracay, Philippine. SPONSORS. Page: 69-70

51. Triño, A.T. and E.M. Rodriguez, 1998a. Aqua-mangrove integrated farming. 1.mud crab culture in tidal flats with existing mangroves. International forum on the culture of Portunid Crabs 1-4 December 1998 Boracay, Philippine. SPONSORS. Page: 49-50

52. Triño, A.T., O.M. Millamena and C.P.Keenan, 1998. Pond culture of the mud crab Scylla serrata (Forskal) formalua diet with or without Vitamin and mineral supplements. International forum on the culture of Portunid Crabs 1-4 December 1998 Boracay, Philippine. SPONSORS. Page: 45-46

53. Triño, A.T., O.M. Millamena and C.P.Keenan, 1999. Monosex culture of the Mud Crab (Scylla serrata) at three stocking densities with Gracilaria as Crab Shelter. Mud crab aquaculture and biology - Proceeding of an international scientific forum held in Darwin, Australia 21-24 April 1997. ACIAR proceedings No 78. Page: 48-58

31

54. Trung tâm khuyến ngư Quốc Gia-Bộ Thủy Sản, 2006. Sổ tay nuôi một số đối tượng thủy sản nước mặn. NXB Nông Nghiệp, Hà Nội. Trang: 71-90 55. Trung tâm Khuyến Ngư Trà Vinh, 2007. Báo cáo tổng kết hoạt động Khuyến Ngư năm 2006 và kế hoạch năm 2007.

56. Trung tâm khuyến nông Quốc Gia, 2008. Bình Định: Mô hình nuôi cua xanh sinh sản nhân tạo thành công.Http://vndgkhktnn.vietnamgateway. org/news .php?newsid=50610085615. Cập nhật: 10/12/2008

57. Vũ Ngọc Út, 2005. Hiện trạng nuôi cua biển ở Ðồng Bằng Sông Cửu Long. Workshop on mud crab rearing, ecology and fisheries, Cantho University, Vietnam 8-10.

58. Vụ quản lý khoa học kỹ thuật–Bộ Thủy Sản, 1991. Kỹ thuật nuôi cua (tập 1). Hà Nội. 43 trang.

32

59. William, C.W.S and A.M.Ikhwanuddin, 1999. Pen culture of the mud crabs, genus Scylla in the mangoves ecosystems of Sarawak, East Mallaysia. Mud crab aquaculture and biology - Proceeding of an international scientific forum held in Darwin, Australia 21-24 April 1997. ACIAR proceedings No 78. Page: 83-88 60. Zafar, M., 2005. Crab culture in Bangladesh. The production and marketing of organic aquaculture products. INFOFISH. Page: 50-55