TẠP CHÍ Y HỌC THỰC HÀNH (06/2019), SỐ 1101, TRANG 42-45 THỰC TRẠNG SỬ DỤNG BẢO HIỂM Y TẾ CỦA NGƯỜI NHIỄM HIV/AIDS ĐANG ĐIỀU TRỊ ARV TẠI PHÒNG KHÁM NGOẠI TRÚ TỈNH NGHỆ AN NĂM 2018
DƯƠNG TIẾN HƯNG1, TRẦN THỊ KHUYÊN2, HOÀNG NĂNG TRỌNG2 1 Trung tâm Phòng chống HIV/AIDS Nghệ An 2 Trường Đại học Y Dược Thái Bình
TÓM TẮT Nhằm mục đích mô tả thực trạng về sử dụng Bảo hiểm Y tế của người nhiễm HIV/AIDS đang điều trị ARV tại các Phòng khám ngoại trú tỉnh Nghệ An năm 2018, bằng phương pháp dịch tễ học mô tả qua cuộc điều tra cắt ngang trên 594 bệnh nhân HIV, kết quả thu được như sau:
ĐẶT VẤN ĐỀ Kể từ ca nhiễm HIV được phát hiện đầu tiên tại Việt Nam được phát hiện vào tháng 12 năm 1990, tính đến nay cả nước có trên 227.225 người nhiễm HIV còn sống, 407 cơ sở chăm sóc và điều trị HIV/AIDS và có khoảng 110.000 người nhiễm đang được quản lý tại các cơ sở chăm sóc và điều trị HIV/AIDS.
Nghệ An tính đến 30/8/2018 đã phát hiện được 11.855 trường hợp nhiễm HIV/AIDS (trong đó có 9.616 trường hợp là người Nghệ An và 2,239 trường hợp ngoại tỉnh); đã có 4.196 trường hợp HIV/AIDS tử vong (4.008 người ở Nghệ An, 188 người ngoại tỉnh); 21/21 huyện, thị, thành phố, 446/480 (92,92%) xã, phường, thị trấn của tỉnh có người nhiễm HIV/AIDS [3].
Trong số 587/594 bệnh nhân HIV đang điều trị có thẻ Bảo hiểm Y tế (BHYT), có 80,4% các đối tượng tham gia BHYT là do bị nhiễm HIV; Nhóm đối tượng mua thẻ BHYT theo hộ gia đình chiếm 13,5%; Tỷ lệ đối tượng được hỗ trợ mua thẻ BHYT từ nguồn kinh phí của UBND nhân dân tỉnh Nghệ An là 13,5%; Số bệnh nhân tham gia BHYT trên 5 năm chiếm 20,2%; 81,5% bệnh nhân HIV có thẻ BHYT sử dụng thẻ để khám, chữa bệnh (không liên quan đến HIV); 88,9% bệnh nhân HIV có dự định mua thẻ BHYT trong năm tiếp theo.
Trong nghiên cứu này, đã có sự khác biệt giữa vùng miền, dân tộc và tình hình kinh tế với thực trạng sử dụng BHYT và dự định tham gia BHYT của đối tượng nghiên cứu
Từ khóa: Bảo hiểm Y tế, HIV, Thực trạng, Tỷ lệ
tham gia, Nghệ An. SUMMARY For the purpose of describing the current situation of using Health Insurance for people living with HIV / AIDS who are on ARV treatment in outpatient clinics in Nghe An province in 2018, by epidemiological methods described by the survey Cross-section in 594 HIV patients, the results are as follows:
Bệnh nhân HIV/AIDS là các đối tượng phải điều trị kéo dài, thường có tình trạng sức khỏe yếu, ít có khả năng tìm kiếm việc làm và hầu hết đều có hoàn cảnh khó khăn. Trong điều kiện thực hiện lộ trình tăng giá viện phí tại các cơ sở khám chữa bệnh và cắt giảm viện trợ của nước ngoài, nếu bệnh nhân HIV không tham gia BHYT sẽ không đủ chi phí điều trị HIV/AIDS, điều đó dẫn tới nguy cơ các bệnh nhân sẽ không tuân thủ điều trị và bỏ trị. Tình trạng bệnh tật của bệnh nhân sẽ diễn biến phức tạp và có nguy cơ kháng thuốc, có khả năng sẽ làm bùng phát dịch trên địa bàn tỉnh. Căn cứ vào tình hình thực tế trên chúng tôi tiến hành nghiên cứu: “Thực trạng về sử dụng Bảo hiểm Y tế của người nhiễm HIV/AIDS đang điều trị ARV tại Phòng khám ngoại trú tỉnh Nghệ An năm 2018” với mục tiêu:
Mô tả thực trạng về sử dụng Bảo hiểm Y tế của người nhiễm HIV/AIDS đang điều trị ARV tại các Phòng khám ngoại trú tỉnh Nghệ An năm 2018.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Địa điểm, thời gian, đối tượng nghiên cứu - Địa điểm nghiên cứu: 03 phòng khám trên địa bàn tỉnh Nghệ An đại diện cho 03 khu vực: Vùng đồng bằng, vùng ven biển và vùng miền núi.
- Đối tượng nghiên cứu: Bệnh nhân HIV đang
điều trị ARV tại 3 phòng khám ngoại trú đã chọn.
- Thời gian nghiên cứu: Nghiên cứu được thực
Among 587/594 HIV patients were treated with health insurance cards (Health Insurance), 80.44% of the insured were due to HIV infection; The group of people buying health insurance cards by households accounts for 13.5%, the rate of people who are supported to buy health insurance cards from the budget of Nghe An People's Committee is 13.5%; The number of patients participating in health insurance for more than 5 years accounted for 20.2%; 81.5% of HIV patients have health insurance cards using cards for medical examination and treatment (not related to HIV); 88.9% of HIV patients plan to buy health insurance cards in the following year.
In this study, there is a difference between the region, ethnicity and the economic situation with the use of actual health insurance and the intention of participants to participate in health insurance.
insurance, HIV, Current
Keywords: Health
hiện từ tháng 9/2018 đến tháng 5/2019 2. Phương pháp nghiên cứu 2.1. Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu được tiến hành theo phương pháp dịch tễ học mô tả thông qua cuộc điều tra cắt ngang có phân tích.
situation, Participation rate, Nghe An.
2.2. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu
42
a/ Cỡ mẫu nghiên cứu Áp dụng công thức tính cỡ mẫu:
- Chọn đối tượng vào nghiên cứu được tiến hành theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đơn, cách tiến hành như sau:
+ Tại mỗi phòng khám đã chọn, lập danh sách bệnh nhân từ 18 tuổi trở lên, thời gian điều trị trên 6 tháng theo thứ tự từ 1 đến bệnh nhân cuối cùng.
Trong đó: - n: Cỡ mẫu nghiên cứu (Người nhiễm HIV/AIDS
đang điều trị ARV)/01 Phòng khám.
+ Từ danh sách bệnh nhân có sẵn ta tiến hành sử dụng bảng số ngẫu nhiên để chọn 175 bệnh nhân tham gia vào nghiên cứu.
- α: Mức ý nghĩa thống kê (α = 0,05) - Z(1-α/2) : Giá trị Z thu được tương ứng với giá trị α
(Z(1-α/2) = 1,96)
- d: Khoảng sai lệch mong muốn giữa tỷ lệ p thu
được từ mẫu và từ quần thể (chọn d=0,074)
2.3. Phương pháp thu thập thông tin Thông tin được thu thập bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp người nhiễm HIV/AIDS đang điều trị ARV tại 3 phòng khám ngoại trú được chọn vào nghiên cứu bằng phiếu điều tra đã được chuẩn bị trước.
- p: Tỷ lệ người nhiễm HIV/AIDS có tham gia bảo hiểm y tế. Chọn giá trị p bằng 0,5 để có cỡ mẫu tối thiểu lớn nhất.
Thay các giá trị vào công thức tính được cỡ mẫu cần cho nghiên cứu là n=175. Nên ta có n=175 người/01 phòng khám ngoại trú.
Tổng cỡ mẫu của 3 phòng khám sẽ là 525 người.
2.4. Xử lý số liệu - Sau khi thu thập, các phiếu điều tra đã được kiểm tra tính đầy đủ thông tin trước và sau khi nhập vào máy tính bằng phần mềm Epidata 3.1. Sau đó, kiểm tra ngẫu nhiên 10% số phiếu sau khi đã nhập để phát hiện lỗi nếu có nhằm tránh sai số trong nhập liệu. Phân tích số liệu bằng phần mềm SPSS 16.0.
- Kết quả thu được sau khi xử lý số liệu được
trình bày dưới dạng các bảng, biểu đồ.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Thực tế điều tra được 594 người b/ Phương pháp chọn mẫu - Chọn phòng khám ngoại trú vào nghiên cứu: Từ 23 phòng khám đang triển khai khám, chữa bệnh BHYT cho bệnh nhân HIV tiến hành chọn chủ đích 03 PKNT tại huyện Diễn Châu, Quế Phong và thành phố Vinh. Bảng 1. Tỷ lệ tham gia BHYT của đối tượng nghiên cứu (n=594)
BVĐK TP Vinh (n=178) BVĐK Diễn Châu (n=207) TTYT Quế Phong (n=209) Tham gia BHYT
Có Không Tổng SL 171 7 178 % 96,1 3,9 100 % 100 - 100 SL 209 0 209 % 100 - 100 Chung (n=594) % 98,8 1,2 100 SL 587 7 594 SL 207 0 207
Kết quả bảng 1 cho thấy, hầu hết các đối tượng nghiên cứu đều đã tham gia BHYT với tỷ lệ tại BVĐK TP Vinh là 96,1%, tại BVĐK Diễn Châu và TTYT Quế Phong là 100%, và tỷ lệ tham gia BHYT của nghiên cứu là 98,8%.
Bảng 2. Nhóm BHYT của đối tượng nghiên cứu (n=587)
BVĐK TP Vinh (n=171) BVĐK Diễn Châu (n=207) TTYT Quế Phong (n=209) Chung (n=587) Nhóm BHYT
SL 45 30 16 SL 66 7 40 % 31,9 3,4 19,3 SL 0 31 177 % - 14,8 84,7 SL 111 68 233 % 18,9 11,6 39,7 % 26,3 17,5 9,4
12 67 32,4 0 - 79 13,5 7,0
56 22 10,6 1 0,5 79 13,5 32,8
12 5 2,4 0 - 17 2,9 7,0
Nhóm do người lao động đóng Nhóm do BHXH đóng Nhóm do ngân sách nhà nước đóng Nhóm được UBND tỉnh hỗ trợ mua thẻ BHYT Nhóm tham gia BHYT theo hộ gia đình Nhóm do ngân sách nhà nước hỗ trợ mức đóng Tổng 171 207 100 209 100 587 100 100
Kết quả bảng 3 cho thấy, Nhóm BHYT của đối tượng nghiên cứu tại BVĐK TP Vinh tập trung chủ yếu ở nhóm tham gia BHYT theo hộ gia đình với 32,8%, nhóm do người lao động đóng là 26,3%, nhóm do UBND nhân dân tỉnh hỗ trợ là 7%. Đối với BVĐK Diễn Châu tỷ lệ tham gia BHYT chủ yếu ở nhóm do UBND tỉnh hỗ trợ với 32,4%, nhóm tham gia BHYT theo hộ gia đình là 10,6%. Riêng TTYT huyện Quế Phong tập trung chủ yếu ở nhóm do ngân sách nhà nước đóng với 84,7% và nhóm do BHXH đóng chiếm 14,8%.
Bảng 3. Thời gian tham gia BHYT của đối tượng nghiên cứu
BVĐK TP Vinh (n=171) BVĐK Diễn Châu (n=207) TTYT Quế Phong (n=209) Thời gian tham gia BHYT
Tham gia > 5 năm SL 26 % 14,6 SL 94 % 45,4 SL 0 % - Tổng (n=587) % 20,2 SL 120
43
Tham gia từ 1 đến 5 năm Mới tham gia 1 năm nay Trước có tham gia, hiện tại không 62,4 19,1 3,4 0,5 Chưa từng tham gia 111 34 6 1 111 2 0 0 53,6 1,0 - - 25 184 0 0 12,0 88,0 - - 247 220 6 1 41,6 37,0 1,0 0,2
điều trị HIV ở nhóm người dân tộc và người nghèo, có hoàn cảnh khó khăn đang cao hơn so với các nhóm đối tượng khác.
Bảng 3 là thời gian tham gia BHYT của đối tượng nghiên cứu, kết quả cho thấy: Tỷ lệ đối tượng tham gia BHYT trên 5 năm chiếm 20,2% tập trung chủ yếu ở PKNT Diễn Châu với tỷ lệ là 45,5%; có 41,6% đối tượng có thời gian tham gia BHYT từ 1 đến 5 năm, riêng tại PKNT Tp Vinh nhóm này chiếm 62,4%; tỷ lệ mới tham gia BHYT 1 năm nay chiếm 37,4%, tỷ lệ này tại Quế Phong là 88%. Nhóm không có thẻ BHYT chỉ chiếm 1,2% tổng số đối tượng nghiên cứu.
Tổng Nhóm đang tham gia BHYT Nhóm không tham gia BHYT
Tỷ lệ đối tượng sử dụng thẻ BHYT để khám chữa bệnh là 81,5%, cao hơn so với nghiên cứu của Dương Văn Vịnh (56,7%)[4], tỷ lệ này vẫn thấp hơn so với nghiên cứu của Chu Thị Kim Loan (93,5%) [2]. Điều này cho thấy hoạt động triển khai KCB bằng thẻ BHYT cho bệnh nhân HIV đã có sự tiến bộ vượt bậc, sự e ngại, sợ bị kỳ thị và lộ thông tin khi sử dụng thẻ BHYT để điều trị HIV của bệnh nhân đã giảm, bệnh nhân đã chủ động sử dụng BHYT và coi việc điều trị HIV là như điều trị một bệnh bình thường khác.
SL 2 2 3 SL 526 25 36 SL 528 27 39 % 88,9 4,6 6,5 % 28,6 28,6 42,9 % 89,6 4,3 6,1