TẠP CHÍ Y HỌC THỰC HÀNH (06/2019), SỐ 1101, TRANG 39-41 NHẬN THỨC, THÁI ĐỘ VỀ SỬ DỤNG BẢO HIỂM Y TẾ CỦA NGƯỜI NHIỄM HIV/AIDS ĐANG ĐIỀU TRỊ ARV TẠI PHÒNG KHÁM NGOẠI TRÚ TỈNH NGHỆ AN NĂM 2018
DƯƠNG TIẾN HƯNG1, TRẦN THỊ KHUYÊN2, HOÀNG NĂNG TRỌNG2 1 Trung tâm Phòng Chống HIV/AIDS Nghệ An 2 Trường Đại học Y Dược Thái Bình
được quản lý tại các cơ sở chăm sóc và điều trị HIV/AIDS.
TÓM TẮT Nhằm mục đích đánh giá nhận thức, thái độ về sử dụng Bảo hiểm Y tế của người nhiễm HIV/AIDS đang điều trị ARV tại các Phòng khám ngoại trú tỉnh Nghệ An năm 2018, bằng phương pháp dịch tễ học mô tả qua cuộc điều tra cắt ngang trên 594 bệnh nhân HIV, kết quả thu được như sau: 97,1% đối tượng đã từng được nghe về BHYT; Nguồn cung cấp thông tin về BHYT của đối tượng nghiên cứu thông qua nhân viên y tế, cán bộ BHYT là 66,5%; 80,6% đối tượng nghiên cứu đã biết đến chính sách hỗ trợ BHYT của UBND tỉnh Nghệ An; Có 76,1% đồng ý với ý kiến mọi người đều phải tham gia BHYT; Có 43,9% nhóm đối tượng sẵn sàng tham gia BHYT.
Trong nghiên cứu này, đã có sự khác biệt giữa vùng miền, dân tộc và trình độ học vấn với nhận thức, thái độ về sử dụng BHYT của đối tượng nghiên cứu
Từ khóa: Bảo hiểm Y tế, HIV, Nhận thức, Thái
độ, chính sách hỗ trợ, Nghệ An.
Nghệ An tính đến 30/8/2018 đã phát hiện được 11.855 trường hợp nhiễm HIV/AIDS (trong đó có 9.616 trường hợp là người Nghệ An và 2,239 trường hợp ngoại tỉnh); đã có 4.196 trường hợp HIV/AIDS tử vong (4.008 ở Nghệ An, 188 ngoại tỉnh); 21/21 huyện, thị, thành phố, 446/480 (92,92%) xã, phường, thị trấn của tỉnh có người nhiễm HIV/AIDS [3]. Bệnh nhân HIV/AIDS là các đối tượng phải điều trị kéo dài, thường có tình trạng sức khỏe yếu, ít có khả năng tìm kiếm việc làm và hầu hết đều có hoàn cảnh khó khăn. Trong điều kiện thực hiện lộ trình tăng giá viện phí tại các cơ sở khám chữa bệnh và cắt giảm viện trợ của nước ngoài, nếu bệnh nhân HIV không tham gia BHYT sẽ không đủ chi phí điều trị HIV/AIDS, điều đó dẫn tới nguy cơ các bệnh nhân sẽ không tuân thủ điều trị và bỏ trị. Tình trạng bệnh tật của bệnh nhân sẽ diễn biến phức tạp và có nguy cơ kháng thuốc, có khả năng sẽ làm bùng phát dịch trên địa bàn tỉnh. Căn cứ vào tình hình thực tế trên chúng tôi tiến hành nghiên cứu: “Nhận thức, Thái độ về sử dụng Bảo hiểm Y tế của người nhiễm HIV/AIDS đang điều trị ARV tại Phòng khám ngoại trú tỉnh Nghệ An năm 2018” với mục tiêu:
Đánh giá nhận thức, thái độ về sử dụng Bảo hiểm Y tế của người nhiễm HIV/AIDS đang điều trị ARV tại các Phòng khám ngoại trú tỉnh Nghệ An năm 2018.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1.Địa điểm, thời gian, đối tượng nghiên cứu - Địa điểm nghiên cứu: 03 phòng khám trên địa bàn tỉnh Nghệ An đại diện cho 03 khu vực: Vùng đồng bằng, vùng ven biển và vùng miền núi.
- Đối tượng nghiên cứu: Bệnh nhân HIV đang
điều trị ARV tại 3 phòng khám ngoại trú đã chọn
SUMMARY For the purpose of assessing awareness and attitudes about the use of health insurance for HIV/AIDS infected people who are receiving ARV treatment in outpatient clinics in Nghe An province in 2018, by the epidemiological method described Through the article Cross-sectional examination on 594 HIV patients, the results are as follows: 97.1% of the subjects had heard about health insurance; The source of information on health insurance of the subjects through medical staff and health insurance staff is 66.5%; 80.6% of the respondents knew about the policy of health insurance support of the People's Committee of Nghe An province; 76.1% agreed with the idea that everyone must participate in health insurance; 43.9% of target groups are willing to participate in health insurance.
- Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 9/2018 đến
tháng 5/2019
level with
In this study, there is a difference between the region, ethnicity and education the awareness and attitudes about the use of health insurance by the study subjects.
Keywords: Health, HIV, Awareness, Attitude,
support policies, Nghe An.
2.Phương pháp nghiên cứu 2.1.Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu được tiến hành theo phương pháp dịch tễ học mô tả thông qua cuộc điều tra cắt ngang có phân tích.
2.2. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu a/ Cỡ mẫu nghiên cứu
ĐẶT VẤN ĐỀ Kể từ ca nhiễm HIV được phát hiện đầu tiên tại Việt Nam được phát hiện vào tháng 12 năm 1990. Tính đến nay cả nước có trên 227.225 người nhiễm HIV còn sống, 407 cơ sở chăm sóc và điều trị HIV/AIDS và có khoảng 110.000 người nhiễm đang
39
Thông tin SL Tỷ lệ (%)
Sau khi tính toán, cỡ mẫu cần cho nghiên cứu tại 01 phòng khám là n=175. Tổng cỡ mẫu của 3 phòng khám sẽ là 525 người. Thực tế điều tra được 594 người
5 371 1,0% 77,5%
347 72,4%
100
b/ Phương pháp chọn mẫu - Chọn phòng khám ngoại trú vào nghiên cứu: Từ 23 phòng khám đang triển khai khám, chữa bệnh BHYT cho bệnh nhân HIV tiến hành chọn chủ đích 03 PKNT tại huyện Diễn Châu, Quế Phong và thành phố Vinh.
Hiểu biết về chính sách hỗ trợ BHYT khác Hỗ trợ mua thẻ BHYT Hỗ trợ chi phí đồng chi trả thuốc ARV Hỗ trợ tất cả mọi chi phí liên quan đến điều trị HIV Không biết Khác 11 1 20,9% 2,3% 0,2%
- Chọn đối tượng vào nghiên cứu được tiến hành theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đơn, cách tiến hành như sau:
+ Tại mỗi phòng khám đã chọn, lập danh sách bệnh nhân từ 18 tuổi trở lên, thời gian điều trị trên 6 tháng theo thứ tự từ 1 đến bệnh nhân cuối cùng.
+ Từ danh sách bệnh nhân có sẵn ta tiến hành sử dụng bảng số ngẫu nhiên để chọn 175 bệnh nhân tham gia vào nghiên cứu.
Bảng 2 cho thấy, đối tượng đã nghe về chính sách hỗ trợ bệnh nhân HIV của UBND tỉnh Nghệ An chủ yếu thông qua loa truyền thanh xã phường và cán bộ Y tế, cán bộ BHYT với tỷ lệ tương ứng là 87,9% và 82,5%. Khi hỏi về các hỗ trợ của UBND tỉnh Nghệ an, có 77,5% đối tượng biết việc hỗ trợ mua thẻ BHYT, 58,4% đối tượng biết việc hỗ trợ đồng chi trả thuốc ARV.
Bảng 3. Hiểu biết về hỗ trợ, hình thức tham gia và đối tượng tham gia BHYT của đối tượng nghiên cứu
Thông tin Có SL 362 % 60,9
2.3. Phương pháp thu thập thông tin Thông tin được thu thập bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp người nhiễm HIV/AIDS đang điều trị ARV tại 3 phòng khám ngoại trú được chọn vào nghiên cứu bằng phiếu điều tra đã được chuẩn bị trước.
Không 232 39,1 Mua BHYT theo hộ gia đình để được hỗ trợ
417 70,2
264 44,4
2.4. Xử lý số liệu Số liệu thu thập được nhập vào máy tính bằng phần mềm Epidata 3.1. Phân tích số liệu bằng phần mềm SPSS 16.0. Kết quả thu được sau khi xử lý số liệu được trình bày dưới dạng các bảng, biểu đồ.
368 62,0
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Bảng 1. Tỷ lệ đối tượng nghe và nguồn cung cấp
Hình thức tham gia BHYT tại địa phương 24,1 143
thông tin về BHYT (n=594)
Thông tin 6,6 39 Có SL 577 % 97,1 0,2 1 Không 17 2,9 Nghe về BHYT 421 70,9
373
Nguồn cung cấp thông tin Loa truyền thanh xã/Phường Đài, ti vi, internet, tờ rơi, áp phích, pano Báo, tạp chí Nhân viên y tế, cán bộ BHYT khác 325 395 5 62,8 54,7 66,5 0,8 BHYT cho hộ Nghèo/dân tộc BHYT cho học sinh/sinh viên BHYT cho hộ gia đình BHYT cho thân nhân người lao động và hội viên hội đoàn thể Không biết/không trả lời Khác Bảng 3 kết quả cho thấy: Tỷ lệ đối tượng biết việc mua BHYT theo hộ gia đình để được hỗ trợ khám chữa bệnh là 60,9%; Hình thức tham gia BHYT được nhiều người biết đến nhất là BHYT cho hộ nghèo/dân tộc 70,2%, BHYT cho hộ gia đình là 62%, có 6,6% không biết/không trả lời về các hình thức tham gia BHYT.
Bảng 4. Thái độ của đối tượng nghiên cứu về
BHYT (n= 594 )
Thái độ SL 452 % 76,1
140 23,6 Mọi người dân có nên tham gia BHYT không
Bảng 1 cho thấy trong tổng số 594 đối tượng nghiên cứu được phỏng vấn thì tỷ lệ nghe về BHYT là 97,1%. Nguồn cung cấp thông tin về BHYT của đối tượng tập trung chủ yếu thông qua hệ thống loa truyền thanh xã/phường với tỷ lệ là 70,9%, tiếp đến là thông qua nhân viên y tế, cán bộ BHYT là 66,5%, thông qua đài, tivi, internet, tờ rơi, áp phích, pano là 62,8%.
Mức thu phí BHYT hiện nay có hợp lý không 0,3 32,0 65,7 2,3 2 190 390 14
Bảng 2. Nguồn thông tin và hiểu biết của đối tượng nghiên cứu về chính sách hỗ trợ bệnh nhân HIV của UBND tỉnh Nghệ An (n = 479)
Thông tin SL Tỷ lệ (%)
421 87,9% Toàn dân tham gia Tùy theo điều kiện từng người Không cần thiết Rất hợp lý Bình thường Không hợp lý Kết quả bảng 4 cho thấy: Tỷ lệ đối tượng đồng ý với ý kiến toàn dân nên tham gia BHYT là 76,1%, không cần thiết là 0,3%; Tỷ lệ đối tượng cảm thấy mức thu phí BHYT hiện nay hợp lý là 32%, không hợp lý là 2,3%. 373
Nguồn cung cấp thông tin
Bảng 5. Thái độ của đối tượng nghiên cứu về sự cần thiết của BHYT với người nhiễm HIV và sự sẵn sàng sử dụng BHYT để đi khám bệnh HIV (n= 594)
Loa truyền thanh xã/Phường Đài, ti vi, internet, tờ rơi, áp phích, pano Báo, tạp chí Nhân viên y tế, cán bộ 325 395 77,9% 67,8% 82,5%
40
Thông tin
SL 223 358 % 37,5 60,3
10 1,7 BHYT đối với người nhiễm HIV có cần thiết không
hoàn toàn tự nguyện còn và từ năm 2016 trở đi thì BHYT là hình thức bắt buộc và tham gia theo hộ gia đình. Hơn một nửa người nhiễm HIV/AIDS đang điều trị ARV đã hoàn toàn nhận thức được BHYT là dành cho tất cả mọi người chứ không chỉ cho người ốm hay người khỏe.
3 462 122 0,5 77,8 20,5
10 1,7 Anh chị có sẵn sàng sử dụng thẻ BHYT Rất cần thiết Cần thiết Tùy theo tình trạng bệnh Không cần thiết Sẵn sàng sử dụng Vẫn còn e ngại Không sẵn sàng sử dụng