BỆNH HẠI LÚA -
BỆNH VÀNG LỤI
(Transitory yellowing)
Bệnh vàng lụi (còn gọi là bệnh vàng tạm thời hoặc bệnh vàng lá di
động) là loại bệnh do vi rút Transitory yellowing gây lên và môi giới
truyền bệnh là rầy xanh (Nephotettix cincticeps, N. Nigropictus và N.
Viresent). Bnh này xuất hiện từ năm 1958 và chủ yếu chỉ có ở các tỉnh
phía Bắc Việt Nam.
Cây bị bệnh lùn, lá bị vàng bắt đầu từ những lá phía dưới. Lá biến
thành màu ng da cam từ mép lá và chóp lá trở vào. Lá lúa co ngắn lại
và xoè ngang ra ging như lá cây gừng, Lá non thường có màu xanh
nhạt lốm đốm hoặc thành sọc dài ngắn khác nhau chạy song song với
gân lá. Cây lúa lùn hẳn xuống, bộ rễ kém phát triển có màu đen và tanh.
Khi cây lúa bị vàng lá nặng và bị sớm có thể lụi chết trước khỉ trỗ. Nếu
bnhiễm bệnh muộn thì mức đbệnh nhẹ, nếu không chữa trị thì cây
lúa có thể sống đến khi trỗ bông nhưng trỗ muộn, bông lúa nhỏ, nhiều
hạt lép và thường trỗ không thoát. Hạt lúa bị lửng và nhẹ, vỏ trấu có vệ
nâu đậm hoặc biến màu. Cây nhiễm bệnh muộn có thể không biểu hiện
triệu chứng trước khi thu hoạch nhưng cây lúa chét mọclên thường biểu
hiện bệnh rõ rệt từ đầu. Nếu bệnh nhẹ và được chữa trị tích cực, kịp
thi thì có thể hồi phc và cho năng suất bình thường.
Trên rung lúa lúc đầu có một số dảnh lúa bị bệnh, sau đó từ những
dảnh này lan ra thành từng chòm và toàn ruộng. Sự phát triển và tác hại
của bệnh có liên quan chặt chẽ với giống lúa, số lượng rầy và đặc điểm
ruộng. Mức độ nhiểm bệnh lúa vàng lụi của các giống lúa rất khác
nhau.
Phòng tr bằng cách:
● Sử dụng các giống lúa kháng bệnh.
● Nếu phát hiện trên ruộng có dảnh bị nhiễm bệnh thì ngay lập tức phải
nhổ bỏ và phun thuốc trừ rầy.
● Cách chữa bệnh: khi ruộng bị bệnh nhẹ và ở giai đoạn lúa đẻ nhánh,
áp dụng các biện pháp thay nước ruộng, bón thêm vôi và phân lân kết
hợp làm cỏ sục bùn, phun thuốc trừ rầy, sau đó khoảng 7-10 ngày bộ rễ
lúa phát triển sẽ làm cho cây lúa hồi phục và cho năng suất bình
thường.
Cây lúa bị bệnh vàng lụi và rầy nâu môi giới truyền bệnh