Bệnh Vàng lùn hại lúa

Triệu chứng vàng và lùn cây lúa, do Virus hoặc

Mycoplasma gây ra, do rầy xanh đuôi đen

(Nephottetis virescens và Nephotettis nigropictus) là

môi giới truyền bệnh đã được ghi nhận từ lâu, khoảng

năm 1969 ở Ấn Độ, Bangladesh,Philippines, Thái

Lan, Indonesia và Nhật Bản. Bệnh được gọi là

Tungro nếu tác nhân là do Virus ở 2 dạng gọi là

RTSV (Rice Tungro Spherical Virus) và dạng RTBV

(Rice Tungro Bacilliform Virus), nhưng nếu tác nhân

là Mycoplasma thì gọi là bệnh vàng lụi.

Một số bệnh trên lúa do Virus gây ra mà rầy nâu

là môi giới truyền bệnh. Có 2 dạng phổ biến là Lùn

xoắn lá (Rice Ragged Stunt Virus) và một bệnh khác

là Lùn lúa cỏ (Rice Grassy Stunt). Hai bệnh do rầy

nâu truyền, có triệu chứng rất đặc trưng là cây lúa

cũng bị lùn hẳn. Lùn, đẻ ít chồi và đặc biệt là lá bị

xoắn lại, bông ngắn hoặc trổ không thoát đó là Lùn

xoắn lá, rất phổ biến, bệnh xuất hiện theo sau những

trận dịch của rầy nâu, hầu hết bà con nông dân đều

biết và gọi đúng tên. Đối với bệnh Lùn lúa cỏ thì

ngược lại, sau khi cây lúa bị nhiễm bệnh do rầy nâu

chích hút và truyền bệnh thì bụi lúa có khuynh hướng

bị lùn hẳn và đặc trưng là đẻ rất nhiều chồi như bụi

cỏ, trên đồng ruộng, bệnh Lùn lúa cỏ thường có tỷ lệ

ít hơn bệnh Lùn xoắn lá. Như vậy nếu môi giới

truyền bệnh là rầy nâu thì cho đến nay chỉ có hai

bệnh là Lùn xoắn lá và Lùn lúa cỏ mà triệu chứng đặc

trưng như đã mô tả, vẫn chưa có ghi nhận nào mới.

Triệu chứng Vàng lùn

Tuy nhiên, ở Đồng bằng sông Cửu Long

(ĐBSCL), từ năm 1989 có xuất hiện một triệu chúng

cây lúa bị vàng và lùn, tỷ lệ nầy có thể từ 5-10% hoặc

50% trên một số giống và một số ruộng, một số giống

như OMCS96, OM997-6, OM1248 được ghi nhận

nhiễm bệnh. Tuy nhiên điều đáng quan tâm ở đây là

triệu chứng trên lại có cùng đỉnh cao xuất hiện của

quần thể rầy nâu ? Như vậy có thể đây là một bệnh

mới cần có những nghiên cứu để kết luận nhằm tránh

sự lây lan bệnh trên diện rộng. Bệnh xuất hiện thông

thường với tỷ lệ rất thấp, có những năm gây hại khá

lớn

Ngày 21 tháng 1 năm 2000, Thứ Trưởng Bộ Nông

Nghiệp, Ngô Thế Dân có gửi công văn cho các Sở

Nông Nghiệp và PTNT, Viện Trường các tỉnh phía

Nam, thông báo về tình hình bệnh Vàng lùn xuất hiện

cùng với sự bùng phát của dịch rầy nâu. Đến cuối

tháng 12-1999 có 13.120 ha lúa bị nhiễm ở các tỉnh

Bến Tre, TP Hồ Chí Minh, Bạc Liêu và Long An.

Riêng TP Hồ Chí Minh có 242 ha bệnh Vàng lùn và

không trổ được. Bộ Nông nghiệp & PTNT giao

nhiệm vụ cho Cục Bảo vệ thực vật (BVTV) chủ trì

phối hợp với Viện Khoa học Nông nghiệp miền Nam

và Viện Lúa ĐBSCL tổ chức thực hiện nghiên cứu và

xác định tác nhân bệnh Vàng lùn, quy luật phát sinh

và phát triển của bệnh liên quan đến rầy nâu. Trong

năm 1999, Hội nghị Cục BVTV phía Nam gọi là

bệnh “Vàng lùn”, chưa rõ tác nhân.

Vừa qua, từ đầu vụ Hè Thu 2006 dịch bệnh lại

phát triển và lan rộng trên hầu hết các tỉnh ĐBSCL,

với mật số rầy nâu rất cao, diện tích bị nhiễm bệnh

vàng lụi riêng tại Đồng Tháp với thiệt hại dưới 30%

là 613ha, và trên 30% là 2.636ha trong đó tiêu hủy

khoảng 500ha.

Tình hình nghiên cứu và kết quả bước đầu về

xác định tác nhân

Kết quả nghiên cứu từ Bộ môn BVTV, trường Đại

học Cần Thơ gọi là “bệnh lúa cỏ dòng 2” từ các thí

nghiệm về truyền bệnh rầy nâu với cây lúa khỏe

(PGS Phạm Văn Kim).

Ở Viện Lúa ĐBSCL, trong những năm đó còn

thiếu phương tiện, nhất là máy đọc ELISA và kháng

huyết thanh của một số dòng Virus trên lúa như

Tungro (RTSV, RTBV), Lùn xoắn lá (RRSV) Lùn

lúa cỏ (RGGSV), Vàng lụi (RDV, rice dwarf virus),

cho nên chỉ tiến hành thu thập mẫu bệnh và gửi sang

Viện Nghiên cứu lúa Quốc tế IRRI, Philippines, do

Tiến sĩ Ossmat Azzam, Virologist của Bộ môn Bệnh

cây thực hiện. Từ tháng 4-1996 đến tháng 1-1997,

trong tổng số 163 mẫu, có phản ứng dương tính với 3

loại Virus RTBV, RTSV (Tungro) và Lùn xoắn lá

RRSV với tỷ lệ rất thấp 4 mẫu/140.

Tháng 1-2005, chúng tôi mời Tiến sĩ R.C.

Cabunagan và I.R. Choi, 2 Nhà Virus học của Viện

IRRI sang, kết quả phân tích cho thấy trong số 52

mẫu lúa bị bệnh, chỉ có 1 mẫu có phản ứng dương

tính với RTSV (Tungro), và 7 mẫu với bệnh Lùn lúa

cỏ (RGSV)

Tháng 3-2006, chúng tôi có mời thêm Tiến sĩ

Hong Soo Choi, chuyên về Virus, Bộ môn Bệnh cây,

Viện Khoa học kỹ thuật Nông nghiệp Quốc gia,

Suwon, Korea cùng Tiến sĩ I. R. Choi của IRRI, sang

lấy mẫu và tiếp tục thực hiện các giám định về bệnh

bằng PCR và thực hiện giải mã (sequencing). Kết quả

về kháng huyết thanh cho thấy có nhiều triển vọng để

có thể đi đến những kết luận bước đầu. Kết quả mẫu

bệnh Vàng lùn thu thập được tại Tiền Giang do

Trung tâm BVTV phía Nam hướng dẫn và lấy mẫu,

Chi cục BVTV An Giang hướng dẫn và thu mẫu: 2

mẫu/30 có phản ứng với Tungro RTSV, 27/30 mẫu

có phản ứng với Lùn lúa cỏ, 19/30 mẫu có phản ứng

với Lùn xoắn lá trên cùng cây lúa bị bệnh.

Kết luận

Như vậy sau gần 17 năm xuất hiện và 10 năm

nghiên cứu, cho đến bây giờ chúng ta có thể kết luận

bước đầu: Bệnh Vàng lùn là một bệnh mới do sự phối

trộn của 3 loại Virus là Lùn lúa cỏ, Lùn xoắn lá

truyền bệnh do rầy nâu và Tungro do rầy xanh truyền

bệnh. Thí nghiệm lây bệnh trở lại do Tiến sĩ I.R.

Choi thực hiện tại nhà lưới IRRI với sự phối trộn của

3 loại Virus trên cho cùng triệu chứng như đã thấy ở

ĐBSCL. Những kết quả nghiên cứu về Virus sử dụng

PCR và sequencing sẽ được thông báo sau.

Phương hướng khắc phục

Kinh nghiệm ở Philippines cho thấy, khi bệnh

Virus Tungro có xu hướng phát triển mạnh trên giống

IR64 thì diện tích sản xuất giống lúa nầy giảm từ

70.000ha (1992) cho đến 2002 thì hầu như không có

nông dân nào trồng giống IR64. Bệnh do Virus gây ra

là một bệnh rất khó trị và không có loại thuốc hoá

học đặc trị nào như các dạng bệnh khác. Bệnh Vàng

lùn mới hiện nay phức tạp hơn vì liên quan nhiều

thành phần trong hệ sinh thái như: (1) Quần thể rất

cao của rầy nâu, rầy xanh (2) Sự phối hợp của 3 loại

Virus (Xoắn lá, Lúa cỏ và Tungro) (3) Môi trường

sản xuất thâm canh, nhiều vụ kéo dài liên tục, bón

phân đạm cao và (4) Giống lúa nhiễm rầy, nhiễm

Virus. Do đó cần thực hiện một số biện pháp sau:

Trước hết phải thực hiện canh tác lúa theo tinh

thần 3 Giảm 3 Tăng, trong đó không bón thừa đạm

(N), giảm mật độ sạ cấy, giảm sử dụng thuốc hóa học

nhằm tạo thế cân bằng sinh học trên diện rộng, bón

phân cân đối tạo sức đề kháng cho cây lúa, sạ cấy

thưa tạo điều kiện cho ánh sáng xuyên qua tán, sương

mù sẽ tan nhanh trên lá, do nhiệt độ tăng, ẩm độ giảm

trong tán tạo thế bất lợi cho sâu bệnh phát triển.

Cày bỏ ngay số diện tích lúa bị nhiễm bệnh, vì

rầy nâu có thể tiếp tục chích hút cây lúa bị bệnh và

mang Virus phát tán đi nới khác, cây lúa bị bệnh còn

tồn tại trên ruộng sẽ là mầm móng chứa Virus, cày ải

phơi đất sẽ diệt mầm Virus trong gốc rạ.

Không trồng giống nhiễm rầy, nhiễm Virus trên

diện rộng (?)

Gieo sạ đồng loạt trên diện rộng lớn, nhằm hạn

chế di chuyển của quần thể rầy, do chuyển tiếp nguồn

thức ăn cho nên rầy mang Virus lây lan ra diện rộng,

do vậy không nên gieo trồng rải rác có liên quan đến

vụ 3, chỉ nên tập trung 2 vụ. Dịch bệnh Vàng lùn có

liên quan mật thiết đến thời vụ gieo sạ liên tục trên

ruộng, cả không gian và thời gian đều tối hảo để dịch

bệnh phát tán.

Tăng cường sức đề kháng của lúa đối với Virus,

sử dụng một số chất kích kháng có thể hạn chế sự

phát triển của Virus trong cây lúa như K2HPO4,

CuCl2 cho xử lý hạt, Humid acid (Risopla V) 1-1,5

kg/ha bón lót thì càng tốt.

Giống kháng là biện pháp có hiệu quả kinh tế

nhất, giống kháng đối với rầy nâu chưa hẳn là kháng

đối với Virus, hơn nữa, bệnh Vàng lùn là sự phối hợp

của 3 loại Virus (Xoắn lá, Lúa cỏ và Tungro) do vậy

công tác thanh lọc giống kháng là khá phức tạp. Viện

Lúa cần có sự hỗ trợ về kinh phí để thực hiện các

nghiên cứu nầy.

Sử dụng thuốc hóa học có thể làm giảm mật số

rầy nhưng vẫn không thể giải quyết được bệnh Vàng

lùn, vì sự truyền bệnh có thể xảy ra giữa rầy và cây

lúa trong khoảng thời gian rất ngắn.

Các Viện, Trường cần hợp tác trong nghiên cứu

phòng trừ bệnh Vàng lùn như:

Giống kháng bệnh Vàng lùn.

Thời gian gieo sạ đồng loạt và thích hợp, phối hợp

trên diện rộng.

Virus gây bệnh Vàng lùn, thời gian truyền bệnh

(mode), thời gian ủ bệnh.

Quan hệ sinh học về phát sinh phát triển giữa

Virus và rầy nâu, rầy xanh.

Các biện pháp canh tác đối với bệnh Vàng lùn.

Ứng dụng đa dạng sinh học trong phòng trừ bệnh.