Các biến chứng do tổn thương phổi lan tỏa

Bệnh phổi cấp tính (ALI) và hội chứng suy hô hấp cấp tiến

triển (ARDS), hội chứng suy hô hấp cấp tính nặng (SARS)

là các biến chứng nặng do tổn thương phổi lan toả, gây suy

hô hấp nặng và có thể dẫn tới tử vong.

Nguy cơ dẫn đến suy hô hấp cấp tính là gì ?

Suy hô hấp cấp tiến triển rất nhanh, tổn thương thâm nhiễm

cả hai bên phổi, trong đó bệnh phổi cấp tính có thể tiến

triển thành suy hô hấp cấp tiến triển hoặc không, khi đó

tình trạng tổn thương phổi nhẹ hơn hội chứng suy hô hấp

cấp tiến triển. Có nhiều nguy cơ dẫn đến suy hô hấp cấp

tính như: viêm phổi do vi khuẩn hoặc virut, tổn thương

phổi do hít khói hay khí độc; đụng dập phổi; tắc mạch phổi

(do mỡ, khí, nước ối); ngộ độc thuốc như heroin,

methadon, barbiturates, salicylat…; nhiễm khuẩn nặng, đặc

biệt là nhiễm khuẩn gram âm; sốc, nhất là sốc nhiễm khuẩn

và sốc chấn thương; viêm tuỵ cấp; đa chấn thương; bỏng

rộng; truyền máu số lượng lớn…

Phát hiện suy hô hấp cấp tính có khó không?

Một người bị suy hô hấp cấp tính thường có các biểu hiện

sau: có yếu tố nguy cơ nói trên. Có khó thở tăng dần, tím

môi và đầu ngón tay chân. Nếu được cho thở oxy thì đáp

ứng kém với liệu pháp này. Chụp phim Xquang thấy tổn

thương phế nang lan toả hai bên phổi, tiến triển nặng dần.

Khi chuyển sang hội chứng suy hô hấp cấp tiến triển có các

dấu hiệu: bệnh nhân thấy khó thở tăng dần, nhịp tim nhanh,

thở nhanh, có yếu tố nguy cơ; suy hô hấp cấp tính; chụp

Xquang thấy tổn thương phổi lan toả hai bên; áp lực mao

mạch phổi bít dưới 18mmHg; phổi tổn thương không đồng

nhất; tăng áp động mạch phổi; tăng shunt phải-trái…

Bệnh cần phân biệt với các bệnh: phù phổi do tim; viêm

phổi lan toả hai bên; viêm phổi tăng bạch cầu ái toan; ho ra

máu nặng.

Biến chứng của bệnh?

Bệnh thường có các biến chứng hay gặp là: suy đa phủ

tạng; biến chứng do thở máy như: nhiễm khuẩn bệnh viện,

chấn thương áp lực gây ra tràn khí màng phổi, tràn khí

trung thất, tổn thương phổi do dùng nồng độ oxy cao, kéo

dài; biến chứng muộn là xơ phổi.

Chữa trị và phòng bệnh như thế nào?

Bệnh nhân nhất thiết phải nhập viện để điều trị. Trong biện

pháp điều trị nội khoa cần chú ý chăm sóc, nuôi dưỡng

đường tiêu hoá cho bệnh nhân đầy đủ dinh dưỡng. Điều

chỉnh dịch: bệnh nhân cần được hướng dẫn hạn chế uống

nước hay ăn thức ăn lỏng nhiều nước để giảm dịch vào cơ

thể tránh nguy cơ phù phổi. Đối với bệnh nhân có tăng thể

tích tuần hoàn thì phải hạn chế dịch kết hợp cho thuốc lợi

tiểu. Trường hợp bệnh nhân có huyết động không ổn định,

khi đó có thể truyền dịch, nhưng phải thận trọng, cần theo

dõi áp lực tĩnh mạch trung tâm kết hợp với thuốc vận mạch.

Các thuốc có thể dùng là: corticosteroid nhưng không có

chỉ định dùng liều cao trong giai đoạn đầu, thuốc có thể có

hiệu quả trong giai đoạn sau nếu không có nhiễm khuẩn,

liều được khuyên dùng là: methylprednisolon 2 mg/ngày x

14 ngày, sau đó giảm dần liều. Thuốc kháng sinh cần phải

sử dụng sớm khi nguyên nhân gây hội chứng suy hô hấp

cấp tiến triển là nhiễm khuẩn hoặc trong điều trị nhiễm

khuẩn do thở máy. Lưu ý là bệnh nhân cần nằm ở tư thế

đầu cao.

Thông khí là biện pháp điều trị cơ bản của hội chứng suy

hô hấp cấp tiến triển với yêu cầu là bảo đảm nồng độ oxy

máu động mạch thoả đáng và nguy cơ biến chứng do thở

máy tối thiểu. Có thể bắt đầu bằng thông khí không xâm

nhập với bệnh nhân bệnh phổi cấp hay hội chứng suy hô

hấp cấp tiến triển nhưng chưa bị thiếu oxy quá nặng. Cần

thiết phải đặt nội khí quản khi thông khí không xâm nhập

không có hiệu quả hoặc tình trạng bệnh nhân nặng không

cho phép thông khí không xâm nhập.

Phòng bệnh: cách tốt nhất là phát hiện và điều trị tích cực

các bệnh là yếu tố nguy cơ dẫn đến suy hô hấp cấp tiến

triển như: viêm phổi do nhiễm khuẩn, phòng tránh tai nạn

hít phải khói hay khí độc như không đốt bếp than ở phòng

kín, không nổ máy xe ở gara đóng kín hay trong phòng ở;

tránh té ngã hay tai nạn giao thông gây đụng dập phổi;

tránh ngộ độc thuốc như heroin, methadon, barbiturates,

salicylat…

ThS. Phạm Thanh Tùng