
1
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1 Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu
1.1.1 Bối cảnh nghiên cứu thực tiễn
Bảo hiểm xã hội đóng vai trò trung tâm trong việc bảo vệ xã hội, góp phần vào sự
tiến bộ và công bằng, đồng thời duy trì sự ổn định chính trị và xã hội. Nó không những
giúp người dân đối phó với rủi ro bằng cách bù đắp thu nhập mà còn giảm bớt gánh
nặng cho NSNN
Bảo hiểm xã hội Việt Nam là cơ quan thuộc Chính phủ, chịu trách nhiệm tổ chức
thực hiện thu, chi, quản lý quỹ BHXH, BHTN, BHYT và thực hiện giải quyết hưởng
các chế độ BHXH cho người tham gia. Qua hơn 25 năm tổ chức thực hiện và quản lý
các quỹ BHXH, BHTN, BHYT; hệ thống BHXH Việt Nam ngày một phát triển lớn
mạnh cả về quy mô lẫn phạm vi hoạt động. Cùng với nhiều biện pháp triển khai, khai
thác và phát triển đối tượng tham gia BHXH nhưng vẫn chưa thuyết phục và chưa thật
sự tham gia một cách tự nguyện. Từ đó, sẽ gây áp lực cho xã hội trong giải quyết các
mối quan hệ về sau.
Theo số liệu của Tổng Cục thống kê năm 2009, dân số nước ta đang trong thời kỳ
cơ cấu dân số vàng, lực lượng lao động trẻ chiếm phần lớn, thời kỳ cơ cấu dân số vàng
sẽ không dừng lại lâu dài, ước tính chỉ sau 20 đến 50 năm thì cơ cấu dân số nước ta sẽ
chuyển sang dân số già, tuổi thọ bình quân ở nước ta cũng được dự báo tăng cao do đã
có nhiều cải thiện về kinh tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân. Từ đó, dự báo việc v quỹ
là có nguy cơ, cụ thể nguy cơ thiếu hụt lao động, đối tượng tham gia BHXH giảm, trong
khi đó tăng chi ngân sách nhà nước cho việc chăm sóc sức khỏe, bảo đảm đời sống vật
chất cho người dân sẽ ngày càng cao. Như vậy, nếu không kịp thời có các biện pháp
khai thác và phát triển mở rộng loại hình tham gia BHXHTN trong những năm về sau
thì việc đảm ASXH, người hết tuổi lao động nhưng không có khoản thu nhập ở tuổi già
các chi phí đảm bảo cuộc sống ở mức tối thiểu cũng sẽ là một gánh nặng cho quốc gia
Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018 đặt nền móng cho việc cải thiện an sinh
xã hội và tăng cường khả năng thực hiện chính sách của các cơ quan, với sự đóng góp
của hệ thống chính trị và cộng đồng, nhất là giới trẻ. Điều này giúp giảm áp lực tài chính
cho nhà nước và góp phần vào sự ổn định lâu dài. Tuy nhiên, việc mở rộng BHXHTN
vẫn gặp khó khăn do sự khác biệt giữa các lĩnh vực ngành nghề và các khu vực, vùng
miền khác nhau.
Nguyễn Thế Mạnh đã từng chỉ ra rằng ĐBSCL, quan trọng trong phát triển kinh
tế-xã hội, chủ yếu là nông nghiệp và thủy sản, có lực lượng lao động dồi dào nhưng còn
nhiều khó khăn kinh tế. Trong hơn 10 năm qua, chỉ có 83.313 người, tương đương 0,48%
dân số và 0,82% lực lượng lao động, tham gia BHXH TN, cho thấy tỷ lệ tham gia còn
rất thấp. Phần lớn người tham gia là cán bộ không chuyên trách và người dân được hỗ
trợ từ ngân sách nhà nước, cùng một số ít người đóng đủ 20 năm để hưởng lương hưu.
Số lượng tham gia hiện tại không tương xứng với tiềm năng lao động của khu vực
Hiện nay, việc phát triển loại hình BHXHTN cũng còn khá nhiều hạn chế và bất
cập trong thực thi chính sách. Tùy điều kiện, ở từng vùng miền, từng lĩnh vực và ở các
địa phương khác nhau, đưa ra các mô hình khác nhau cho từng địa điểm cụ thể. Chính
vì thế, nghiên cứu vấn đề trong công tác quản lý “phát triển BHXHTN của khu vực
ĐBSCL” là vấn đề cấp thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất sâu sắc, phù hợp với
định hướng đảm bảo công tác an sinh xã hội về sau của nước ta.
1.1.2 Bối cảnh nghiên cứu lý thuyết