Các quan điểm về các kiểu chc năng của ngôn ngữ
Thời kì của cấu trúc luận
1.1. Chức năng hướng tới người nói (Speaker-oriented)
Thuộc về chức năng này (còn gọi là chức ng bộc lexpress function)
sphn ánh được những tình cm, thái độ, cảm xúc và quan điểm của người
nói.
Ví dụ: tình cảm (vui, buồn...); trình độ học vấn...
1.2. Chức năng hướng tới người nghe (Hearer-oriented)
Đây là chức ng về thụ cảm ngôn ngữ (conative function),nhờ ngôn ngữ
người nghe thể hiểu được ý định thông tin của người nói cũng như
những mong muốn ca người nói vi mình.
dụ: phân bit giữa câu hỏi và câu mệnh lệnh; câu cảm thán câu hỏi
tu t– câu trần thuật câu hỏi thông thường...
1.3. Chức năng biểu diễn/ biểu hiện (Representative)
Đây chức ng quan trng nhất xét vmt giao tiếp. Những thông tin,
ước muốn, truyền giao thông tin giữa người nói người nghe được ngôn
ngữ thực hiện thông qua chức năng này. Bằng chức năng thứ 3, những thông
tin thuần về thế giới, vtư duy, về các svật, hiện tượng ở xung quanh đã
được truyền tải và tạo nên nhng thông điệp ngôn ngữ. 90% các ni dung
thông tin trong các cuộc giao tiếp ca cộng đồng là những thông tin thuần
do chức năng thứ 3 đảm nhiệm.
Ví dụ: Hôm nay tôi đi học lúc 7 giờ. (1)
Thông điệp này cho chúng ta biết thời gian, không gian, nh động và
mục đích hành động ca một sự tình cụ thể do người nói phát lên.
(1) khác vi thông tin khác như:
7 gi30 phút, trời vẫn còn tối, không đi học được (2)
Trong phát ngôn (2) này, chúng ta ththấy được thêm chức ng thứ
nhất thông qua việc thhiện tính lười biếng của chủ thể phát ngôn.
Nhận xét: Chnghĩa cấu trúc, trong vòng nửa thế kỉ (1913 1957) ch giới
hạn mình trong 3 chức ng kể trên. có thnhận thy 3 chức năng này
ln lượt tương ứng vi 3 loại câu (phân theo mục đích nói): 1. Câu cảm thán;
2. Câu hi; 3. Câu trần thuật.
Đó chính là một hệ thng các phù hiệu (symbols), bởi vì tương ứng vi một
cái biu hin cụ thể bao gicũng có một cái được biểu hiện đi kèm. Xét theo
ngun gốc và bn chất ca ngôn ngữ với tư cách là một hiện tượng ca hành
vi con người thì ngôn ngmang tính c tượng, thể tìm ra được các
do khác nhau cho mi quan hgiữa cái biểu hin và cái được biu hiện trong
một hệ thng ngôn ngữ. Tuy nhiên, nếu xét trong bình diện sử dụng thì
người ta không quan tâm nhiều lm đến bản chất có lí do của mối quan h
này mà chỉ quanm đến các giá trị (giá tr xã hội) trong khi sử dụng của hệ
thống kí hiệu này mà thôi. Trong diện đồng đại của vấn đề, người ta có thể
trừu tượng hoá tính cụ tượng ca ngôn ngữ và thay vào đó là tính biểu trưng
hay tính p hiệu ca mỗi một yếu tố của hệ thống ngôn ngữ.