Cây ngải cứu – Cây ngải cứu ôn khí huyết

điều hòa tuần hoàn não

Cây ngải cứu có tên khoa học Artemisia vulgaris L. họ Cúc Asteraceae, trong dân

gian còn gọi cây ngải cứu là cây thuốc cứu, cây thuốc cao, ngải điệp.

Hình ảnh cây ngải cứu

Đặc điểm thực vật, phân bố của cây ngải cứu: Là loại cỏ sống lâu năm, thân có

rãnh dọc. Lá mọc so le không cuống, màu 2 mặt lá khác nhau, mặt trên nhẵn, màu

lục sẫm. Mặt dưới trắng tro, có nhiều lông nhỏ. Cây ngải cứu mọc hoang ở nhiều

nơi trong cả nước, có thể trồng quanh nhà làm thuốc.

Cách trồng cây ngải cứu: Trồng bằng thân ngầm, cành, ngọn bánh tẻ vào mùa

xuân.

Bộ phận cây ngải cứu dùng: Thu hái lá và ngọn có hoa vào mùa hè, dùng tươi

hoặc phơi khô trong râm mát. Ngải cứu phơi khô để lâu năm càng tốt. Lá ngải cứu

phơi khô gọi là ngải điệp. Lá ngải cứu phơi khô vỏ cắt thành bột vụn rây lấy phần

lông trắng và tơi gọi là ngải nhung.

Công dụng, chủ trị của cây ngải cứu: Có vị đắng, cay ấm, làm thuốc ôn khí

huyết, điều kinh, an thai, chữa đau bụng do hàn, kinh nguyệt không đều. Lá ngải

sao cháy có tác dụng cầm máu.

Liều dùng bài thuốc có cây ngải cứu: mỗi lần 8- 12 g, dưới dạng thuốc sắc cây

ngải cứu hay nước cốt tươi, làm mồi ngải hay điếu ngải dùng để cứu, ngày 1-2 lần,

mỗi lần 10-15 phút.

Chú ý: những trường hợp có sốt không nên dùng ngải cứu.

Đơn thuốc có thành phần cây ngải cứu:

- Bột ngải cứu, bột mạch nha theo tỉ lệ 1:3, mật ong vừa đủ, làm viên bổ máu 6-10

g, ngày ăn 1-2 viên.

- Cao hương ngải điều kinh, điều hòa tuần hoàn não: ngải cứu, củ gấu, ích mẫu,

bạch đồng nữ tỷ lệ bằng nhau, nấu thành cao lỏng tỉ lệ 1:1, uống 30-60ml/ ngày.