Chất lượng tín dụng trung - dài hạn trong hoạt động của các

ngân hàng thương mại

Tác giả

 Đại Học Kinh Tế Quốc Dân

Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng trung - dài hạn

Nâng cao chất lượng tín dụng trung - đài hạn là đòi hỏi bức thiết đối với

sự phát triển kinh tế

Trước hết, ta hiểu chất lượng tín dụng là sự đáp ứng nhu cầu của khách hàng

phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo sự tồn tại và phát triển

của ngân hàng. Chất lượng tín dụng trung - dài hạn chính là vốn cho vay

trung - dài hạn của ngân hàng được khách hàng đưa vào quá trình sản xuất

kinh doanh dịch vụ … để tạo ra một số tiền lớn hơn thông qua đó ngân hàng

sẽ thu được cả gốc và lãi cho ngân hàng đúng thời hạn, bù đắp được chi phí

và có lợi nhuận. Như vậy, qua một quá trình chu chuyển vốn, ngân hàng sẽ

thu hồi vốn và lãi cón khách hàng sử dụng vốn có hiệu quả. Xét về tổng thể

ngân hàng vừa tạo ra được hiệu quả kinh tế vừa tạo ra được hiệu quả xã hội.

Sinh ra từ nền sản xuất hàng hoá, tín dụng đã có những đóng góp đáng kể

trong việc thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn để đẩy mạnh tiến trình

phát triển của nền kinh tế. Sinh ra từ nền sản xuất hàng hoá, tín dụng đã có

những đóng góp đáng kể trong việc thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung

vốn để đẩy mạnh tiến trình phát triển của xã hội. lịch sử đã chứng minh điều

đó thông qua sự ra đời và phát triển của xã hội loài người qua các hình thái

kinh tế -xã hội.

Ngày nay cùng với sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá, tín

dụng cũng ngày càng phát triển nhằm cung cấp thêm các phương tiện giao

dịch để đáp ứng nhu cầu giao dịch ngày càng tăng trong xã hội. Trong điều

kiện đó, chất lượng tín dụng ngày càng được quan tâm bởi vì:

Đảm bảo chất lượng tín dụng là điều kiện để ngân hàng làm tốt vai trò trung

tâm thanh toán: khi chất lượng tín dụng được đảm bảo sẽ tăng vòng quay vốn

tín dụng, với một khối lượng tiền như cũ, có thể thực hiện số lần giao dịch

lớn hơn, tạo điều kiện tiết kiệm tiền trong lưu thông, củng cố sức mua của

đồng tiền.

Chất lượng tín dụng góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ, tăng trưởng

kinh tế, tăng uy tín quốc gia. Xuất phát từ chức năng tập trung và phân phối

lại vốn trong nền kinh tế, tín dụng trung - dài hạn đã thu hút những nguồn

vốn dư thừa, tạm thời nhàn rỗi để đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh,

đáp ứng nhu cầu vốn cho doanh nghiệp từ đố phục vụ cho sự tăng trưởng nền

kinh tế. Mặt khác tín dụng trung - dài hạn là một trong những cách để đưa

tiền vào lưu thông nhằm làm cho khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế phù hợp

với khối lượng hàng hoá. Xuất phát từ chức năng tạo tiền của các ngân hàng

thương mại, thông qua cho vay chuyển khoản, thực hiện thanh toán không

dùng tiền mặt, các ngân hàng thương mại có thể mở rộng tiền ghi sổ gấp

nhiều lần so với sô tiền thực có hoặc vì lý do nào đó, các chủ tài khoản có

khả năng phát hành séc và thanh toán bằng các phương tiện khách cho khách

vượt quá số tiền gửi thực tế của hộ … nhưng khi đi vào lưu thông chúng đều

có quyển thanh toán, chi trả như các phương tiện khác và thường chúng được

chuyển thành tiền mặt. Như vậy nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng thương

mại có quan hệ chặt chẽ với khối lượng tiền mặt trong lưu thông và là

nguyên nhân tiềm ẩn của lạm phát. Đảm bảo chất lượng tín dụng sẽ tạo khả

năng giảm bớt lượng tiền thừa trong lưu thông, góp phần hạn chế lạm phát,

ổn định tiền tê, tăng uy tín quốc gia bằng việc phát huy tác dụng của các sản

phẩm, dịch vụ trương tương lai của các công trình đầu tư.

Tín dụng là công cụ thực hiện chủ trưởng của Đảng và Nhà nước về phát

triển kinh tế - xã hội theo từng ngành, từng lĩnh vực, mặt khác, thông qua sự

phân tích đánh giá khả năng phát triển của đối tượng định đầu tư để có

những quyết định đầu tư đúng đắn nhằm khai thác khả năng tiềm tàng về tài

nguyên, lao động, tiền vốn… để tăng cường năng lực sản xuất, cung cấp

ngày càng nhiều sản phẩm cho xã hội, giải quyết công ăn việc làm, tăng thu

nhập cho người lao động… chất lượng tín dụng trung - dài hạn được nâng

cao sẽ góp phần tăng hiệu quả sản xuất xã hội, đảm bảo sự phát triển cân đối

giữa các vùng, các ngành trong cả nước, ổn định và phát triển kinh tế.

Chất lượng tín dụng trung - dài hạn góp phần làm lanh mạnh quan hệ tín

dụng: hoạt động tín dụng được mở rộng với các thủ tục đơn giản hoá, thuận

tiện nhưng vẫn tuân thủ các nguyên tắc tín dụng sẽ góp phần cho vay đúng

các đối tượng cần thiết, giảm thiểu và đi đến xoá bỏ nạn cho vay nặng lãi chủ

yếu hiện nay đang hoành hành ở nông thôn và các vùng xa xôi hẻo lánh.

Tín dụng nói chung và tín dụng trung - dài hạn nói riêng có mối quan hệ mật

thiết với nền kinh tế - xã hội, thiết lập một mối cơ chế chính sách đồng bộ, có

hiệu quả sẽ có tác động tích cực với mọi mặt của nền kinh tế - xã hội, điều đó

cũng có thể hiện chất lượng hoạt động tín dụng trong nền kinh tế thị trường.

Nâng cao chất lượng tín dụng quyết định sự tồn tại và phát triển của các

ngân hàng thương mại

Chất lượng tín dụng trung - dài hạn tốt làm tăng khả năng cung cấp dịch vụ

của các ngân hàng thương mại do tạo thêm nguồn vốn từ việc tăng được

vòng quay vốn tín dụng và thu hút được nhiều khách hàng bởi các hình thức

của sản phẩm, dịch vụ tạo ra một hình ảnh về biểu tượng và uy tín của ngân

hàng và sự trung thành của khách hàng.

Chất lượng tín dụng trung - dài hạn tốt làm tăng khả năng sinh lợi của sản

phẩm, dịch vụ ngân hàng do giảm được sự chậm trễ, giảm chi phí nghiệp vụ,

chi phí quản lý, các chi phí thiệt hại do không thu hồi được vốn vay đã cho

vay. Mặt khác nó còn đảm bảo khả năng thanh toán và lợi nhuận của ngân

hàng, tạo thế mạnh cho ngân hàng trong cạnh tranh, tạo thuận lợi cho sự tồn

tại lâu dài của ngân hàng vì chất lượng tín dụng tốt tạo cho ngân hàng có

nhiều khách hàng trung thành và những khoản lợi nhuận để bổ xung vốn đầu

tư. Bên cạnh đó, chất lượng tín dụng tốt giúp ngân hàng củng cố các mối

quan hệ xã hội bằng những điều kiện tốt nhất.

Có thể nói, với những ưu thế trên, việc củng cố và tăng cường chất lượng tín

dụng trung - dài hạn của các ngân hàng thương mại là sự cần thiết khách

quan vì sự tồn tại và phát triển lâu dài của các ngân hàng thương mại. Vì

vậy, chất lượng tín dụng luôn luôn đòi hỏi phải được nâng cao..

Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng trung - đài hạn

Chất lượng tín dụng trung - dài hạn được xem xét, đánh giá thông qua hệ

thống chỉ tiêu sau:

Về phía khách hàng:

a. Các chỉ tiêu định tính đó là:

- Dự án sử dụng vốn vay trung - dài hạn của ngân hàng có đủ cơ sở pháp lý,

kinh tế, kỹ thuật để thực hiện được.

- Vốn vay được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả, đảm bảo đủ khả năng

trả ngân hàng nợ gốc và lãi, trang trải chi phí khác và để lại cho doanh

nghiệp một khoản thu nhập.

b. Các chỉ tiêu định lượng đó là:

- Thời gian thi công, thực hiện dự án đảm bảo đúng tiến độ.

- Chi phí phải không được vượt quá mức chi phí cho phép.

- Doanh thu phải không được thấp hơn mức doanh thu dự kiến.

- Lợi nhuận phải đạt hoặc vượt quá mức lợi nhuận đã định trong dự án.

Về phía ngân hàng

Các chỉ tiêu định tính đó là:

- Cho vay phải tuân thủ ba nguyên tắc: vốn vay phải được đảm bảo bằng tài

sản đảm bảo nợ vay, phải hoàn trả vốn, lãi đúng thời hạn và theo cam kết tại

hợp đồng tín dụng đã ký.

- Cho vay phải tuân thủ các điều kiện như lập hồ sơ cho vay, có phương án

sản xuất kinh doanh, có báo cáo tài chính, sản xuất kinh doanh phải có hiệu

quả, có tài sản thế chấp hợp pháp… kèm theo đó là việc kiểm tra trước, trong

và sau khi vay.

Các chỉ tiêu định lượng đó là:

- Chỉ tiêu nợ quá hạn: là chỉ tiêu cơ bản cho biết chất lượng một khoản cho

vay:

Đến kỳ hạn trả nợ và lãi tiền vay, nếu bên đi vay không đủ tiền để trả và

không được gia hạn nợ thì ngân hàng sẽ chuyển số nợ đó sang nợ quá hạn.

Nợ quá hạn chính là điều mà ngân hàng không hề mong muốn nhưng nó

không phải là thước đo chuẩn để căn cứ vào đó đánh giá chất lượng tín dụng

của món vay. Trên thực tế, các ngân hàng luôn cố gắng tìm cách để hạ tỷ lệ

nợ quá hạn tới mức thấp nhất có thể được.

Chỉ tiêu này cho biết tỷ lệ nợ quá hạn của trung - dài hạn chiếm bao nhiêu

phần trăm trong tổng dư nợ tín dụng. Tỷ lệ này không có hoặc càng nhỏ càng

tốt.

- Chỉ tiêu nợ quá hạn khó đòi:

Nếu tỷ lệ này cao thì nó phản ánh rằng món cho vay của ngân hàng có chất

lượng rất thấp, hoạt động của ngân hàng không có hiệu quả và các chỉ tiêu

khác để đánh giá chất lượng tín dụng trung - dài hạn trở nên không có giá

trị. Vì vậy chỉ tiêu này không có hoặc càng thấp càng tốt.

- Chỉ tiêu lợi nhuận:

Thông qua chỉ tiêu này, ta sẽ thấy được khả năng sinh lời của tín dụng trung

- dài hạn. Bất kỳ một khoản tín dụng nào cho dù đó là khoản ngắn hạn hay

trung - dài hạn không thể xem là có chất lượng cao nếu nó không đem lại lợi

nhuận thực tế cho ngân hàng. Tuy nhiên đối với các ngân hàng, đặc biệt là

các ngân hàng quốc doanh thì lợi nhuận nhiều khi không phải là cái đích để

ngân hàng hướng tới mà điều quan trọng là thực hiện được chủ trương,

chính sách của Đảng và nhà nước. Đặc biệt đối với NHNo & PTNT, với chức

năng cho vay trung - dài hạn với mức lãi suất kể cả lãi suất ưu đãi tín dụng

để thực hiện các đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước thì trong

nhiều trường hợp lợi nhuận không phải là mục tiêu mà ngân hàng cần phải

hướng tới. Nói như vậy không có nghĩa là ngân hàng không quan tâm tới lợi

nhuận. Vì sự tồn tại và phát triển của bản thân ngan hàng mà ngân hàng

không thể cho vay các món vay có lợi nhuận bằng không hoặc nhỏ hơn

không. Nhìn chung nếu như c các chỉ tiêu khác giữa các dự án cho vay là như

nhau thì dự án cho vay nào đem lại lợi nhuận cao hơn vẫn thường được các

ngân hàng ưu ái hơn. Thường thì chỉ tiêu này càng cao càng tốt.

- Chỉ tiêu vòng quay của vốn:

Chỉ tiêu này cho ta biết ngân hàng thu nợ theo kế hoạch trong hợp đồng tín

dụng được bao nhiêu để có thể lại cho vay dự án mới. Vòng quay của vốn

càng lớn thì càng tốt vì điều đó khẳng định ngân hàng thu được nhiều nợ và

chứng tỏ nguồn vốn trung - dài hạn ngân hàng đã đầu tư hoạt động có hiệu

quả. Ngược lại, nếu vòng quay của vốn càng nhỏ thì việc thu nợ của ngân

hàng là kém và nguồn vốn trung - dài hạn mà ngân hàng đã đầu tư hoạt động

kém hiệu quả.

Như vậy khi xem xét đánh giá chất lượng tín dụng trung - dài hạn, ta không

thể căn cứ vào một chỉ tiêu cụ thể nào mà phải sử dụng tổng hợp một hệ

thống các chỉ tiêu để có thể đưa ra kết luận chính xác. Giữa chất lượng tốt và

chất lượng chưa tốt không phải lúc nào cũng rạch ròi mà có thể rất khó nhận

ra. Ngay cả khi ta sử dụng mọi chỉ tiêu thì ta cũng chưa thể đánh giá chính

xác được chất lượng cho vay vì chất lượng tín dụng vừa mang tính cụ thể vừa

mang tính trìu tượng. Sự trìu tượng, mơ hồ ở các dự án nhiều khi là rất lớn,

đặc biệt thể hiện trong các dự án cho vay vì mục tiêu xã hội hay theo định

hướng phát triển kinh tế của đất nước.

Tóm lại, các chỉ tiêu đánh giá, xem xét chất lượng tín dụng phải luôn được

xem xét phân tích thường xuyên cả hai mặt định tính và định lượng, cả về lợi

nhuận thuần tuý và lợi ích xã hội, cả trên quan điểm ngân hàng và khách

hàng. Thực hiện được điều này sẽ giúp cho bản thân các ngân hàng cũng như

khách hàng đánh giá được chất lượng tín dụng một cách chính xác đầy đủ

nhất. Qua đó có thể giải quyết được những hạn chế, vướng mắc cũng như

phát huy được những ưu điểm để nâng cao chất lượng tín dụng trung - dài

hạn, góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế đất nước.

Những nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng trung - dài hạn

Những nhân tố khách quan

Môi trường kinh tế:

Môi trường kinh tế dù thay đổi theo chiều hướng nào cũng đều tác động tới

chất lượng tín dụng của ngân hàng. Nếu sự thay đổi theo chiều hướng tốt thì

chất lượng của các khoản tín dụng trung - dài hạn sẽ được nâng cao. Ngược

lại, sự thay đổi theo chiều hướng xấu thì sẽ làm cho chất lượng các khoản tín

dụng trung - dài hạn xấu đi ngoài ý muốn. Ví dụ khi nền kinh tế có hiện

tượng lạm phát tăng vọt, giá cả đồng tiền giảm sút, chỉ số giá cả tăng nhanh

gây khó khăn cho sản xuất kinh doanh, tác động xấu đến khả năng thu hồi

công nợ của ngân hàng. Hay khi có sự biến động lớn trong tỷ giá do sự thay

đổi chính sách tiền tệ của Nhà nước, đồng nội tệ bị giảm giá, các doanh vốn

bằng ngoại tệ mà không có nguồn thu bằng ngoại tệ sẽ gặp khó khăn trong

việc trả nợ ngân hàng. Sự biến động về tỷ giá như vậy cũng khiến các doanh

nghiệp phải nhập thiết bị nước ngoài lẽ ra đã vay ngân hàng đủ tiền sẽ trở

thành không đủ tiền để nhập gây ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng khoản

vay.

Nói như vậy không có nghĩa là chỉ môi trường kinh tế trong nước này thay

đổi sẽ tác động tới chất lượng tín dụng trung - dài hạn mà sự thay đổi của

môi trường kinh tế thế giới cũng gây ảnh hưởng không nhỏ, đặc biệt là đối

với doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu. Sự thay đổi ấy thể hiện trực tiếp

qua sự biến động về nhu cầu thị trường, sự biến động về tỷ giá khiến cho các

doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu bị thua lỗ ảnh hưởng tới việc trả nợ

ngân hàng của doanh nghiệp.

Môi trường chính trị - xã hội

Môi trường chính trị - xã hội ổn định sẽ giúp cho các doanh nghiệp mạnh

dạn đầu tư lâu dài cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngược lại, nếu môi

trường chính trị - xã hội mà bất ổn thì các doanh nghiệp sẽ không dám mạnh

dạn đầu tư mà chỉ duy trì ở mức tái sản xuất giản đơn để bảo đảm an toàn

vốn. Điều này sẽ ảnh hưởng tới quy mô các khoản tín dụng trung - dài hạn

của ngân hàng, các món vay chủ yếu sẽ là ngắn hạn còn khoản tín dụng

trung - dài hạn sẽ không có hoặc rất nhỏ vì sự không ổn định về chính trị - xã

hội dẫn đến việc kinh doanh của doanh nghiệp gặp nhiều rủi ro, bất trắc hơn

nên nó sẽ ảnh hưởng tới công tác thu nợ của ngân hàng.

Tuy nhiên, không chỉ có tình hình chính trị xã hội mà cả tình hình chính trị -

xã hội ở nước ngoài cũng có ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng trung - dài

hạn bởi vì hiện nay các quan hệ kinh tế - xã hội ngày càng được mở rộng cho

nên các loại hình doanh nghiệp đa quốc gia cũng ngày càng tăng cả về số

lượng và quy mô hoạt động. Vì vậy, mọi biến động về kinh tế - xã hội ở nước

ngoài đều có ảnh hưởng tới tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong nước và

ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng trung - dài hạn.

Môi trường pháp lý

Pháp lý là một bộ phận không thể thiếu của nền kinh tế thị trường có sự điều

tiết của nhà nước. Không có pháp luật hoặc pháp luật không phù hợp với

những yêu cầu phát triển của nền kinh tế thì mọi hoạt động của nền kinh tế

không thể trôi chảy được. Pháp luật có nhiệm vụ tạo lập môi trường pháp lý

cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh tiến hành thuận lợi và đạt hiệu quả

kinh tế cao, là cơ sở để giải quyết khiếu nại khi có tranh chấp xảy ra. Môi

trường pháp lý cho hoạt động tín dụng của ngân hàng nói riêng và cho hoạt

động của các doanh nghiệp trong nền kinh tế nói chung là một nhân tố rất

quan trọng ảnh hưởng tới khả năng phát sinh nợ quá hạn. Hệ thống pháp

luật quốc gia với các bộ luật và văn bản dưới luật chưa được đầy đủ, đồng

bộ, hợp lý sẽ không đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các hoạt

động kinh tế, là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến rủi ro trong sản xuất kinh

doanh của các doanh nghiệp, gây nên các khoản nợ quá hạn cho ngân hàng.

Như vậy, pháp luật có vị trí hết sức quan trọng đối với hoạt động ngân hàng

nói chung và chất lượng tín dụng trung - dài hạn nói riêng.

Chính sách tín dụng

Chính sách tín dụng là kim chỉ nan đảm bảo cho hoạt động tín dụng đi đúng

quỹ đạo, nó có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của mọi ngân hàng. Một

chính sách tín dụng đúng đắn sẽ thu hút được nhiều ngân hàng, đảm bảo khả

năng sinh lời của hoạt động tín dụng trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ

pháp luật, đường lối chính sách của nhà nước và đảm bảo công bằng xã hội.

Ngược lại, nếu chính sách tín dụng không hợp lý, chồng chéo sẽ gây khó

khăn cho ngân hàng khi thực hiện nghiệp vụ tín dụng. điều đó có nghĩa là

chất lượng tín dụng trung - dài hạn phụ thuộc vào việc xây dựng chính sách

tín dụng của ngân hàng có đúng đắn hay không.

Môi trường tự nhiên

Môi trường tự nhiên có một ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng tín dụng

của ngân hàng nói chung đặc biệt là tín dụng trung - dài hạn nói riêng bởi vì

thiên tai là một yếu tố bất khả kháng, chúng ta không thể dự đoán một cách

chắc chắn là khi nào những thiên tai như bão lũ lụt, hạn hán, hoả hoạn, dịch

bệnh…sẽ xảy ra và mức độ ảnh hưởng, thiệt hại của chúng là như thế nào.

Thông thường khi thiên tai xảy ra, nó thường gây thiệt hại rất lớn cho các

ngành sản xuất, dịch vụ, gây ra các biến động xấu ngoài dự kiến trong mối

quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và các khách hàng của mình làm cho vốn

của ngân hàng đầu tư vào các doanh nghiệp sẽ ít nhiều bị ảnh hưởng và dẫn

tới rủi ro làm giảm chất lượng tín dụng.

Các nhân tố chủ quan

Về phía khách hàng

- Năng lực của khách hàng

Không một khách hàng nào khi đi vay lại không muốn món vay đem lại hiệu

quả nhưng nhiều khi do năng lực có hạn nên họ không thể thực hiện được ý

đồ của mình. Do hạn chế về khả năng, họ không dự đoán đúng những biến

động lên xuống của nhu cầu thị trường hoặc do yếu kém trong quản lý, trong

việc giới thiệu, quảng cáo sản phẩm mà hoạt động của doanh nghiệp không

thể phát triển hoặc do thiếu kinh nghiệm trên thương trường mà doanh

nghiệp dễ dàng bị gục ngã trong cạnh tranh… Tất cả những điều đó khiến

cho chất lượng tín dụng bị ảnh hưởng ngoài ý muốn của cả ngân hàng lẫn

khách hàng.

- Sự trung thực của khách hàng

Nếu khách hàng trung thực, sử dụng vốn vay đúng mục đích thì xác suất xảy

ra rủi ro sẽ giảm đi đáng kể vì tính khả thi của dự án cũng đã được ngân

hàng thẩm định một cách kỹ càng trước khi ra quyết định cho vay. Nhưng

việc sử dụng vốn vay sai mục đích của khách hàng đã góp phần không nhỏ

vào việc đổ bể của các tổ chức tín dụng.

Chẳng hạn như sử dụng vốn vay đầu tư vào tài sản cố định, vào bất động

sản, sau đó các tài sản này bị sụt giá dẫn đến việc doanh nghiệp không trả

được nợ cho ngân hàng. Các doanh nghiệp còn chiếm dụng vốn lẫn nhau dẫn

đến các doanh nghiệp làm ăn nghiêm chỉnh gặp khó khăn trong việc trả nợ

ngân hàng.

- Rủi ro trong công việc kinh doanh của khách hàng

Rủi ro trong kinh doanh của doanh nghiệp sẽ xảy ra nếu việc tính toán triển

khai dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp trong khoa học,

không thực hiện kỹ càng… Tuy nhiên trong một số trường hợp cho dù

phương án sản xuất kinh doanh của người đi vay đã được tính toán một cách

chi tiết, khoa học, chính xác đến mức tối đa thì công việc đầu tư vẫn luôn

chứa đựng khả năng xảy ra rủi ro do những thay đổi bất ngờ, ngoài ý muốn

và bất khả kháng của các điều kiện sản xuất kinh doanh, gây tác động xấu

đến công việc làm ăn, mang lại rủi ro cho doanh nghiệp. Ví dụ các thiệt hại

doanh nghiệp phải gánh chịu do sự biến động của thị trường cung cấp như:

khi giá cả nguyên vật liệu biến động tăng vọt làm tăng giá thành công xưởng

của sản phẩm, nếu giá bán của sản phẩm không thay đổi nó sẽ làm cho thu

nhập tạo ra trên một sản phẩm giảm, làm giảm tổng lợi nhuận được của cả

dự án, ảnh hưởng xấu tới việc trả nợ ngân hàng. Nếu đảm bảo thu nhập của

mình, doanh nghiệp nâng giá bán của sản phẩm lên thì điều này sẽ làm cho

việc tiêu thụ sản phẩm gặp khó khăn, khả năng thu hồi vốn sản xuất bị chậm

trễ, dễ dàng vi phạm việc trả nợ ngân hàng về mặt thời hạn.

Về phía ngân hàng

Công tác thẩm định

Tín dụng trung - dài hạn được tiến hành chủ yếu dựa trên các dự án đầu tư.

Muốn xem xét dự án có đủ độ tin cậy để có thể cho vay được hay không, ngân

hàng cần tiến hành thẩm định dự án đầu tư.

Thẩm định dự án đầu tư

Thẩm định dự án đầu tư là việc tổ chức, xem xét một cách khách quan, khoa

học và toàn diện các nội dung cơ bản có ảnh hưởng đến công cuộc đầu tư để

ra quyết định đầu tư và cho phép đầu tư.

Mục đích của việc thẩm định dự án đầu tư là nhằm giúp ngân hàng rút ra kết

luận chính xác về tính khả thi, hiệu quả kinh tế, khả năng trả nợ và những rủi

ro có thể xảy ra của dự án để đưa ra quyết định cho vay hoặc từ chối cho

vay.

Thông qua công tác thẩm định, ngân hàng sẽ phát hiện, bổ sung thêm những

giải pháp nhằm nâng cao tính khả thi của dự án đồng thời làm cơ sở để xác

định số tiền cho vay, thời gian cho vay, mức thu nợ hợp lý, tạo điều kiện

thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả.

Thẩm định tín dụng một cách kỹ càng, đúng quy trình thẩm định sẽ góp phần

giảm được những rủi ro của tín dụng trung - dài hạn, giúp ngân hàng thu

được lợi nhuận và đảm bảo tính ổn định của các khoản vay. Công tác thẩm

định tập trung ở hai nội dung:

+ Thẩm định toàn diện các nội dung của luận chứng kinh tế, kỹ thuật, báo

cáo kinh tế của các dự án tiền khả thi.

+ Thẩm định toàn diện tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính của

doanh nghiệp.

Bước đầu tiên của thẩm định dự án là phải thu thập thông tin sau đó sẽ tiếp

đến tiến hàng phân tích những thông tin đó. Những thông tin thu thập phải

đồng bộ, từ nhiều nguồn khác nhau như:

- Thẩm định về phương diện thị trường:

+ Kiểm tra cân đối cung cầu về sản phẩm của dự án, tuỳ theo phạm vi tiêu

thụ sản phẩm ở trong nước hay xuất khẩu:

. Nhu cầu của thị trường, dự báo mức độ gia tăng

. Sản phẩm có khả năng đáp ứng nhu cầu thị trường về cả khối lượng và chất

lượng.

. Đánh giá những sản phẩm có khả năng thay thế sản phẩm của dự án trong

tương lai, độ bền của nhu cầu sử dụng của sản phẩm thay thế.

. Khả năng đáp ứng các nguồn cung cấp đầu vào: tính ổn định và tính

thường xuyên của nguồn cung ứng.

+ Căn cứ vào khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp về sản phẩm:

. Ưu thế tương đối của sản phẩm do dự án sản xuất về: giá thành, chất lượng,

mẫu mã, điều kiện lưu thông và tiêu thụ.

. Khả năng và uy tín của doanh nghiệp trong quan hệ thị trường về sản phẩm,

kênh phân phối, khả năng nắm bắt thông tin.

. Những con số cụ thể về khả năng tiêu thụ sản phẩm trong quá khứ và tương

lai.

- Thẩm định về phương diện kỹ thuật:

+ Xem xét việc lựa chọn địa điểm và mặt bằng xây dựng dự án, việc lựa chọn

hình thức đầu tư và công suất của dự án.

+ Khai thác tiềm năng sẵn có và lâu dài, có khả năng đáp ứng được nhu cầu

cần thiết, tối ưu hoá hiệu quả của dự án.

+ Nhu cầu về dây chuyền công nghệ và lựa cho thiết bị máy móc, khả năng

tìm kiếm, lựa chọn công nghệ thích hợp, kiểm tra tính pháp lý của hợp đồng

chuyển giao công nghệ.

+ Thẩm định tiến độ thực hiện của dự án.

- Thẩm định về phương diện tổ chức:

+ Xem xét cơ cấu tài chính: vấn đề về quyền lợi và trách nhiệm được kết nối

như thế nào.

+ Năng lực tài chính, quản lý của nhóm điều hành, của nhân viên: có những

hoạt động đào tạo trước mắt và lâu dài.

- Thẩm định về mặt tài chính của dự án

Đây chính là vấn đề cốt lõi nhất khi thẩm định dự án đầu tư đối với bất kỳ

một ngân hàng nào khi đưa ra quyết định cho vay mà đặc biệt là cho vay

trung - dài hạn. Thẩm định về mặt tài chính được coi là sự đảm bảo tối thiểu

cho khoản vay sắp cung cấp. Thẩm định tài chính bao gồm các nội dung

chính là:

+ Vốn xây lắp: thường được tính toán trên cơ sở khối lượng công tác xây lắp

và đơn giá xây lắp tổng hợp hay suất vốn đầu tư.

+ Vốn thiết bị: căn cứ vào danh mục thiết bị để kiểm tra giá cả mua và chi

phí vận chuyển, bảo quản theo quy định của nhà nước. Đối với những thiết bị

được chuyển giao công nghệ thì tính gồm cả chi phí chuyển giao công nghệ.

+ Vốn kiến thiết cơ bản khác: cần tính tới nhu cầu vốn lưu động ban đầu và

nhu cầu bổ sung vốn lưu động và những khoản mục chi phí cần thiết khác.

Dựa trên những tính toán cơ bản thì chủ dự án có trách nhiệm bỏ một phần

vốn tự có của mình vào tổng khoản vay và đó được coi là điều kiện cần đảm

bảo về uy tín và độ an toàn, phòng tránh rủi ro của khoản tín dụng trung -

dài hạn.

- Tiến độ bỏ vốn đầu tư: có ý nghĩa rất quan trọng, đặc biệt là đối với những

công trình có thời gian xây dựng dài, cần thiết phải phân bổ tiến độ bỏ vốn

theo giai đoạn thích hợp để tạo điều kiện cho việc điều hành vốn của ngân

hàng.

- Yếu tố quyết định trực tiếp cho việc lựa chọn cho vay hay không chính là

khả năng sinh lợi của dự án vì ngân hàng cũng là một đơn vị sản xuất kinh

doanh nên họ cũng phải quan tâm tới lợi nhuận của dự án. Vì vậy, trước khi

bỏ vốn đầu tư, khách hàng và ngân hàng thường tiến hành thẩm định tính

khả thi của dự án qua một số chỉ tiêu sau:

+ Khả năng thu nhập của dự án trên doanh thu và chi phí vận hành hàng

năm của dự án

Nếu tỷ suất lợi nhuận của dự án > lãi suất tiền gửi thì nên đầu tư

+ Thời gian hoàn vốn: là số năm mà dự án cần thiết phải hoạt động để tổng

số lợi nhuận và khấu hao thu được bù đắp số vốn đầu tư bỏ ra ban đầu.

Thời gian hoàn vốn phản ánh hiệu quả của đầu tư, thời gian hoàn vốn càng

nhanh thì hiệu quả đầu tư càng có hiệu quả.

+ Giá trị hiện tại ròng (NPV): cho ta biết quy mô của thu nhập từ dự án

trong suốt quá trình hoạt động từ khi khởi đầu cho đến khi kết thúc.

NPV = Σi=0nTi(1+r)i−Σi=0nCi(1+r)i size 12{ {Σ} cSub { size 8{i=0} } cSup

{ size 8{n} } { { ital "Ti"} over { ( 1+r ) rSup { size 8{i} } } } - {Σ} cSub { size

8{i=0} } cSup { size 8{n} } { { ital "Ci"} over { ( 1+r ) rSup { size 8{i} } } } }

{}

Trong đó:

n: số năm

r: tỷ lệ chiết khấu

Ti: khoản thu của dự án ở năm thứ i

Ci: khoản chi cho đầu tư ở năm thứ i

Ngân hàng cho vay khi NPV > 0 vì khi đó dự án có tính khả thi, doanh

nghiệp sẽ có lãi và có thể trả nợ ngân hàng.

+ Chỉ tiêu suất thu hồi nội bộ (IRR)

Suất thu hồi nội bộ là lãi suất chiết khấu mà tương ứng với nó giá trị của

NPV = 0

IRR = r 1 + NPV 1 ( r 2 − r 1 ) NPV 1 + (cid:0) NPV 2 (cid:0) size 12{ ital "IRR"=r

rSub { size 8{1} } + { { ital "NPV" rSub { size 8{1} } ( r rSub { size 8{2} } - r

rSub { size 8{1} } ) } over { ital "NPV" rSub { size 8{1} } + lline ital "NPV"

rSub { size 8{2} } rline } } } {}

Suất thu hồi nội bộ là lãi suất lớn nhất mà dự án có thể chịu đựng được. Dự

án có tính khả thi khi IRR > lãi suất vay dự án vì khi đó doanh nghiệp vừa trả

được nợ ngân hàng và vừa có lãi.

Ngoài các công tác thẩm định nêu trên, ngân hàng còn phải thẩm định độ

nhạy của dự án đối với sự thay đổi của các yếu tố, lãi suất tỷ giá, xu thế biến

động của nền kinh tế…

Hơn nữa ngân hàng còn phải tiến hành thẩm định khách hàng vay vốn bao

gồm: thu nhập và phân tích tài liện trong hồ sơ cho vay, phân tích tài chính

khách hàng: phân tích tình hình tài chính qua các năm, phân tích các chỉ số

tác nhân chung để đánh giá doanh nghiệp… và đưa ra đánh giá, kết luận

tổng quát về tình hình tài chính, sản xuất kinh doanh của khách hàng.

Tóm lại, do đặc điểm của tín dụng trung - dài hạn là thời gian dài, độ rủi ro

cao nên công tác thẩm định theo đúng và đầy đủ các trình tự nêu trên thì sẽ

góp phần nâng cao chất lượng món vay và đảm bảo cho sự an toàn của bản

thân ngân hàng.

Chính sách tín dụng

Chính sách tín dụng của một ngân hàng là kim chỉ nan cho hoạt động tín

dụng của ngân hàng đó. Bên cạnh việc phải phù hợp với đường lối phát triển

của nhà nước thì chính sách tín dụng còn phải đảm bảo kết hợp hài hoà

quyền lợi của người gửi tiền, người đi vay và quyền lợi của chính bản thân

ngân hàng. Chính sách tín dụng phải tạo ra sự công bằng, không những phải

đảm bảo an toàn cho hoạt động của ngân hàng mà còn phải đảm bảo đủ sức

hấp dẫn đối với khách hàng. Một chính sách tín dụng đồng bộ, thống nhất và

đầy đủ, đúng đắn sẽ xác định phương hướng đúng đắn cho cán bộ tín dụng.

Ngược lại, một chính sách tín dụng không đầy đủ, đúng đắn và thống nhất sẽ

tạo ra định hướng lệch lạc cho hoạt động tín dụng, dẫn đến việc cấp tín dụng

không đúng đối tượng tạo kẽ hở cho người sử dụng vốn không đem lại hiệu

quả kinh tế, dẫn đến rủi ro tín dụng.

Ví dụ về chính sách lãi suất, khi lãi suất cho vay quá cao thì khách hàng sẽ

không đến vay ngân hàng, ngân hàng sẽ bị ứ đọng vốn gây một hiệu quả tồi

tệ đến hoạt động của ngân hàng. Ngược lại, nếu lãi suất cho vay quá thấp thì

sẽ có rất nhiều khách hàng đến vay và lúc này ngân hàng khó có khả năng

đáp ứng hết khả năng về vốn trung - dài hạn cho khách hàng vì hiện nay tỷ

trọng khoản tiền gửi trung - dài hạn so với tổng nguồn vốn huy động của

ngân hàng là không lớn. Mặt khác, lãi suất cho vay thấp dẫn tới việc ngân

hàng không bù đắp được việc phải trả lãi tiền gửi và trả lãi suất tiền gửi…

Chất lượng nhân sự

Con người là yếu tố quyết định đến sự thành bại trong quản lý vốn tín dụng

nói riêng cũng như trong hoạt động của ngân hàng nói chung. Việc tuyển

chọn sự có đạo đức nghề nghiệp tốt, có tinh thần trách nhiệm, tâm huyết với

nghề, giởi chuyên môn, am hiểu và có kiến thức phong phú về thị trường đặc

biệt trong lĩnh vực tham gia đầu tư vốn, năm vững những văn bản pháp luật

có liên quan đến hoạt động tín dụng, có năng lực phân tích và xử lý dự án xin

vay, đánh giá tài sản thế chấp, giám sát số tiền cho vay ngay từ khi cho vay

đến khi thu hồi được nợ hoặc xử lý xong món nợ theo quy định của ngân

hàng… sẽ giúp cho ngân hàng có thể ngăn ngừa được những sai phạm có thể

xảy ra khi thực hiện chi kỳ khép kín của một khoản tín dụng. Tuy nhên đối với

những cán bộ không được đào tạo đầy đủ, không am hiểu về ngành kinh

doanh mà mình đang tài trợ, trong khi ngân hàng không có đủ các số liệu

thống kê, các chỉ tiêu để phân tích, so sánh, đánh giá vài trò vị trí của doanh

nghiệp trong ngành, khả năng thị trường hiện tại và tương lai, chu kỳ, vòng

đời sản phẩm … dẫn đến việc xác định sai hiệu quả của dự án xi vay làm rủi

ro tín dụng của ngân hàng.

Công tác tổ chức của ngân hàng

Công tác tổ chức không chỉ tác động tới chất lượng tín dụng mà còn tác động

tới mọi hoạt động của ngân hàng. Nếu công tác tổ chức không khoa học sẽ

làm ảnh hưởng tới thời gian ra quyết định đối với món vay, không đáp ứng

kịp thời các yêu cầu của khách hàng, không theo dõi sát sao được công việc.

Sự phân công công việc nếu không hợp lý, khoa học sẽ dẫn đến sự không rõ

ràng, chồng chéo khiến cho các cán bộ tín dụng ỷ lại, thiếu trách nhiệm đối

với công việc của mình. Công tác tổ chức ở đây cũng đề cập tới vấn đề giao

việc đúng người, đúng việc. Mỗi một cán bộ cần được giao cho công việc phù

hợp để có thể phát huy hết khả năng và giữa các bộ phận cần có sự phối hợp

nhịp nhàng, chặt chẽ để công việc tiến hành nhanh chóng, chính xác. Nếu

được tổ chức tốt, các công việc đối với một món vay sẽ được thực hiện tuần

tự, chặt chẽ, vừa đảm bảo về mặt thời gian vừa không có sự sơ hở nên sẽ làm

cho chất lượng của món vay được nâng cao.

Thông tin tín dụng

Những thông tin chính xác về khách hàng sẽ giúp ích rất nhiều cho ngân

hàng trong những công việc có liên quan đến việc cho vay, theo dõi và quản

lý tiền vay. Thông tin càng chính xác, kịp thời, đầy đủ và toàn diện thì công

tác tín dụng của ngân hàng càng được thực hiện tốt và các rủi ro sẽ được

hạn chế ở mức thấp nhất có thể, chất lượng tín dụng được nâng cao hơn. Tuy

nhiên nến thiếu thông tin tín dụng hoặc thông tin tín dụng không chính xác,

kịp thời, chưa có danh sách phân loại doanh nghiệp, chưa có sự phân tích

đánh giá doanh nghiệp một cách khách quan, đúng đắn sẽ dẫn đến rủi ro tín

dụng cao làm giảm chất lượng tín dụng của ngân hàng.