NGUYỄN XUÂN LẠC
60
MỘT CÔNG TRÌNH sưu TẦM, BIÊN SOẠN VĂN HỌC DÂN GIAN Dược KHỞI THẢO CÁCH ĐÂY 86 NĂM
T ư L IỆ U 'Hãn hóa Hán gian
NGUYỄN XUÂN LẠC n
rong lĩnh vực văn học dân gian nước ta, đã có nhiêu công trình sưu tầm, biên soạn văn học dân gian như Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam của Vũ Ngọc Phan, Kho tàng truyện cô tích Việt Nam. của Nguyễn Đông Chi, Kho tàng ca dao người Việt của Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng N hật (đồng chủ biên), v.v... và gần đây là bộ Tông tập văn học dân gian người Việt (1). Đó là những bộ sách công cụ có giá trị của các nhà nghiên cứu văn học dân gian mà chúng ta đều biết, ở đây, trong
bài viết này, tôi muôn nói đến một người không phải nhà nghiên cứu, nhưng vì yêu văn học dân gian, yêu những câu h át dân ca của người Việt Nam, mà đã bỏ công sức hàng chục năm để sưu tầm, chọn lọc, biên soạn cuô'n sách Dân tộc Việt N am qua các câu ví, tục ngữ, phương ngôn, phong dao, ca vè... dày 1000 trang chỉ với mục đích duy nhất là “để cho tiếng Việt Nam thuần tuý và quý giá của chúng ta càng ngày c à n g p h o n g p h ú th ê m v ậ y .” (Lời nói đầu cuốn sách).
cả cuộc đời mình đê sưu tầm văn học dân gian và biên soạn cuốn sách này. Công trình được khởi thảo từ mùa xuân năm 1919, như tác giả đã viết trong Lời nói đầu : “Trong khoảng 6 năm, từ 1919 đến 1925, nhậm chức Đốc học các trường tỉnh Hà Đông, tôi đã có dịp trực tiếp với các bạn giáo viên đê sưu tầm những câu ví, tục ngữ, phong dao, bài hát, v.v... của địa phương, mục đích để giúp được một phần nào bạn tôi, ông Nguyễn Văn Ngọc, đã yêu cầu để làm tài liệu cho quyển Tục ngữ phong dao, nay đã xuất bản”. Sau đó có hai lần bổ sung quan trọng: đó là vào những năm trưốc Cách mạng tháng Tám 1945, do bâ't bình với thời cuộc, cụ bỏ nghê dạy học chuyển sang làm đồ gỗ mĩ nghệ, có thì giở rảnh rang tu chỉnh công trình; và một lần gần hai năm 1951 - 1952, khi tác giả được cử làm Thanh tra bình dân giáo dục, “lại được một dịp nữa gần các anh chị em giảng viên và nhò đó đã thu thập thêm được một sô' tài liệu nữa về những câu ví, đô', phương ngôn, ca vè tả c h â n p h o n g tụ c d â n tộc V iệt N am qua các thời đại, phần nhiều là những câu truyền khẩu thê' hệ nọ sang thế hệ kia, những câu chất phác, thô sd, hồn nhiên, hài hước, chua cay, mỉa mai... của đủ các tầng lớp dân tộc ta từ nông thôn đến thành thị.” (Lời nói đầu). Đó là cụ Nguyễn Đình Thông (1891- 1962), nguyên giáo viên Trường Bưởi - Hà Nội, Đốic học Hà Đông, Thanh tra bình dân giáo dục Bộ Giáo dục. Nhà giáo tâm huyết với văn học dân gian đó đã dành gần như (*)
(*) TS. Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam.
Tư LIỆU FOLKLORE
61
thảo cách đây ngót bảy mươi năm (báo Văn nghệ giữa thập kỉ 80 của th ế kỉ XX), nhà nghiên cứu văn học Lữ Huy Nguyên coi bộ sưu tập này là “người anh em sinh đôi” vối Tục ngữ phong dao của Nguyễn Văn Ngọc, và nhận xét: “So với Tục ngữ phong dao của ông Ngọc thì quyển của ông Thông có số lượng câu, bài gấp đôi”.<4) Đúng là như vậy. Với sô' lượng câu, bài phong phú, cấu trúc bộ sưu tập gồm ba quyển như sau :
- Quyển I: Các câu từ 3 tiếng trở lên (từ A đến Kh) : 300 trang.
- Quyển IT. Các câu từ 3 tiếng trở lên (từ L đến X) : 300 trang.
- Quyển III: Các bài từ 4 câu trở lên (từ
A đến Y): 312 trang.
Công trình này được hoàn chỉnh vào mùa thu năm 1955, kéo dài trong một khoảng thời gian gần 40 năm, với một tâm nguyện tha thiết của cụ là mong được mọi người biết đến đê góp một phần vào việc sưu tầm, khảo cứu văn học dân gian của nước nhà. Khi qua đời, cụ đã để lại di chúc cho con rể là ông Huỳnh Quốc Thạnh, cán bộ Ban Thông nhất Trung ương (đã về hưu), giao cho ông Thạnh quản lý, sử dụng công trình này sao cho có lợi nhất. Ông Thạnh đã cất giữ bộ sưu tập cẩn thận ngót 30 năm, và sau đó đã đem gửi vào Trung tâm lưu trữ quốc gia I (Hà Nội) vối ý nghĩ: "... đưa vào lưu trữ quốc gia là nơi tin cậy nhất, bảo đảm nhất. Tôi được biết cơ quan lưu trữ không chỉ là nơi bảo quản đơn thuần mà còn thường xuyên mở cửa để mọi người đến khai thác sử dụng. Như th ế công trình của cụ tôi chắc chắn sẽ được phát huy, được nhiều người biết đến”.(2)
Cũng giống như nhiều quyển sưu tầm, biên soạn tục ngữ, ca dao khác, bộ sưu tập của tác giả được sắp xếp theo vần chữ cái tiếng Việt, nghĩa là có cả những vần ă, â, ê, ô, ơ, ư, ch, gi, kh, ng, nh, ph, th, tr, theo sô' lượng tiếng trong mỗi câu từ ít đến nhiều. Chẳng hạn như ở vần B, quyển I, có các câu:
- 3 tiếng: Bạc như vôi, Bùi như lạc, Bắt
quả tang,...
- 4 tiếng: Ba cọc ba đồng, Ba m ặt một
nhời, Bắt cá hai tay,...
- 5 tiếng: Bán giời không văn tự, Béo như con cun cút, B ụt chùa nhà không thiêng,... Nửa th ế kỉ đã trôi qua (từ khi công trình hoàn thành) và sau 43 năm (từ khi tác giả qua đời), đến nay, người cháu nội của cụ là bà Nguyễn Thị Bạch Tuyết (giáo viên Hà Nội, đã về hưu) mới có ý định đưa in bộ sách của cụ, và đã được Nhà xuất bản Hội Nhà văn tận tình giúp đỡ. Cuốn sách đã ra mắt bạn đọc, tác giả đã đạt được tâm nguyện cả đời mình và các con cháu cụ cũng được thoả lòng. Giờ đây, ở cõi vĩnh hằng chắc cụ cũng vui lòng khi công trình của mình đã được mọi người biết đến. * - 6 tiếng: Ba thưng củng vào một đấu,
Bập bẹ như trẻ học nói,...
- 7 tiếng: Ba chìm bảy nôi, chín lênh đênh; Buôn tàu không giàu bằng hà tiện,...
- 8 tiếng; Ba tháng trông cây, một ngày trông quả; Bắt lợn tóm giò, bắt bò tóm mũi,...
- 9 tiếng; Ba tháng mười ngày hết tuần Bộ sưu tập Dân tộc Việt Nam qua các câu ví, tục ngữ, phương ngôn, phong dao, ca vè... của cụ Nguyễn Đình Thông được in thành sách khổ 14,5 X 20,5cm dày 920 trang, gồm ba quyển, 13.609 câu tục ngữ, thành ngữ, 1.307 bài ca dao và 423 câu đô<3). Trong bài giới thiệu Một công trình nghiên cứu văn học dân gian được khởi chay gái đẻ,...
NGUYÊN XUÂN LẠC
62
- 10 tiếng: Bán gà kiêng ngày gió, bán
chó kiêng ngày mưa,... vần Y, tr. 915-917),... Cũng có những bài, câu dài ngắn không đều, phối hợp nhiều thể thơ: - 11 tiếng: Bắt chấy cho mẹ chồng,
trông thấy bồ nông dưới biên,...
- 12 tiếng: Bập bẹ như mẹ vói con, lon
xon như con với mẹ,...
- 13 tiếng: Bà chết thì khách đầy nhà,
ông chết thi cỏ gà đầy sân,... Bớ thảm ơi, bớ thiết ơ i! Bớ bạn tình nhăn ơ i! Thân em như cái quả soài trên cây, Gió Đông, gió Tây, gió Nam, gió Bắc, Nó đánh lúc la lúc lắc trên cành, Một mai vô tình rụng xuống, biết vào
tay ai? - 14 tiếng: Ba năm ở với người đần, lúc đứng gần người
Chang bằng một khôn,... Kìa khóm trúc, nọ khóm mai, Ồng Tơ, bà Nguyệt xe hoài chang thương,
Một lần chờ, bao lần đợi - 15 tiếng: Bậu chê nước sông uống nước bầu, Chê đây lấy đấy lại giầu hơn ai,...
Sớm lần chờ, chớ lần thương, Anh thương em nhưng bác mẹ họ hàng
chăng thương. - 16 tiếng: Buồn rầu buồn rĩ buồn nỉ buồn non, Buồn vì một nỗi sớm con muộn chồng!,... (Lời 57, vần B, quyển III, tr. 641) - 17 tiếng: Ba tiền bỏ bị là chị lái buôn,
Cơm trắng cá ngon củng là anh đi ở,...
- 18 tiếng: Bô chồng như lông con phượng, Mẹ chồng là tượng mới tô, Nàng dâu là bồ nghe chửi !,...
- 19 tiếng: Buôi chợ đông con cá hồng anh chê nhạt, Buối chợ tàn rồi con tép bạc củng phải mua,... Các bài ca dao có mô thức mỏ đầu "Treo lên cây k h ế nửa ngày”, trong Kho tàng ca dao người Việt (tập 3) có 3 lời 328, 329, 330 (tr. 2201); trong cuốn sách này có 4 lời 30, 31, 36, 37 (tr. 894 - 895). Trong 4 lời này, có một lời trùng với lời trùng vối lời 330 của sách Kho tàng ca dao người Việt, còn lời sau đây có thể xem là những tư liệu sưu tầm mói:
Trèo lên cây k h ế giữa ngày,
Váy thì trụt mất, lưdi cày thò ra; - 20 tiếng: Băm bầu băm bí, Băm chị thằng Ngô, băm cô thuốc lào, Bán thuốc cho tao ba đồng một điếu,... Lưỡi cày ba góc chẻ ba,
Muốn đem đòn gánh mà tra lưdi cày.
(Lời 30, v ầ n Tr, quyển III, tr. 894)
ở một số vần khác, còn có cả những câu 22, 24, 25 tiếng. Cách sắp xếp của tác giả khá công phu và khoa học, dễ theo dõi và tiện tra cứu.
Những điều ghi nhận bước đầu trên đây đã nói lên một điểm mạnh của cuốn sách: nó đã góp thêm một số tư liệu mới mẻ về các thể loại thành ngữ, tục ngữ, ca dao... để làm phong phú thêm kho tàng văn học dân gian ở nước ta. Đó là đóng góp có ý nghĩa của tác giả vào sự nghiệp sưu tầm, nghiên cứu văn học dân gian nói chung. Trong quyển III, phổ biến là các bài 4 câu lục bát, nhưng cũng có nhiều bài dài trên 10 câu, trên hai mươi câu, thậm chí có bài dài đến 42 câu như bài hát đố (bài số 86, vần A, tr. 622-623), 36 câu như bài hát ru con (bài sô 52, vần B, tr. 639-640), 38 câu như bài hát đôi đáp nam nữ (bài sô 5
Tư LIỆU FOLKLORE
63
Đúng như tác giả đã bày tỏ trong Lời nói đầu: “Việc sưu tầm này th ậ t bao la, một người hay trong một thời cũng không thể ghi chép gọi là đầy đủ”, nhưng công lao của cụ thật rõ ràng, và 1000 trang sách cụ để lại cho đời đã nói lên tâm huyết của một con người dành gần hết cuộc dời của mình cho việc suu tầm đó. Chỉ tiếc một điểu là cuôn sách đã đưa vào hơi nhiều những câu thơ Kiều của Nguyễn Du, đành rằng có những câu thơ Kiều đã được “dân gian hoá”, nhưng chỉ nên chọn lọc những câu tiêu biêu nhất như tác giả đã nêu trong Lời nói đầu :
- Đàn bà dễ có mấy tay
- Canh khuya thân gái dặm trường
- Ngày vui ngắn chang tày gang
Mặc dầu vậy, đọc xong 920 trang sách của bộ sưu tập này, chúng ta không chỉ trân trọng một tấm lòng yêu văn học dân gian, yêu tiếng nói dân tộc mà còn khâm phục công lao sưu tầm, biên soạn cần cù, bền bỉ gần như cả cuộc đời của một con người tâm huyết muôn góp phần lưu giữ lại cho đời những tinh hoa của dân tộc trong lĩnh vực văn hoá, văn nghệ dân gian. Con người đó đã bày tỏ một nguyện vọng thật khiêm nhường và cảm động: "Đê kết luận, tôi chân thành mong các bạn đính chính và bồi bô những câu sai lầm hay thiếu sót để cho tiêng Việt N am thuần tuý và quý giá của chúng ta càng ngày càng phong phú thêm vậy." Chính điều ấy đã thôi thúc chúng tôi đọc công trình của cụ để viết ra bài giới thiệu với những ghi nhận đầu tiên còn sơ lược này. Xin được xem công việc làm nhỏ bé này của chúng tôi như thắp một nén hương tưởng nhở đến vị tác giả đã quá có'.o Trong quyển sách này, tác giả đã đưa vào những đoạn thơ Kiều quá dài, chưa đến mức “ca dao hoá” mà tiêu biểu là các đoạn thơ sau đây:
N.X.L
- Đoạn 10 câu từ "Phím đàn dìu dặt tay tiê n ’ đến "Tiếng nào là chang não nùng xôn xao" (tr. 843).
- Đoạn 8 câu từ "Buồn trông cửa bê chiều hôm" đến "Am ầm tiêng sóng kêu quanh ghê ngồi" (tr. 642).
1) Gồm 19 tập, do Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia giữ bản quyền, Nxb. Khoa học xã hội chủ trì, phôi hợp với Viện Nghiên cứu Văn hoá dân gian tồ chức biên soạn trong 2 năm 2001-2002.
- Đoạn 6 câu từ "Ngẫm hay muôn sự tại trời" đến "Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai" (tr. 813).
2) Người giữ gìn câu hát dân gian - Minh Văn (Cục Lưu trữ quốc gia), báo Nhãn Dân chủ nhật Sũ 1 (152) ra ngày 05/01/1992.
Và có bài rấ t ít (hoặc không có) sắc thái ca dao cũng được ghi vào cuốn sách khiên người đọc không khỏi ngỡ ngàng phân vân:
3) Phần Cảu đ ố không in vào đây vì đã được Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội in năm 2000, với tựa đề Câu đ ố dân gian Việt Nam, 84 trang, do Nguyễn Xuân Lạc và Lê Trường Phát viết lời giới thiệu. Nếu tính cả phần Câu đô thì công trình này có độ dày là 1000 trang.
Ó h a y người củ đ â y m à, Nhớ nàng qua lối chàng đi tỉm nàng; Khóc duyên lệ ứa đôi hàng, Ngàn thu câu chuyện lỡ làng còn g h i !
4) Tục ngữ phong dao (1928) của Nguyễn Văn Ngọc gồm hơn 6500 câu tục ngữ và hơn 650 câu ca dao.
(Lời 1, vần Ô, quyển III, tr. 823)