Đánh giá Lợi nhuận và Chi phí khi tồn
tại Giá Thị trường-PHN1
Đánh giá Lợi nhuận và Chi phí
Khó có thmiêu t đầy đủ những cái gì sẽ là chi phí và lợi ích
của một dự án. Bạn phải liên hệ g-tr(value) nào đó với những
chi phí và lợi ích để có thể so sánh chúng với nhau. Không có các
giá-trị (value) tiền tệ, bạn chỉ so sánh quản cam với quả tào, hay
điện tử với con người. Và đó là việc so sánh không đồng thể;
không đúng!!!
Trong một thế giới hoàn hảo, mọi thứ được trao đổi buôn bán
trong một thị trường hiệu quả hoàn hảo với rất nhiều cạnh tranh,
không có ngoại ứng, không bị đánh thuế, không có các chương
trình trợ giá của chính phủ hay hạn chế nhập khẩu hoặc bất kỳ
điều gì tương tự. Mức sẵn lòng chi trả biên cho một loại hàng hoá
sẽ bằng với chi phí cơ hội của sản xuất. Một thị trường như vậy
sẽ đem lại cho chúng ta
• Không công ty có cổ phiếu thị trường quá quan trọng
• Không có ngoại ứng
• Không thuế
• Không có hàng hoá không trao đổi
• Không những dán "lớn" làm giá biến đổi
Với một thế giới tuyệt vời như thế giới này, nhưng thực tế thì
khác. Chúng ta phải xử lý đánh giá hàng hoá bán ra bởi các hãng
độc quyền đã tạo ra ngoại tác, bị đánh thuế, không được trao đổi
buôn bán và thc hiện điều này trong ngữ cảnh của một dự án có
thể dẫn tới những thay đổi mạnh mẽ về chi phí đầu-vào và cht
lượng hàng hoá cuối cùng cung cp ra thị trường. Đánh giá
những điều này thật là quá khó.
Nếu có thể liệt kê ra những vấn đề tiềm ẩn, chúng có thể bao
gồm
1. Hàng hoá chịu thuế
2. Hàng hoá được cung cấp bởi các hãng nghiên cứu giáđối
với họ, giá không ngang bằng với chi phí biên
3. Hàng hoá mà vic sản xuất hay tiêu thchúng sinh ra những
ngoại tác
4. Hàng hoá chịu thuế Pigouvian với hy vọng giải quyết việc ngoại
tác
5. Hàng hoá được bán với một mức giá không phải là mức lợi
nhuận tối đa hay để tống tháo hết trên thị trường
6. Hàng hoá phát miễn phí cho ai đến trước
7. Hàng hoá không có thị trường tiêu th
8. Hàng hoá ch có thị trường gián tiếp, chỉ một số người thực
sự tham gia vào những thị trường này
Hai quy tắc cơ bản là:
1. Khi dự án giảm số lượng đầu-vào có sẵn cho những người
khác, hãy áp dng sự sẵn lòng chi trả của họ (như được thể hiện
bởi đường cầu) như là một giá-tr(value).
2. Khi dự án tăng số lượng đầu-vào mà thị trường phải sản xuất,
hãy áp dụng chi phí biên là giá-tr (value) của đầu-vào cần bổ
sung
Đánh Giá Chi Phí và Đầu-vào ca Dự Án
Một dự án sẽ tăng nhu cầu về đầu-vào của mình. Dự tính chi phí
cho tập hợp những đầu-vào này sẽ phụ thuộc vào bản chất của
thị trường mà trong đó chúng được giao dịch buôn bán. Chúng ta
sẽ bắt đầu với mt vài trường hợp đơn giản hơn và sau đó tiến
tới các tình huống thử thách hơn.
Điển hình, chúng ta sẽ giả sử rằng đường cung và cầu gần như
là đường thẳng để dễ tính toán hơn. Điều này có thể không đúng,
nhưng nó là phép xấp xỉ tốt và nó gợi lại câu chuyện cười xa xưa
vmột nhà kinh tế tìm kiếm chìa khoá của mình.
1. Cung co giãn, th trường lớn hay dự án nhỏ
Nếu đường cung cho mt đầu-vào co giãn mt cách hoàn hảo
hoặc nếu số lượng cầu của dự án là rất nhỏ so với thị trường và
không có thuế hay những ngoại tác, và giá bằng với chi phí biên,
thì giá của hàng hoá có thể đơn giản được coi như là chi phí. Chi
phí đầu-vào sẽ bằng với số lượng được sử dụng nhân với giá.
VD: Một dự án sẽ dùng tới 100 gallons xăng dầu, bốn cuộn băng
keo và 20 gilao động phổ thông sẽ không gây tác động đến bất
kỳ thị trường nào trong số những thị tờng này, do vy giá th
trường hiện tại sẽ định giá chi phí của những đầu-vào này.
VD: DDT được giao dịch buôn bán trên những thị tờng lớn của
thế giới với mức giá ổn định là $40/tấn, tính ổn định đó là do mt
thực tế là các nhà máy sản xuất sữa bột nhân tạo cho trẻ em có
thể được chuyển đổi qua thành sản xuất DDT (và ngược lại) chỉ