
Tiểu luận: Lý thyết tài chính
Sinh viên: Nông Văn Lực Lớp K41 – 01.04
1
PHẦN MỞ ĐẦU
Công cuộc đổi mới kinh tế để này của nước ta trong những năm qua đã
và kéo theo hàng loạt những thay đổi tích cực tạo nên những cơ sở quan trọng
ban đầu để tiến tới một thị trường tài chính đảm bảo cho sự tăng trưởng và
phát triển kinh tế một cách bền vững.
Để có thể xây dựng và phát triển một nền kinh tế với sự tham gia của
nhiều thành phần kinh tế như ở nước ta hiện nay đòi hỏi ngày càng nhiều vốn.
Bên cạnh vốn của Nhà nước cần phải huy động vốn của dân cư trong nước và
nước ngoài. Vấn đề huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn là một
trong những nhiệm vụ chiến lược quan trọng. Thực tiễn sinh động của công
cuộc đổi mới ỏ nước ta đã chỉ ra rằng để đáp ứng yêu cầu về vốn đặc biệt là
vốn trung và dài hạn nhằm thực hiện sự nghiêp CNH- HĐH đất nước thì việc
xây dựng TTCK ở nước ta trong giai đoạn hiện nay là rất cần thiết như trong
Nghị quyết đại hội Đảng VIII Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định “phải
xây dựng thị trường vốn từng bước hình thành TTCK”. Việt Nam hiện nay tín
dụng thương mại về cổ phiếu mới ra đời TTCK chính thức hoạt động từ tháng
7/ 2000 chính là sự đòi hỏi cấp thiết của đời sống kinh tế những kiến thức về
TTCK- một vấn đề bức xúc đang được rất nhiều các ngành các cấp, các nhà
nghiên cứu, các doanh nghiệp và sinh viên quan tâm. Thị trường vốn nói
chung và TTCK nói riêng là một thực thể phức tạp và là hình thức phát triển
cao của kinh tế đối với nước ta. Em mạnh dạn chọn đề tài: ‘’Giải pháp để
phát triển Thị trường chứng khoán ở Việt nam’’, bài viết đã song nhưng
không thể nào tránh được những hạn chế và sai sót, rất mong sự quan tâm
góp ý, giúp đỡ của các thầy cô và các bạn.
Sinh viên: Nông văn Lực
Lớp: K41- 01.04

Tiểu luận: Lý thyết tài chính
Sinh viên: Nông Văn Lực Lớp K41 – 01.04
2
PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG
I. Những vấn đề cơ bản về thị trường chứng khoán.
1. Khái niệm và quá trình hình thành, phát triển thị trường chứng khoán.
a. Khái niệm.
Khái niệm về thị trường chứng khoán rất đa dạng và phong phú cho đến
nay chưa có một định nghĩa chung cho “thị trường chứng khoán (TTCK)”.
Theo nghiên cứu của các nhà chuyên môn thì thị trường chứng khoán có
tiếng Latinh là Btursa, có nghĩa là “cái ví đựng tiền! Còn gọi là “Sở giao dịch
chứng khoán”. Đó là một thị trường có tổ chức và hoạt động có điều khiển (The
Stock Exchange- dịch ra tiếng Việt là thị trường chứng khoán, theo chữ Hán là
chứng khoán giao dịch sở, Sở là nơi chốn, còn giao dịch là hoạt động mua bán trao
đổi).
Theo “Longman Dictionary of Business English-1985” thì TTCK được
định nghĩa như sau: “An organized market Where Securities are Bought Sold
undiel fixed rule”. Dịch ra tiếng Việt đó là một thị trường có tổ chức là nơi chứng
khoán được mua bán tuân theo những qui tắc đã ấn định. Định nghĩa này đã đưa ra
một định nghĩa nêu lên được các loại chứng khoán (Securities) đó là cổ phiếu
(Share) và trái phiếu (Bond). Chứng khoán thực ra là từ ghép của hai từ đồng
nghĩa. Chứng và khoán đều có nghĩa là bằng cứ (Evidence). Trong tiếng Anh
người ta dùng từ Secueitier có nghĩa Writen Evidence of Ownership. Từ những
phân tích trên có thể hiểu một cách căn bản “chứng khoán” là bằng chứng giấy
trắng mực đen về quyền sở hữu.
Cùng với sự phát triển đổi mới của thị trường vốn, thị trường tiền tệ, sự đa
dạng hoá trong đời sống kinh tế. Thuật ngữ thị trường chứng khoán đã thoát ly
định nghĩa ban đầu và có thêm những nội dung mới.

Tiểu luận: Lý thyết tài chính
Sinh viên: Nông Văn Lực Lớp K41 – 01.04
3
Dù có rất nhiều định nghĩa về “TTCK” nhưng mỗi định nghĩa chỉ cung cấp
một khái niệm tổng quát về một vấn đề nào đó. Vì vậy sẽ thật là thiếu sót khi 0ta
nghiên cứu về “TTCK” mà chỉ đứng trên góc độ một định nghĩa nào đó mà muốn
hiểu được vấn đề thì phải nghiên cứu quá trình phát sinh và phát triển lâu dài của
nó.
b. Lịch sử hình thành phát triển “TTCK”
Lịch sử loài người đã ra đời và tồn tại hàng ngàn năm nay. Trong đó lịch sử
phát triển xã hội loài người đã trải qua các hình thái xã hội khác nhau từ thấp đến
cao. ứng với mỗi hình thái xã hội khác nhau thì có một lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất khác nhau tương ứng với chúng xã hội muốn tồn tại thì phải lao động
sản xuất ra hàng hoá, của cải vật chất phục vụ nhu cầu con người.
Trong đó thị trường chứng khoán là hình thức phát triển cao của nền sản
xuất hàng hoá. Thị trường chứng khoán nguyên thuỷ đã tồn tại hàng trăm năm nay.
Vào khoảng giữa thế kỷ XI ở tại những thành phố trung tâm buôn bán ở phương
Tây, các thương gia thường tụ tập tại các quán Cafe để thương lượng việc mua
bán, trao đổi các loại hàng hoá (nông sản, khoáng sản, ngoại tệ và giá khoán động
...). Điểm đặc biệt là tại các cuộc thương lượng này, các thương gia chỉ dùng lời
nói để trao đổi với nhau, không có hàng hoá, ngoại tệ, giá khoán động sản, hay bất
cứ một loại giấy tờ nào. Những cuộc thương lượng này nhằm thống nhất với nhau,
hợp đồng mua bán, trao đổi. Không biết do sự phát triển của các thương gia hay
hiệu quả của kiểu “thương lượng” này mà số lượng người tham gia ngày càng
đông lên. Đến cuối thời Trung cổ, phiên chợ riêng này trở thành một thị trường và
khoảng cách các phiên chợ ngày càng rút ngắn. Những qui ước trao đổi dần dần
được tu bổ thành các qui tắc có giá trị bắt buộc đối với người tham gia. Từ đó thị
trường chứng khoán bắt đầu được hình thành.
Đến 1986 ở một số nước, các giá trị động sản đã lần lượt được yết giá trên
hệ thống vi tính các (yết giá liên tục) như vậy việc yết giá cổ phiếu, trái phiếu,

Tiểu luận: Lý thyết tài chính
Sinh viên: Nông Văn Lực Lớp K41 – 01.04
4
không còn được tập trung nữa, không được giao dịch dưới dạng giao miệng. Các
nhà giao dịch sẽ truyền lệnh cho công ty chứng khoán của mình thông qua điểm
cuối mạng vi tính.
Năm 1991, hệ thống RELIT đã tiêu chuẩn hoá tiến trình thanh toán tiền và
giao dịch chứng khoán. Sau khi đã giao dịch thương lượng trên thị trường.
+ Thành lập các thị trường biến tướng: 1986 ở Pháp lập thị trường Matif,
1987 thị trường Monep. Các thị trường này lập ra cho các nhà quản lý hồ sơ chứng
khoán phòng ngừa các rủi ro liên quan đến biến động về cổ phiếu, tỉ lệ lãi suất, tỉ
giá hối đoái. Và thị trường này cũng có mục đích tăng vốn khả duy trên thị trường
giao ngay qua khả năng kinh doanh chênh lệch giá. Và đây cũng là thị trường thực
sự trong thời đại mới.
Sự hình thành của “TTCK” trên thế giới vào thế kỉ 15 và cùng với thăng
trầm của lịch sử nó vẫn tồn tại đến ngày nay. Sau nhiều năm chờ đợi và chuẩn bị
vào ngày 11.7.1998. Chính phủ nước ta đã ký nghị định 18/CP ban hành về chứng
khoán và thị trường chứng khoán. Và ngày đó cũng là ngày đánh dấu sự ra đời của
thị trường chứng khoán Việt Nam.
2. Vai trò TTCK trong nền kinh tế thị trường.
Với quá trình phát triển lâu dài của mình, TTCK đã cho thấy vị trí không
thể thiếu của mình trong nền kinh tế thị trường. Nó có vai trò quan trọng trong sự
nghiệp phát triển kinh tế của các nước có nền kinh tế thị trường. TTCK là kênh bổ
sung nguồn vốn trung và dài hạn cho Nhà nước và các doanh nghiệp. Nó là yếu tố
hạ tầng quan trọng nhất một công cụ đem lại nhiều lợi ích. Vai trò của TTCK thì
rất là nhiều nhưng nhìn chung lại thì nó có các vai trò chủ yếu sau:
a) Tạo vốn cho nền kinh tế quốc dân.
Như ta đã thấy trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung không có khái
niệm về giao lưu vốn và cũng không có nhu cầu về tiền và vốn để đầu tư cho sản

Tiểu luận: Lý thyết tài chính
Sinh viên: Nông Văn Lực Lớp K41 – 01.04
5
xuất. Nền kinh tế hoạt động như một cỗ máy chứng nhắc dưới sự chỉ đạo tập trung
của Nhà nước. Cơ chế phân phối bình quân theo giá cả bao cấp đã làm tê liệt chức
năng của đồng tiền phá vỡ quan hệ cung cầu và qui luật giá trị. Nền kinh tế phát
triển què quặt.
Khi chuyển sang chơ chế thị trường doanh nghiệp chủ động trong sản xuất
kinh doanh các vấn đề đều do thị trường quyết định. Tạo môi trường cạnh tranh
cho các doanh nghiệp. Nhu cầu giao lưu về vốn đã xuất hiện, phản ánh qui luật
cung cầu và qui lụât giá trị. Nhu cầu này bắt nguồn từ hai phía: người cần vốn và
người có vốn.
Người ta ví thị trường chứng khoán, như một trung tâm thu gom mọi nguồn
vốn tiết kiệm lớn nhỏ của từng bộ phận dân cư, như một nam châm cực mạnh thu
hút nguồn vốn to lớn từ nước ngoài, thu hút nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi từ các
doanh nghiệp, các tổ chức tài chính, chính phủ, tạo thành một nguồn vốn khổng lồ
cho nền kinh tế quốc dân. Đồng thời nó tạo ra cho các doanh nghiệp có vốn để mở
rộng sản xuất kinh doanh và thu được lợi nhuận nhiều hơn, kích thích doanh
nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả bằng cách vừa sản xuất vừa mua bán chứng
khoán. TTCK giúp Nhà nước giải quyết các vấn đề cơ bản như ngân sách, hạ tầng
cơ sở, trực tiếp cải thiện đời sống của người tiêu dùng.
b. Thị trường chứng khoán tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sử dụng vốn
kinh doanh và có hiệu quả hơn.
Khả năng linh động tức thì của chứng phiếu là một yếu tố rất cần đối với
nhà đầu tư khi đầu tư vốn.
Thị trường chứng khoán giúp doanh nghiệp sử dụng vốn linh hoạt và tối
ưu. Khi một doanh nghiệp cần vốn để mở rộng qui mô doanh nghiệp có thể phát
hành các loại chứng khoán để huy động vốn. Phương thức này còn gọi là “vay vốn
qua phát hành”. Doanh nghiệp vay vốn của người có tiền tích luỹ. Những người

