Đề tài: Phân tích môi trường vi mô của Pepsi
lượt xem 153
download
Với xu hướng hiện nay, Pepsico có nhiều lợi thế để phát triển lĩnh vực kinh doanh của mình. Đề tài: Phân tích môi trường vi mô của Pepsi giới thiệu chung về Tập đoàn Pepsi; trình bày và phân tích môi trường vĩ mô; thị trường của Pepsi và các thành tích đạt được. Mời bạn đọc cùng tham khảo.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Đề tài: Phân tích môi trường vi mô của Pepsi
- I.GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC CÔNG TY PEPSI 1.Giới thiệu chung: Tập đoàn Pepsi thành lập năm 1898, trụ sở chính tại thành phố Purchase, bang New York, Mỹ. Năm 1965, Pepsi sáp nhập với tập đoàn Frito-Lay thành tập đoàn PepsiCo.. PepsiCo ( viết tắt: pep) Là một trong số các công ty sản xuất thức ăn và đồ uống lớn nhất thế giới , với thu nhập trong năm 2006 trên 35 tỉ đô la . PepsiCo có hệ thống phân phối và mạng lưới bán hàng đại lý dày đặc ở gần 200 quốc gia, và thuê hơn168,000 nhân viên trên toàn thế giới . Những hoạt động kinh doanh cơ bản Bao gồm : bữa ăn nhẹ Frito-lay , đồ uống Pepsi- Cô la, đồ uống thể thao Gatorade, thức ăn Quaker và nước hoa quả Tropicana. PepsiCo đầu tư vào 17 nhãn hiệu với 1 tỉ đôla hoặc nhiều hơn trong các kinh doanh bán lẻ hàng năm. Bên cạnh thương hiệu Pepsi trị giá hàng tỷ USD, tập đoàn này còn sở hữu nhiều thương hiệu nước giải khát lừng danh khác như Mirinda, 7 UP, Mountain Dew hay nước khoáng Aquafina. II.Môi trường vĩ mô Mô hình PEST trong nghiên cứu môi trường vĩ mô Trong khi mô hình 5 áp lực của M-Porter đi sâu vào việc phân tích các yếu tố trong môi trường ngành kinh doanh thì PEST lại nghiên cứu các tác động của các yếu tố trong môi trường vĩ mô. Các yếu tố đó là • Political (Thể chế- Luật pháp) • Economics (Kinh tế) • Sociocultrural (Văn hóa- Xã Hội) • Technological (Công nghệ) Đây là bốn yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến các ngành kinh tế, các yếu tố này là các yếu tố bên ngoài của của doanh nghiệp và ngành, và ngành phải chịu các tác động của 1
- nó đem lại như một yếu tố khách quan. Các doanh nghiệp dựa trên các tác động sẽ đưa ra những chính sách, hoạt động kinh doanh phù hợp. a. Môi trường chính trị luật pháp: Trong quá trình toàn cầu hoá ,hoàn loạt các quốc gia thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế và theo đó hệ thống luật pháp không ngừng hoàn thiện và cải tiến. “Nhượng quyền” được xem là một hình thức kinh doanh mang lại hiệu quả cao cho các công ty trong ngành phân tán. Các công ty muốn tham gia vào hình thức này phải tìm hiểu kỹ hệ thống luật pháp của nước đó về lĩnh vực nhượng quyền thương mại như giấy phép chuyển nhượng thương hiệu, luật thương mại …Ở Mỹ, kinh doanh nhượng quyền dược xem là “ kinh tế lót bạc” … b. Môi trường kinh tế Theo dự báo của các cơ quan nghiên cứu kinh tế trên toàn thế giới như IMF , WB và OECD thì sự tăng trưởng kinh tế thế giới có xu hướng phục hồi .Trong “thế giới mới” Trung Quốc và Ấn Độ sẽ tiếp tục đi lên, Châu Âu cũng khởi sắc là một nền kinh tế gọn nhẹ và hiệu quả. Khu vực Châu Á được dự đoán là khu vực tăng trưởng kinh tế nhanh nhất thế giới, với tốc độ tăng GDP trung bình khoảng 5,5%/ năm. Sự tăng trưởng kinh tế góp phần nâng cao đời sống của người dân, dẫn dến sự gia tăng về chi tiêu, làm cho châu Á, Mỹ Latinh trở thành thị trưòng đầy tiềm năng và hấp dẫn. 2
- c. Môi trường văn hoá hội : Giống như những thay đổi công nghệ các thay đổi xã hội cũng tạo ra các cơ hội và đe doạ. Bạn có thể dễ dàng nhận ra một trong những dịch chuyển xã hội phổ biến trong những năm 1970 và 1980 là huynh hướng ý thức về sức khoẻ. Tác động của dịch chuyển này rất rộng và các công ty nhận thức các coe hội sớm và đã thu hoạch lợi nhuận to lớn. Ví dụ như Philip Moris đầu tư vào khuynh hướng ý thức về sức khoẻ với việc giới thiệu sản phẩm bia ca lo thấp (Miller lite).Pepsicola dành được một thị trường từ đối thủ cạnh tranh bằng việc giới thiệu một loại cola và nước trái cây kiêng dựa trên cơ sở ban đầu là nước ngọt. Đồng thời khuynh hướng sức khoẻ đã tạo ra đe doạ cho nhiều ngành. Sự gia tăng tính đa dạng về văn hoá ,dân tộc và giới đang đặt ra hàng loạt cơ hội và thách thức liên quan đến các vấn đề như cách thức kết hợp tốt nhất các phong cách lãnh đạo truyền thống của nam giới và nữ giới để thúc đẩy sự đóng góp của họ có lợi cho doanh nghiệp. Những thay đổi về thực hành quản trị và cấu trúc tổ chức cần được tiến hành để trách tồn tại của các rào cản tinh vi gây bất lợi cho tổ chức. Trong nền kinh tế phát triển mọi người có xu hướng tiết kiệm thời gian dành cho các công việc nội trợ , gia đình và đây chính là điều kiện tạo cơ hội thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của kĩ nghệ thức ăn và đồ uống tiện lợi. Đặc biệt các nước Châu Âu vàChâu Mỹ có một tác phong làm việc công nghiệp nên thời gian đối với họ rất quan trọng và những bữa ăn nhanh , đồ uống ngon miệng , đảm bảo dinh dưỡng là giải pháp tối ưu .Và đây là các nôi nuôi dưỡng ngành công nghiệp thức ăn và đồ uống tiện lợi ,là địa điểm đầu tiên của hầu hết các tập đoàn chế biến thức ăn nhanh và đồ uống tiện lợi lớn nhất thế giới :Cocacola ,McDonalds’ ,KFC….Bên cạnh đó lượng cola cần thiết cho họ nhiều hơn so với phương đông điều này là vấn đề quan trọng cho sự cải tiến thể tích chai lọ của Pepsico Ngược lại những quốc gia Châu Á ,với nền kinh tế Á Đông những bữa ăn gia đình là 3
- đặc điểm nổi bật của nguời dân nên thức ăn nhanh và đồ uóng tiện lợi chưa phát triển rộng khắp. Tuy nhiên ,trong những năm gần đây thức ăn nhanh và đồ uống tiện lợi dần dược chấp nhận với nhiều tập đoàn lớn :Hàn Quốc ,Trung Quốc, Ấn Độ…cho thấy người dân đã thay đổi trong cách nhìn nhận để theo kịp với cuộc sống mới. Một xu hướng mới cần phải đề cập ở đây là việc chú trọng đến sức khoẻ người tiêu dùng.Cùng với sự gia tăng nguồn thu nhập ,khách hàng ngày càng quan tâm đến sức khoẻ của mình nhiều hơn . DO đó ,cải tiến sản phẩm hạn chế chất béo là một vấn đề quan trọng nhằm đáp ứng khách hàng d. Môi trường công nghệ: Mỗi năm các nhà khoa học trên thế giới đã đưa ra các hàng triệu phát minh về khoa học công nghệ, mang lại tiện ích thật sự cho cuộc sống mội người Đồng thời ,với sự phát tiển của công nghệ thông tin đã hổ trợ cho việc quản lý ,kiểm soát chặt ché trong hoạt động kinh doanh ở những thị trường khác nhau , thu hút khách hàng qua hệ thống quảng cáo có thể xuất hiện mội lúc mọi nơi hổ trợ việc ra quyết định nhanh chóng. Công nghệ ngày càng trở thành nhân tố then chốt quyết định sự thành bại của công ty * Công nghệ là một người chèo lái PepsiCo: "PepsiCo đang luôn luôn tìm kiếm những cách thức để cung cấp dịch vụ và thông tin với chất lượng và hiệu quả cao " _theo Marie Quintana Cummiskey,sự phát triển công nghệ Toàn cầu đem lại những khả năng và giải pháp cho sự phát triển PepsiCo.”Chúng tôi luôn luôn tìm kiếm bất cứ giải pháp nào mà có thể giảm bớt chi phí của việc đưa những sản phẩm của chúng tôi tới khách hàng và cải thiện dịch vụ cùng lúc." Quy mô công nghệ được áp dụng ở Pepsi rất khổng lồ và không ngừng phát triển, cô ấy nói. Công ty là một trong những tổ chức có đội ngũ bán hàng với những chiếc Laptop, và bây giờ đang khám phá những công nghệ như RFID 4
- Hiệu quả và hiệu lực là những mục đích của công nghệ ở PepsiCo, một công nghệ được triển khai và sử dụng đều được thử nghiệm và kiểm tra . Quan điểm trên bảo đảm rằng người bán lẻ sẽ được hỗ trợ một cách cẩn thận sao cho họ có thể tiếp cận khách hàng tốt nhất, Quintana Cummiskey nói. "Mục đích củachúng ta sẽ tạo ra dây chuyền thông tin chuyên sâu và giữ những sản phẩm ổn định theo thời gian ." PepsiCo tạo ra hàng loạt đồ uống nhẹ mang thương hiệu nó. Công ty cũng sở hữu Frito- lay, Quaker Oats và Tropicana brands, cũng như những nhãn hiệu thức ăn và đồ uống khác. Công nghệ của PepsiCo được củng cố, cung cấp những dịch vụ tới tất cả những bộ phận của nó. Công nghệ là yếu tố hàng đầu … Với quy mô hiện tại, chúng tôi có thể có được những ý tưởng tốt nhất của riêng mình và mở rộng chúng bất cứ nơi đâu; từ đó vận dụng vào thực tiễn. Hay chúng tôi đảm bảo những tiêu chuẩn công nghiệp, như “the Capability Maturity Model “, và áp dụng vào toàn doanh nghiệp, " Quintana Cummiskey giải thích. Ngoài các yếu tố cơ bản trên, hiện nay khi nghiên cứu thị trường, các doanh nghiệp phải đưa yếu tố toàn cầu hóa trở thành một yếu tố vĩ mô tác động đến ngành. e. Môi truờng toàn cầu: Ngày nay xu thế toàn cầu hoá kinh doanh đang phát triển mạnh me và xuất hiện nhiều khuynh hướng trái ngược nhau. Với sự lớn mạnh của các công ty đa quốc gia và sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, nền kinh tế thế giới ngày càng được quốc tế hoá mạnh mẽ, những thị trường toàn cầu về nhân lực, công nghệ, tư bản, hàng hoá nguyên vật liệu, dịch vụ…ngày càng được mở rộng. Do đó các doanh nghiệp phải lấy thị trường toàn cầu làm trung tâm. Mặt khác với sự mở rộng giao lưu giữa các quốc gia làm thay đổi nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng diễn ra mạnh mẽ và nhanh chóng đòi hỏi các doanh nghiệp phải liên tục thay đổi. Cuộc cách mạng công nghệ thông tin đang 5
- làm thay đổi thế giới. Các doanh nghiệp ngày càng hướng tới sự phát triển bền vững trên cơ sở phát huy kỹ năng của nguồn nhân lực và sức mạnh của công nghệ mới và sự sáng tạo toàn diện của nhân viên. Tối đa hoá lợi nhuận ngày nay sẽ là hệ quả của sự thoả mãn nhu cầu khách hàng toàn diện. Trên thị trườg toàn cầu vừa phát triển khuynh hướng tự do hoá mậu dịch bằng việc hình thành một thị trường thế giới đồng nhất, các hạn ngạch và hàng rào thuế quan đều được hạn chế (WTO). Bên cạnh đó cũng xuất hiện một xu hướng trái ngược là xu thế hình thành các khối liên kết kinh tế ( Liên minh châu Âu EU, Hiệp hội các nước Asean). Từ xu hướng trên cho thấy, toàn cầu hoá là một sự hội nhập không thể đảo ngược giữa những thị trường, quốc gia- theo phương cách tạo điều kiện cho các cá nhân, tập đoàn vươn lên quan hệ với nhiều nơi trênthế giới xa hơn, sâu hơn với chi phí thấp hơn bao giờ hết và cũng theo phưong cách giúp thế giới tiếp cận với cá nhân ,tập đoàn .Hệ thống toàn cầu hoá mang một sắc thái văn hoá riêng ,có xu hướng đồng hoá các quốc gia và cá nhân tới một mức độ nhất định. Một thị tu\hường toàn cầu ra đời làm mờ dần ranh giới giữa các thị trường Châu Âu hay thị trường Mỹ ,Trung Quốc .Ngày nay ,các quốc gia trên thế giới , đặc biệt các nước đang phát triển luôn sẵn sàng mở cửa và tạo điều kiện cho các tập đoàn nước ngoài đầu tư.Hệ thống luật pháp ngày càng được cải tiến và dần dần đi đến những chuẩn mực chung thúc đẩy quá trình phát triển và đầu tư nước ngoài. Nhưng vấn đề lớn và nổi trội nhất là khoảng cách về văn hoá ,sở thích tiêu dùng giữa các vùng miền ,quốc gia ,khu vực là một cản trở đối với quá trình thâm nhập thị trường của các hãng.Theo trào lưu toàn cầu hoá ,thức ăn nhanh , đồ uống kiểu Mỹ đã và đang nhanh chóng được mở rộng không ngừng trở thành một phong cách ,một giải pháp thời gian hữu hiệu . f. Môi trường nhân khẩu: Hiện nay dân số thế giới đang gia tăng nhanh chóng , năm 2007 tông rcộng dân số thế giới đã là 7 tỷ người ,tỷ lệ tăng trưởng hằng năm là 1,1% , khu vực kém phát triển chiếm đến 76% dân số thế giới và đang tăng vọt với tốc độ 2%/năm và các nước phát 6
- triển dân số tăng 0,6%/năm Tốc độ tăng trưởng dân số nhanh dẫn đến nhu cầu tăng nhanh ,do đó Pepsi có khả năng phát triển ,nhất là hiện nay hơi thở cuộc sống rất gấp gáp , sản phẩm vừa đảm bảo dinh dưỡng và tiện lợi rất cần thiết , đó là cơ hội cho Pepsi Giới trẻ là đối tượng phục vụ chính của ngành này .Nhưng sự già hoá dân số ở các nước phát triển và trẻ hoá tại các nước phát triển tạo nên một làn sóng chuyển dịch đầu tư khai thác thị trường lao động dồi dào ,giá rẻ và thị trường tiêu thụ tiềm năng hiện đang còn bỏ ngõ này .Một thay đổi khác đáng chú ý này trong thập niên vừa qua , nền kinh tế Mỹ đã xuất hiện những dấu hiệu giảm sút ,tình trạng thất nghiệp gia tăng nhanh 4% vào tháng 6 năm 2000 .Thị trường bị thu hẹp khi sự tăng trưởng lao động trong nước giảm xuống đột ngột thách thức thị trường này đòi hỏi nguồn lao động lớn .Bên cạnh đó những người tham gia vào thị trường lao động này phần lớn là tuổi vị thành niên .Do đó vâbs đề chiêu mộ , huấn luyện và nắm giữ những con người đòi hỏi tập đoàn phải mất 1 chi phí lớn kết hợp với hình thứcquản lý đa dạng nhằm đáp ứng sự thay đổi của nguồn lao động III.Thị Trường của Pesi 1)Đối thủ cạnh tranh của Pesi a. Đối thủ hiện tại Năm 1886, John Pemberton định làm một loại hương liệu đem lại cảm giác khỏe khoắn, tươi mới từ lá coca và chiết xuất của hạt cola tại nhà mình ở Atlanta. Ngẫu nhiên, hỗn hợp của ông đã được trộn với cácbonát thay vì nước đơn thuần. Cocacola ra đời từ đó. Sáu năm sau, Caleb Bradham, một dược sĩ khác ở New Bern, Bắc Caroline, đã đăng ký nhãn hiệu Pepsi cho một loại coca mới. Bradham chọn cái tên Pepsi vì công dụng làm giảm chứng khó tiêu của loại đồ uống này. Cuộc chiến giữa các loại cola bắt đầu, tuy 7
- khá âm thầm lúc ban đầu. Cùng năm đó, năm 1902, Cocacola lần đầu được quảng cáo trên tạp chí – tờ Munsey’s và công ty từ đó đã nhận ra nhu cầu thiết yếu cần một nhà chuyên nghiệp để xây dựng các quảng cáo cho mình. Năm 1904, chủ tịch Của Cocacola, ông Asa Candler đã chọn Massengale ở Atlanta làm công ty phụ trách quảng cáo đầu tiên của mình. Massengale đã cố gắng tạo dựng hình ảnh cho Cocacola bằng các quảng cáo thể hiện hình ảnh mọi người uống cola, với nỗ lực khai thác một yếu tố xã hội học: các nhân vật trong quảng cáo đều là những người Mỹ da trắng tầng lớp trung và thượng lưu đang giải trí trong các cuộc đi chơi . Bằng cách này hay cách khác, luôn luôn xuất hiện hình ảnh các quầy giải khát đằng sau các khung cảnh. Thời điểm này, Massengale cũng cho quảng cáo trên báo và tạp chí nhưng chủ yếu tập trung vào các loại xe điện và các bảng thông báo. Các thông điệp quảng cáo của Massengale nói chung là quá dài và công ty Cocacola đã hạn chế điều này bằng cách thuê thêm hãng W.C. D'Arcy đảm trách một phần công việc này. Cả hai hãng quảng cáo phải cùng chịu chung trách nhiệm và tung ra các quảng cáo chứng thực (testimonial advertising) Cuối cùng thì hãng Massengale đã bị hăt cẳng và đến năm 1908, D’Arcy và người đồng sự phụ trách kinh doanh Sam Dobbs đã ấp ủ giác mơ xây dựng biểu tượng ngoài trời lớn nhất thế giới lúc đó. Tẩm biển trên tuyến đường chính của đường ray Pennsylavania nằm giữa Philadelphia và New York đã được dựng đứng lên, cao 32 feet thể hiện hình ảnh một người đàn ông trẻ đang đổ nước Cocacola vào một cái ly, trông như những dòng suốt thật sự đang chảy ra từ nguồn. Nhờ thành công rực rỡ này cảu D’Arcy, năm 1909 hãng Cocacola đã được Hiệp hội quảng cáo Mỹ bầu chọn danh hiệu “Hãng có quảng cáo tốt nhất nước Mỹ”. Cocacola đã tiêu 761.981, 35 đô la vào quảng cáo. Trong khi đó, Pepsi vẫn chỉ theo đuôi phía sau. Nhà sáng chế của Pepsi, Caleb Bradham vẫn còn đang mê mải với những tuyên bố về Pepsi Cola như là “đem lại sự thoải mái” “tiếp thêm sinh lực” “hạn chế chứng khó tiêu” và “Đừng quên mua Pepsi tại các máy bán Soda”. Đến năm 1909 thì Pepsi cũng có được giấy chứng nhận của mình. Cocacola và D’Arcy đáp lại Pepsi và một lô các đối thủ, một vài trong số họ có những cái tên kỳ khôi như Coca Nola, Koke Ola, bằng cách thêm vào những cụm từ như “Duy nhất” “Không có kẻ thay thế” trong các quảng cáo của mình. Các đối thủ của Cocacola liên tiếp thất bại. 8
- Không phải là Coca-Cola vẫn luôn định hướng tập trung cao độ, họ cũng đã từng mất đi định hướng khi mua lại Columbia Pictures và rồi bán lại cho Sony vào năm 1989. Coca- Cola cũng đã từng mua Taylor Wine Company nhưng ngày nay Coca-Cola đã trở lại là chính mình, một công ty nước giải khát. Nếu bạn nghĩ là việc mất giá trị này của PepsiCo là do ảnh hưởng từ các chuỗi cửa hàng thức ăn có lợi nhuận thấp, chúng ta hãy thử so sánh. So với PepsiCo, McDonald’s chỉ có 14.000 nhà hàng với tổng doanh thu là 7,4 tỷ USD so với 9,4 tỷ của 24.000 nhà hàng thuộc sở hữu của PepsiCo. Trên thị trường chứng khoán, chuyện đã xẩy ra khi so sánh với Coca-Cola cũng xẩy ra tương tự với các chuỗi nhà hàng của PepsiCo khi so sách với đối thủ nhỏ hơn. McDonald’s Corporation được định giá là 31 tỷ USD so với chỉ 10 tỷ của hệ thống nhà hàng PepsiCo. Một lần nữa sức mạnh của sự định hướng tập trung lại được thể hiện. Công ty nhỏ hơn với định hướng tập trung cao hơn đã được định giá cao hơn công ty lớn hơn với các hoạt động không được định hướng tập trung cao bằng. Vấn đề còn có thể đáng nói hơn nữa. Giá trị của một công ty trên thị trường chứng khoán được định giá bởi những người mua bán cổ phiếu khi họ quyết định mua vào hay bán ra các cổ phiếu của công ty này. Nếu những người mua bán chứng khoán này thực sự hiểu rõ được sức mạnh của sự định hướng tập trung, họ sẽ tập trung thu mua cổ phiếu của những công ty chứng tỏ được sự định hướng tập trung cao độ. Chính sự mất tập trung trên của PepsiCo đã làm cho họ cứ mãi phải nỗ lực cạnh tranh trong thua kém trước đối thủ Coca-Cola. Vấn đề đầu tiên dẫn đến sự mất định hướng tập trung này của PepsiCo là từ việc quản lý. Công tác quản lý đỉnh cao không chỉ yêu cầu các kỹ năng quản lý mà còn cần đến kinh nghiệm trong ngành nghề nữa và đó chính là vấn đề đang xẩy ra ở PepsiCo, họ có một nhà quản lý đầy kinh nghiệm lãnh đạo phân bộ nước giải khát, một người kinh nghiệm khác lãnh đạo phân bộ thực phẩm ăn chơi, một người kinh nghiệm khác nữa lãnh đạo phân bộ chuỗi nhà hàng nhưng người đã chọn những người đầy kinh nghiệm cho từng phân bộ này lại chỉ có thể là một 9
- người có kinh nghiệm với chỉ một trong ba ngành nghề nói trên. Để có được sức mạnh kinh doanh thực, các công ty cần phải có những nhà lãnh đạo thực sự chuyên nghiệp. Cũng chính vì vậy mà các công ty có định hướng tập trung cao sẽ tạo thành những nhà quản lý cùng chia sẻ sự định hướng tập trung này của cả công ty. Ở PepsiCo, mục tiêu của cuộc chơi là trở thành giám đốc điều hành tổng quát trong khi ở Coca-Cola là trở thành giám đốc điều hành việc sản xuất và bán nước giải khát. Chính sự không thể chuyên nghiệp đã dẫn đến tình trạng mất định hướng tập trung ở các cấp lãnh đạo của PepsiCo và chính sự chuyên nghiệp đã tạo thành định hướng tập trung cao độ ở các cấp lãnh đạo của Coca-Cola. Chỉ với sự định hướng tập trung cao độ mà một nhà lãnh đạo mới thực sự trở thành vĩ đại. Tính cách chính là điều tạo thành một nhà lãnh đạo vĩ đại, nhưng chỉ tính cách không thòi là chưa đủ để một nhà lãnh đạo thực sự trở thành vĩ đại. Tính cách giúp cho một nhà lãnh đạo vượt qua được sự mất định hướng của việc đa dạng hóa kinh doanh nhưng chính sự định hướng tập trung mới là điều để một nhà lãnh đạo nhắm vào và điều hành mọi hoạt động đa dạng của công ty đi theo đúng một hướng đã định. Một trong những vấn đề mà các công ty mất đi định hướng tập trung như PepsiCo phải đối mặt là chính họ lại đi cạnh tranh với chính những hoạt động của chính mình. Thay vì đạt đến sự cộng lực cần phải có được từ những hoạt động kinh doanh khác nhau của mình, các công ty mất định hướng lại thường đi đến chỗ ngược lại: một hoạt động này lại làm chôn vùi đi các hoạt động khác. Trong trường hợp của PepsiCo là các chuỗi nhà hàng của họ đang cạnh tranh với chính các thương hiệu giải khát của họ. Không chỉ có vấn đề cạnh tranh lẫn nhau không thôi, các chuỗi nhà hàng này còn làm yếu đi sức mạnh tài chính của PepsoCo. Họ đã phải chi ra hơn một tỷ USD để xây dựng và tiếp nhận thêm các nhà hàng mới, một số tiền vượt xa hơn lợi nhuận mà hệ thống nhà hàng này đem về cho PepsiCo. Và điểm này cũng chính là một nghịch lý mà PepsiCo cứ mãi phải theo đuổi, nếu không tiếp tục đầu tư, các chuỗi nhà hàng của họ không thể đứng vững được lâu dài và tiếp tục đầu tư thì lợi nhuận có được từ hệ thống này cứ mãi không thể bù đắp nổi cho chi phí đã phải bỏ ra. 10
- Đúng ra đó là những đồng tiền cần phải có để PepsiCo có thể đương đầu với Coca- Cola trên các mặt trận quốc tế. Như trong trường hợp đã xẩy ra trong các nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa trước đây, PepsiCo đã thâm nhập vào thị trường Liên Xô từ năm 1959 sau khi chủ tịch của công ty vào lúc đó, Donald Kendall, đi cùng phó tổng thống Mỹ Richard Nixon đến thăm Nga và gặp mặt Nikita Khrushchev. Mãi đến năm 1991, Coca-Cola mới bước vào thị trường Rumani và ngày nay, mãi lực của Coca-Cola vượt hẳn gấp đôi PepsiCo. Sự việc tương tự cũng đã xẩy ra ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa khác, PepsiCo lúc này chỉ còn là số một ở ba quốc gia: Hungary, Ukraina và Nga. Ở Trung Quốc cũng thế, Coca-Cola là thương hiệu được biết đến rộng rãi nhất ở đất nước này và họ chiếm 19% thị phần trong thị trường nước ngọt Trung Quốc, gấp ba lần thị phần của pepsiCo. Một trong những lý do đã đem lại lợi thế cho Coca-Cola trước PepsiCo là mức độ đầu tư. Coke đầu tư 700 triệu USD cho các thị trường quốc tế trong lúc số tiền đầu tư của PepsiCo chỉ có 300 triệu. Việc đầu tư này đã đem lại những lợi thế nhất định cho Coca-Cola khi 80% tổng doanh thu của họ là đến từ ngoài nước Mỹ so với 15% của PepsiCo. Còn đáng nói hơn nữa là tiềm năng phát triển ở nước ngoài còn rất lớn, mức tiêu thụ nước ngọt trung bình của người tiêu dùng ở ngoài nước Mỹ chỉ mới bằng có một phần mười lượng tiêu thụ nước ngọt của người Mỹ. Sự bất lợi của một công ty mất định hướng tập trung như PepsiCo trước một đối thủ định hướng tập trung cao độ như Coca-Cola là đã rõ ràng. Vấn đề là PepsiCo phải làm những gì đây để có thể thay đổi tình hình này? Đương nhiên là phải nỗ lực hơn nữa nhưng điều này chỉ có thể trở thành hiện thực nếu nỗ lực của PepsiCo có thể giúp cho họ tăng trưởng gấp đôi mãi lực tiêu thụ của mình ở ngoài nước Mỹ. Và còn nhiều cái nếu phải có nữa chứ không chỉ có thế. Nỗ lực không thôi hiếm khi đem lại hiệu quả như ý muốn một khi PepsiCo vẫn còn phải chia ba tiềm lực của họ như hiện nay trên các mặt trận cạnh tranh khác nhau. Ai cũng biết, PepsiCo mạnh nhất là với các loại nước giải khát của mình. Bởi vậy muốn có được một bước chuyển đáng kể trước sức mạnh của Coca-Cola, PepsiCo phải có 11
- được một thành công thật sự ngoạn mục ở các thị trường bên ngoài nước Mỹ. Để thực hiện được việc này không thể là dễ dàng, PepsiCo cần phải tập trung sức mạnh của mình hơn nữa. Rõ ràng là PepsiCo đã có được những chiến lược tuyệt vời để đối đầu với Coca-Cola, đó chính là ý tưởng marketing “thế hệ Pepsi” đã được giới thiệu từ những năm đầu thập niên 1960. Cách tốt nhất để đạt đến thế hệ trẻ của hôm nay là thông qua âm nhạc nhưng để có thể sử dụng được các siêu sao ca nhạc có tác động lớn đến giới trẻ, PepsiCo cần phải có đủ tiền để theo đuổi chiến lược này của mình. Và số tiền cần có đó không phải là nhỏ nhoi một chút nào. PepsiCo cần phải tập trung cho được sức mạnh tài chính của mình nhất là trong lúc đối thủ chính của họ, Coca-Cola đang có mức chi phí marketing quảng cáo cao hơn gấp đôi của họ. Định hướng tập trung cao độ hơn nữa chính là điều mà PepsiCo cần phải có được để có thể tập trung sức mạnh tài chính của mình hơn nữa mà đối đầu với Coca-Cola trên các thị trường quốc tế. b. Đối thủ cạnh tranh tiềm tàng Cung cấp thức ăn và đồ uống tiện lợi đang dần trở nên một ngành hấp dẫn đối với nhiều người ,vì đây là lĩnh vực dễ đầu tư và lợi nhuận lớn . Tuy nhiên các đối thủ này gặp phải 1 số khó khăn , đó là phải có nguồn vốn lớn và lòng trung thành của khách hàng. Cho dù không mang thương hiệu Cocacola hay pepsi , một số công ty kinh doanh trên lĩnh vực này vẫn có thể tạo được thanh công tương tự . Để xây dựng thương hiệu ,nhiều công ty đã tập trung chi phí lớn vào quảng cáo .Nguợc lại một số công ty chọn cách tập trung vào tính ổn định và bền vững để tạo lòng tin của khách hàng . Tuy 12
- mhiên các công ty này cũng thu hút được 1 lượng khách hàng bởi những khuyến mãi và những dịch vụ miễn phí ban đầu . Pepsi cũng phải cải tiến những dịch vụ của mình để giữ chân khách hàng -Lợi thế về chi phí tuyệt đối : Có mặt từ lâu đời trên thị thị trường và dành được lợi thế cạnh tranh rất lớn từ các yếu tố chủ yếu cho quá trình sản xuất sản phẩm đến các yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất : nguyên vật liệu ,lao động , thiết bị và các kỹ năng …. Do đó thật là khó khăn cho các đối thủ mới khi muốn gia nhập ngành . 2)Quy mô của pesi Sau chiến tranh, năm 1946 lạm phát làm cho Pepsi không thể tiếp tục duy trì chính sách “nhiều gấp đôi chỉ với 1 nickel”. Mặc dù sau nhiều năm định vị như một loại coca giá hời, Pepsi đã lôi kéo được rất nhiều khách hàng trung thành nhất: những người mua hàng giá rẻ (price shopper). Khi lợi thế giá cả không còn, nhiều khách hàng của Pepsi cũng ra đi. Pepsi chỉ còn lại hình ảnh của một công ty cấp thất vì vậy Pepsi đã thay đổi công thức và bắt tay vào một nhiệm vụ khó khăn để thay đổi hình ảnh của mình. Khoảng năm 1950, những thay đổi trong tầng lớp bình dân ở Mỹ dẫn tới sự biến đổi của các quảng cáo. Đây là thời điểm xuất hiện các quảng cáo “Thế hệ thứ nhất” của Pepsi, loạt quảng cáo được coi là kéo dài nhất từ trước tới nay và Pepsi đã được định vị như một loại đồ uống dành cho những người nghĩ rằng họ trẻ tuổi. Mục tiêu của Pepsi là những phụ nữ Mỹ trẻ - những người sẽ mua cola cho gia đình của họ và thường mua sắm ở siêu thị. Để hấp dẫn những người phụ nữ này, Pepsi đã lần đầu tiên tung ra loại chai “bà chủ nhà” 26 ounce. Năm 1955 Cocacola chấm dứt hợp tác với D’Arcy và thuê một đại diện quảng cáo mới, McCann-Erickson. McCann đã nhanh chóng tiêu 250 nghìn đô vào thử nghiệm các bức 13
- ảnh màu và phát hiện ra ảnh của thực phẩm trông không tệ như ảnh của con người. Do đó, một seri các quảng cáo Cocacola đặt cạnh đồ ăn đã xuất hiện. Doanh thu của Pepsi vẫn vượt trên Coca vì họ lại có thêm các cỡ chai mới cùng với loại chai nhỏ hơn cho các máy bán nước ngọt. Trong năm 1984-1985, Pepsi và Cola tổ chức cuộc kiểm tra hương vị “Pepsi Challenge” trên tòan quốc. Kết quả cho thấy đa số những người tham gia thích Pepsi hơn là Cola, thậm chí khi Coke đưa ra những cuộc kiểm tra của riêng mình. Pepsi sử dụng triệt để kết quả kiểm tra này và vượt xa Cola về mặt thị phần. Cocacola bị đặt dưới áp lực, đặc biệt kể từ năm 1977 khi doanh thu của Pepsi bắt đầu hơn Coke. Điều gì đã giúp Pepsi có những bước tăng trưởng thành công và mạnh mẽ. Đó là nhờ những chiến lược đúng đắn 1950-1955 :Pepsi đã áp dụng 5 quyết sách quan trọng: 1. Cải thiện khẩu vị thức uống để không còn thua kém Coca Cola. 2. Thiết kế lại kiểu dáng chai thuỷ tinh và thống nhất các tiêu chí kinh doanh của mình. 3. Thiết kế lại hoạt động quảng cáo, nâng cao hình tượng thương hiệu. 4. Tập trung lực lượng đánh chiếm thị trường rộng lớn mang thức uống về nhà mà Coca Cola xem nhẹ. 5. Đặt 25 thành phố của Mỹ là thị trường mục tiêu trọng điểm để khai triển cuộc chiến giành giật với Coca Cola Đến cuối thập niên 70, Pepsi đã khắc phục được các nhược điểm của mình, doanh số bán hàng và thị phần được tăng lên nhanh chóng. Trên cơ sở này, các chiến lược gia của Pepsi quyết định thực hiện sách lược công kích giai đoạn hai, chủ yếu là vận dụng các chiến lược marketing mạnh mẽ để mở rộng lượng tiêu thụ, trực tiếp đánh chiếm thị trường mà Coca Cola đang chiếm giữ. Đến năm 1991, tổng doanh thu của Pepsi đã tăng hơn bốn lần so với năm 1955. 14
- Như năm 1975, Pepsi tiến hành cuộc thi nếm thử sản phẩm, khiến tên tuổi của Pepsi tăng nổi như cồn, làm cho thị phần cũng mở rộng rất nhiều. Lúc đó, nhiều người cho rằng Coca có vị ngon hơn Pepsi hoặc những loại nước giải khát khác. Để mọi người có nhận thức sự thật không hẳn là như vậy, Pepsi đã tung ra một chiến lược với hy vong có thể đánh bại Coca có tên gọi “Hãy để vị giác của bạn quyết định!” [/b[b]]("Let your tastes decide!”). Với kế hoạch này, Pepsi thiết lập những trạm nếm thử tại các siêu thị và các cửa hàng trên toàn nước Mỹ. Một cách kín đáo, rót Coca và Pepsi vào hai ly khác nhau, sau đó mời gọi khách hàng hãy uống thử hai ly nước này và cho biết loại nào ngon hơn. Kết quả đã làm ngạc nhiên rất nhiều người: hơn một nửa số người uống thử đã chọn Pepsi, mặc dù nhiều trong số này là những khách hàng trung thành đã uống Coca cả đời. THỊ TRƯỜNG Ngày nay, Pepsi đang trở nên phổ biến hơn bao giờ hết. Theo khảo sát thì cứ trong 4 sản phẩm nước uống có gas được bán trên thế giới thì có một sản phẩm của Pepsi, t ổng cộng là một ngày Pepsi bán được hơn 200 triệu sản phẩm và con số này còn tiếp tục tăng. Tính trên toàn thế giới thì khách hàng chi khoảng 32 tỉ đô la cho các mặt hàng nước giải khát của Pepsi-Cola. Hàng năm, một người tiêu dùng ở Mỹ uống khoảng 55 ga-lông nước có gas, điều khiến cho Mỹ trở thành quốc gia có lượng tiêu thụ nước giải khát lớn nhất thế giới. Ở Châu Âu thì con số này khiêm tốn hơn, khoảng gần 12 ga-lông nước có gas nhưng lượng tiêu thụ đang tăng lên một cách đều đặn - nước uống có gas đang d ần dần tr ở thành một phần quan trọng trong lĩnh vực nước giải khát ở đây. 15
- THÀNH TÍCH ĐẠT ĐƯỢC Công ty Pepsi-Cola với trụ sở chính ở Purchase, New York, là một phần của tập đoàn nước giải khát toàn cầu PepsiCo,Inc. Năm ngoái, PepsiCo đạt doanh thu hơn 200 tỉ đôla Mỹ và trở thành nhà cung cấp hàng đầu về doanh số bán hàng và lãi ròng cho các nhà bán lẻ ở nước Mỹ. Caleb Bradham, một người bán dược phẩm ở New Bern, bắc Carolina phát minh ra Pepsi vào những năm đầu của thế kỉ 20. Việc pha chế ra một loại soda của ông đã đ ạt đ ược thành công ngay lập tức và sau đó không lâu, công ty Pepsi-Cola được thành lập. Từ những khởi nguồn hết sức bình thường, Pepsi đã sống sót sau hai lần phá sản và trở thành công ty nước giải khát lớn thứ 2 trên thế giới. Ngày nay, biểu tượng toàn cầu của Pepsi là một trong những logo được biết tới nhiều nhất trên toàn thế giới. Các loại nước giải khát của Pepsi-Cola có thể được tìm thấy khắp nơi ở hơn 195 quốc gia trên thế giới. Năm 2000, Pepsi làm lại chương trình “Pepsi Challenge”, đây là một chiếc dịch khuy ến thị mang tính hấp dẫn và có khả năng thuyết phục hơn tất cả. Người tiêu dùng đ ược thử các mẫu nước ngọt có gas của Pepsi và đổi thủ cạnh tranh lớn nhất nhưng không có dán nhãn và trả lời xem họ thích mẫu nào hơn. Chương trình này đ ược tổ chức ở hàng trăm thành phố và thị trấn trên toàn nước Mỹ, từ các khu trung tâm thương mại, hội chợ, các công viên ngoài trời đến bãi biển, sân chơi bóng chày và các khu vực đông người khác. Rất nhiều người tiêu dùng nhớ tới chương trình Pepsi Challenge này lần đầu tiên được tổ chức và trở thành sự kiến quốc gia vào giữa những năm 70 và đ ầu thập niên 80. Và những gì đúng vào thời gian đó, đến bây giờ vẫn còn đúng: số lượng người thích mùi vị của Pepsi vẫn chiếm số đông. Với những người không tham gia chương trình, họ được 16
- mời vào trang web www.pepsi.com với các hướng dẫn chi tiết để thực hiện thử nghiệm trên. Vài nét về pesi Việt Nam 24/12/1991 – Công ty Nước giải khát Quốc tế (IBC) được thành lập do liên doanh giữa SP.Co và Marcondray-Singapore với tỷ lệ vốn góp 50% - 50%. 1994 – Mỹ bỏ cấm vận với Việt Nam. • PCI được thành lập với 2 nhãn hiệu: Pepsi và 7Up. • Liên doanh với số vốn góp của PI là 30%. 1998 – PI mua 97% cổ phần, SPCo 3%, tăng vốn đầu tư lên 110 triệu đôla. 2003 – PepsiCola Global Investment mua 3% còn lại, đổi tên thành Công ty Nước giải khát Quốc tế PepsiCo Việt Nam. Có thêm các nhãn hiệu: Aquafina, Sting, Twister, Lipton Ice Tea. 2005 – Chính thức trở thành công ty có thị phần về nước giải khát lớn nhất Việt Nam. 2006 – Tung ra sản phẩm Foods đầu tiên (Snack Poca) 2007 – Phát triển thêm ngành hàng sữa đậu nành. 2008 – Khánh thành nhà máy sản xuất thực phẩm đóng gói tại Bình Dương. Tung sản phẩm Snack Poca Khoai Tây Cao Cấp, được chế biến cắt lát từ những củ khoai tây tươi nguyên chất được trồng tại Lâm Đồng Trong ba năm gần đây, mức tăng trưởng của Pepsi Việt Nam đạt trên mức 20%, tăng gấp ba lần so với tốc độ tăng trưởng trung bình của ngành công nghiệp nước giải khát trong nước. Năm 2004, Pepsi dẫn đầu ở thị trường nước giải khát Việt Nam. Đặc biệt, nhờ cải tiến quy trình sản xuất và quản lý, Pepsi Việt Nam đã giảm chi phí trên đầu két gần 45% trong vòng ba năm. 3)Khách hàng của Pesi Không giống như Cocacola tập trung vào mọi tầng lớp khách hàng, Pesi chủ yếu tập trung vào giới trẻ Mở rộng toàn cầu, Độc quyền tại các cơ sở của trường đại học và các nỗ lực quảng cáo trực tuyến. 17
- Năm 1989, Coke đã tiêu trên 140 triệu đô và Pepsi trên 151 triệu đô vào quảng cáo, chủ yếu vào các quảng cáo trên Tivi và các hợp đồng quảng cáo với người nổi tiếng. Năm 1990, Coke đã đạt được những thành công ở phạm vi toàn cầu. 68% trong số doanh thu 8,6 tỉ đô của công ty đến từ 170 nước ngoài Mỹ. Ngày nay hơn một nửa nước ngọt của thế giới sản xuất bởi Coke. Trong những năm 1990, cả hai công ty cola đều ra sức mở rộng ra thị trường quốc tế. Doanh thu quốc tế của Coke đã vượt xa Pepsi trong khi Pepsi lại đánh bại Coke tại quê nhà. Pepsi sở hữu ba hệ thống nhà hàng ăn nhanh: Taco Bell, Pizza Hurt, KFC và công ty sản xuất snack Frito-Lay. Điều này có thể giải thích tại sao doanh thu nước giải khát của Pepsi lại thua Coke sau đó. Pepsi đã quyết định để mặc ba hệ thống nhà hàng ăn nhanh có thể tập trung phát triển thị trường nước ngọt ra quốc tế. PepsiCola qua 100 năm tồn tại đã phát triển rất nhiều thế mạnh. Một trong những thế mạnh đã khiến Pepsi trở thành một tập tòan lớn là hệ thống đại lý đặc quyền kinh tiêu rất mạnh của nó. Một hệ thống đại lý kinh tiêu mạnh cùng với một tinh thần entrauper vĩ đại là yếu tố chính tạo nên thành công. Hệ thống đại lý và phân phối của Pepsi được xem là có công trong việc đưa doanh số Pepsi từ 7968 galông soda năm 1903 đến gần 5 tỉ galông năm 1997. Pepsi cũng có thể xa xỉ tiêu đến 225 triệu đô cho quảng cáo một năm. Chính ngân sách quảng cáo khổng lồ này giúp Pepsi có thể củng cố thêm vị trí cho sản phẩm của mình với các quảng cáo và chính sách xúc tiến đáng nhớ. Cũng ngân sách này đã cho phép Pepso giới thiệu các sản phẩm mới và nhanh chóng làm cho người tiêu dùng biết đến các sản phẩm mới này. Pepsi cũng gặp may mắn trong việc đưa ra những đầu tư rất khôn ngoan. Một trong số những đầu tư tốt nhất của Pepsi chính là việc giành được những nhà hàng ăn nhanh lớn. Họ cũng có những đầu tư khôn ngoan đối với các công ty sản xuất snack như Frito Lay, công ty snack lớn nhất thế giới lúc đó. Dòng sản phẩm nước uống của Pepsi cũng có thể được coi là có vị trí cao trong danh sách thế mạnh của Pepsi. Pepsi có 4 loại trong số 10 loại đồ uống đứng đầu thế giới: Pepsi, Mountain Dew, Diet Pepsi và Caffeine Free Diet Pepsi. Pepsi cũng có loại trà số một ở Mỹ, trà Lipton . 18
- Một vài nhãn hiệu mạnh khác là All Sport, Slice, Tropicana, Starbucks, Aquafina và một hợp đồng giấy phép với nước ép Ocean Spray. Pepsi Cola cũng như các công ty khác, có các điểm yếu. Thật trớ trêu, một sức mạnh được đánh giá là góp phần lớn nhất tạo nên thành công của Pepsi trong quá khứ bây giờ lại trở thành điểm yếu. Đó chính là hệ thống đại lý đặc quyền kinh tiêu. Trên thị trường ngày nay, Pepsi phải có khả năng hoạt động như một thực thể thay vì một vài đơn vị riêng lẻ. Hệ thống đại lý đặc quyền kinh tiêu đã trở thành rào cản cho Pepsi vì nhiều đại lý đã trở nên mạnh đến mức khó mà chịu sự điều hành của công ty trong việc phải hoạt động như thế nào. Một vài đại lý còn không sẵn lòng để ủng hộ những sản phẩm nào đó của Pepsi và sản xuất những sản phẩm mang nhãn hiệu riêng của mình để cạnh trach trực tiếp với sản phẩm của Pepsi. Tiếp đó, những đại lỳ không sẵn sàng bỏ ra các khoản vốn để theo kịp Cocacola – một công ty có lòng tin vững chắc vào việc tái đầu tư vào chính cơ sở hạ tầng của mình. (Cocacola hiện nay không điều hành một hệ thống đại lý đóng chai nào). Một điểm yếu khác của Pepsi là các máy bán nước ngọt. Đây vẫn luôn là một vấn đề với Pepsi do Pepsi sở hữu những nhà hàng ăn nhanh. Cocacola nhiều năm qua luôn có được các địa điểm đặt máy bán nước ngọt tốt nhất vì Cocacola chỉ đơn giản cần nói với những người chủ rằng Pepsi là đối thủ của họ. Pepsi là chủ của Taco Bell, Pizza Hurt, KFC và nhiều công ty khác. Như đã đề cập trước đó, Pepsi đã cố gắng khắc phục vấn đề này bằng cách bỏ qua quyền lợi của mình ở các nhà hàng ăn nhanh. Nhưng hiện tại, Pepsi vẫn bị xem là có tội với nhiều ông chủ có các máy bán nước ngọt lớn. Hệ thống đại lỳ đặc quyền cũng ảnh hưởng tới doanh thu từ máy bán nước ngọt vì các đại lý không chịu bỏ tiền ra mua những máy nước ngọt đắt tiền để đặt ở các nơi vì lợi ích cận biên quá thấp và cần mất nhiều năm để bù lại khoản đầu tư này. Trong khi đó Coke và Pepsi đang thử bắt tay trả tiền những trường đại học, độc quyền hóa việc bán nước ngọt cho công ty này hay công ty khác. Những người trẻ vẫn là thị trường quan trọng của cola. Người ta đã chứng tỏ rằng hương vị mà những người trẻ thưởng thức trong thời sinh viên thường đi theo họ suốt cuộc đời. Bằng những hợp đồng hấp dẫn với những trường đại học để được phép là loại cola duy nhất bán tại 19
- toàn bộ cơ sở, các công ty cola đã biến những thanh niên trẻ thành những khách hàng bất đắc dĩ. Người chiến thắng trong cuộc chiến này không phải được quyết định bằng các cuộc điều tra hương vị là mà người có túi tiền to hơn. Các trường đại học tha hồ thu lợi. Coke vẫn ý thức về doanh thu thua kém của mình ở thị trường trong nước và mong mỏi sớm được nuốt một miếng lớn trong phân đoạn thị trường Mỹ. Dưới sự lãnh đạo của tổng giám đốc đương thời, M. Douglá Ivester, Coke đã đổ tiền vào đầu tư để đạt mục tiêu chiếm được 50% thị phần tại Mỹ năm 2001. Kế hoạch này là khiến nhãn hiệu nổi tiếng này có mặt ở mọi nơi bằng cách đặt những máy bán Coke tự động hoặc những điểm bán lẻ trong tầm tay của mọi khách hàng. Coke cũng tiến tới đạt được sự có mặt khắp nơi ở phạm vi toàn cầu bằng các kế hoạch thông báo sẽ mua nhãn hiệu đồ uống Cadbury Schweppers đang có mặt ở 120 nước vào ngày 11-12 với 1,85 tỉ đô la. Khi cộng đồng Internet tăng vọt, cả hai công ty đều nỗ lực để tạo ra các trang web hiệu quả quảng cáo các sản phẩm tương ứng của mình. Trang web của Pepsi thì chủ yếu hướng tới những người trẻ tuổi và giàu năng lượng trong khi trang web của Coke thì đầy những thông tin thu hút cả những người trẻ và những người ở mọi thế hệ. Những quảng cáo ở 2 trang web này vẫn tuân thủ chặt chẽ theo những khuôn mẫu quảng cáo mà 2 công ty đã duy trì nhiều năm nay. Thông tin tại những trang web này đều khá hạn chế, với những ưu tiên vào việc thu hút sự chú ý của những người lướt web và kéo họ đến với thế giới của văn hóa soda đại chúng. Năng lực thương lượng của khách hàng Cùng với sự phát triển của nền kinh tế , cuộc sống của mọi nguời được nâng cao , khách hàng ngày càng quan tâm đến nhu cầu “ăn ngon mặc đẹp “ nhưng phải đảm bảo sức khoẻ của chính họ .THị truờng đồ uống và thức ăn tiện lợi đang ngày càng phát triển ,các đối thủ cung ứng sản phẩm ngày càng đa dạng hơn theo xu hướng gia tăng 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Đề tài " Phân tích môi trường vĩ mô đối với sản phẩm bột giặt omo "
19 p | 3118 | 459
-
Tiểu luận: Đánh giá và phân tích môi trường vĩ mô
39 p | 1091 | 251
-
Đề tài: Phân tích môi trường đầu tư quốc tế tại Việt Nam
207 p | 1316 | 219
-
Đề tài: Phân tích chiến lược kinh doanh của hệ thống bán lẻ của siêu thị Big C
31 p | 673 | 205
-
Đề tài: PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ THỊ TRƯỜNG VIỆC LÀM VÀ THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM
35 p | 281 | 85
-
Thuyết trình: Phân tích môi trường kinh doanh công ty cổ phần Vinagame
26 p | 470 | 69
-
Bài báo cáo Phân tích Môi trường: Phân tích cây trồng
69 p | 707 | 56
-
Đề tài: Phân tích môi trường ngành tập đoàn Samsung
5 p | 480 | 46
-
Báo cáo Phân tích môi trường 1: Độ kiềm - độ cứng
22 p | 321 | 43
-
Đề tài: Phân tích môi trường Viettel
20 p | 508 | 43
-
Đề tài: Phân tích tài chính và tình hình hoạt động Công ty Cổ phần Đường Quảng Ngãi 2015
49 p | 346 | 42
-
Đề bài: Phân tích môi trường của một tổ chức
30 p | 225 | 40
-
Đề tài: Phân tích môi trường ngành của may rèm cửa tại Việt Nam
21 p | 331 | 37
-
Báo cáo " Chế tạo vật liệu hấp phụ từ tro than bay sử dụng trong phân tích môi trường (Phần 1. Chế tạo chất hấp phụ từ tro than bay) "
6 p | 154 | 25
-
Đề Tài: Phân tích môi trường Vương Quốc Anh
36 p | 121 | 20
-
Báo cáo tổng kết đề tài: Phân tích, đánh giá năng lực công nghệ trong nghiên cứu, điều tra cơ bản địa chất và tài nguyên khoáng sản các đơn vị thuộc bộ tài nguyên và môi trường
106 p | 201 | 18
-
Đề tài: Phân tích môi trường kinh doanh
10 p | 215 | 17
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn