DOANH NGHIỆP CHẾ BIẾN TRONG CHUỖI CUNG ỨNG NÔNG SẢN BỀN VỮNG VIỆT NAM
ThS. Đoàn Ngọc Ninh Trường Đại học Thương mại
TÓM TẮT
Nghiên cứu nông sản luôn là chủ đề được nghiên cứu và thảo luận khá nhiều tại Việt Nam. Với đặc điểm là một quốc gia nông nghiệp, Việt Nam có rất nhiều lợi thế về lĩnh vực này. Nhiều đề tài, công trình nghiên cứu ở các khía cạnh khác nông của ngành nông sản Việt Nam. Tuy nhiên gắn với một đối tượng, thành viên là doanh nghiệp chế biến trong chuỗi cung ứng nông sản bền vững, nhìn nhận vị trí và vai trò doanh nghiệp này trong việc phát triển các chuỗi cung ứng nông sản bền vững là chủ đề còn nhiều khoảng trống nghiên cứu. Bài viết tập trung vào những nội dung sau: nghiên cứu cơ sở lý luận về chuỗi cung ứng nông sản bền vững, đặc điểm của chuỗi này tại Việt Nam; Thực trạng các doanh nghiệp chế biến nông sản, dựa vào một số mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam và đề xuất giải pháp cho doanh nghiệp chế biến trong chuỗi cung ứng nông sản bền vững.
Từ khóa: Nông sản bền vững, chuỗi cung ứng nông sản, doanh nghiệp chế biến, nông sản
việt nam.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong bối cảnh thị trường đang ngày càng có những biến động lường như tình hình dịch bệnh, biến đổi thời tiết khí hậu và các yếu tố kinh tế chính trị. Thực sự rất khó dự đoán và thích ứng được với những biến đổi này. Mặc dù vậy các doanh nghiệp vẫn luôn phải thay đổi để thích khi, phát triển hoặc suy thoái phụ thuộc vào rất nhiều khả năng thích nghi này của doanh nghiệp. Như chúng ta đã biết, nông sản luôn là mặt hàng rất nhạy cảm với những diễn biến khó lường của thị trường này. Đặc biệt trong đợt dịch bệnh covid 2019 cho thấy rõ những tác động tức thì tới các sản phẩm nông sản của Việt Nam. Trong những diễn biến tiếp theo của thị trường được dự báo sẽ còn nhiều khó khăn đối với hoạt động xuất khẩu hàng hóa nói chung và xuất khẩu nông sản nói riêng. Các doanh nghiệp sản xuất, chế biến, xuất khẩu nông sản thực sự phải có một kế hoạch một chiến lược lâu dài thích ứng với những điều kiện khó khăn này.
Một trong những hướng đi lâu dài cho các ngành nông sản Việt Nam đó hướng tới phát triển sản xuất bền vững, nôi trồng bền vững, thu gom chế biến bền vững… Hướng tới các sản phẩm sạch, sản phẩm tinh chế, chất lượng cao, giá trị cao sẵn sàng đáp ứng ở các thị trường xuất khẩu khó tính và nhu cầu xã hội ngày càng tăng. Chính vì vậy hình thành mô hình chuỗi cung ứng bền vững đang là một bài toán cần làm ngay đối với các doanh nghiệp sản xuất, chế biến và xuất khẩu nông sản hiện nay.
Tuy nhiên, thực trạng các điều kiện canh tác còn lạc hậu, thu gom còn sử dụng trang thiết bị thô sơ, làm dụng hóa chất, phân bón vô cơ và thuốc trừ sâu... Đặc biệt doanh nghiệp chế biến sử dụng các công nghệ đa phần đã sử dụng lâu, cũ kỹ, dẫn đến năng suất chế biến thấp và chất lượng không cao. Tình trạng thiếu trang thiết bị máy móc trong thu gom, chế biến, tinh chế diễn ra phổ biến ở nhiều doanh nghiệp chế biến nông sản. Ngoài ra những vấn đề về môi trường, phá rừng, biến đổi khí hậu và những diễn biến của dịch bệnh cũng đang làm gia tăng những khó khăn đối với các doanh nghiệp chế biến, những tác động này lớn và lâu dài. Với sự gia tăng nhu cầu toàn cầu, đòi hỏi ngày càng cao của người
943
tiêu dùng và cạnh trạnh mạnh mẽ giữa các quốc gia, nguồn cung nông sản Việt Nam đang bị đe dọa bởi các hoạt động canh tác không bền vững.Điều này khiến chúng ta là một quốc gia có rất nhiều điều kiện thuận lợi phát triển các sản phẩm nông sản nhưng khối lượng và giá trị xuất khẩu chưa tương xứng. Chính vì vậy các nghiên cứu về chuỗi cung ứng nông sản bền vững Việt Nam là rất cần thiết, đóng góp tích cực vào hoàn thiện quá trình từ sản xuất, thu hoạch, chế biến cho đến tiêu thụ, xuất khẩu nông sản. Nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả và tối ưu hóa các chi phí nhằm tăng khả năng cạnh tranh cho các sản phẩm nông sản tại Việt Nam trên thị trường nội địa và quốc tế.
Doanh nghiệp chế biến luôn có vị trí then chốt trong chuỗi cung ứng nông sản bền vững. Thực hiện chức năng hết sức quan trọng đó là sơ chế, tinh chế và tiêu thụ sản phẩm nông sản. Doanh nghiệp chế biến có vai trò quyết định trong việc xây dựng một chuỗi cung ứng nông sản bền vững tại Việt Nam.
Bài viết tiếp cận chuỗi cung ứng nông sản bền vững trên những khía cạnh như trồng trọt bền vững, quản lý chuỗi bền vững, phân phối bền vững, môi trường bền vững và quản lý hiệu quả dòng logistics ngược. Những lý luận về chuỗi cung ứng nông sản bền vững được tổng hợp và phân tích làm rõ những nội dung cơ bản này. Gắn với cấu trúc chuỗi cung ứng nông sản tại Việt Nam bài viết chỉ ra vị trí và vai trò của doanh nghiệp chế biến trong chuỗi cung ứng này. Dự trên các khía cạnh về quy mô, năng lực doanh nghiệp chế biến để phân tích đánh giá thực trạng doanh nghiệp chế biến trong chuỗi cung ứng nông sản bền vững. Trong phần kết luận tác giả chỉ ra một số giải pháp đối với doanh nghiệp chế biến trong việc xây dựng chuỗi cung ứng nông sản bền vững tại Việt Nam.
2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. C sở lý luận
Có thể nói, thị trường kể cả nội tiêu và xuất khẩu đối với các mặt hàng nông sản thiết yếu và có thế mạnh của Việt Nam đang ngày càng rộng mở, khối lượng hàng hóa tiêu thụ cũng như giá trị sản phẩm đang ngày một tăng cao, tạo ra động lực vô cùng lớn lao cho sự phát triển của sản xuất nông nghiệp cũng như cho quá trình công nghiệp hóa đất nước. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển, mở rộng, các thị trường tiêu thụ nông sản cũng đang trở nênngày một khó tính hơn, có yêu cầu ngày càng cao hơn về chất lượng sản phẩm, về an toàn vệ sinh thực phẩm, an toàn đối với người tiêu dùng và môi trường. Đặc biệt trên các thị trường xuất khẩu, nông sản Việt Nam đang phải đối mặt với ngày càng nhiều khó khăn, thách thức như việc phải vượt qua các rào cản kỹ thuật, các rào cản thương mại đã và đang được dựng lên ở những thị trường lớn, các vụ kiện chống bán phá giá,…
Mặc dù khái niệm về chuỗi cung ứng giữa các nhà nghiên cứu khác nhau, có một khía cạnh chung quan trọng đối với tất cả các chuỗi cung ứng, đó là sự tồn tại của một mối liên kết (chuỗi) giữa những người có liên quan đến việc thực hiện yêu cầu của khách hàng. Chopra vàMeindl, (2009) tuyên bố rằng chuỗi cung ứng có hai mục đích đảm bảo thành công cho doanh nghiệp, đó là tạo ra hiệu quả và đáp ứng yêu cầu và khiếu nại của khách hàng. Cigolini, Cozzi và Perona, (2004) cải thiện việc phân loại này bằng cách thêm loại chuỗi cung ứng nạc. Theo Cigolini và cộng sự, (2004), chuỗi cung ứng nạc tập trung nhiều hơn vào việc loại bỏ chất thải trên toàn chuỗi cung ứng và để cải thiện dòng hàng tồn kho. Điều này, đến lượt nó, cải thiện hiệu quả và hiệu quả phân phối vật lý (Christopher, M., 2000). Christopher tiếp tục hiểu rằng, nó đòi hỏi nhiều mối quan hệ hợp tác của các thành viên ở tất cả các cấp của chuỗi cung ứng để đạt được các mục tiêu của chuỗi cung ứng nhằm đạt được hiệu quả, hiệu quả và tinh gọn.
944
Sự quan tâm trong quản lý chuỗi cung ứng đã tăng đáng kể trong cả nghiên cứu học thuật và thực tiễn công nghiệp kể từ khi giảm thiểu tác động bất lợi của các hoạt động của con người và duy trì phát triển xã hội bền vững đã trở thành mối quan tâm chính trên toàn cầu (Beamon, 1999; Prokesch, 2010). Thứ nhất, tính bền vững được định nghĩa là khả năng đáp ứng nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai. Do đó, một chính sách bền vững đã dần được áp dụng và xem xét trong các chiến lược kinh doanh. Liên kết tính bền vững và quản lý chuỗi cung ứng có nghĩa là quản lý vòng đời chuỗi cung ứng hoàn chỉnh, từ thiết kế và tiêu thụ sản phẩm đến hoàn trả và xử lý, với những cân nhắc rõ ràng về các yếu tố phát triển bền vững như các yếu tố kinh tế, môi trường và xã hội (Kolk và Tulder, 2010).
Chuỗi cung ứng bền vững là điều cần thiết cho khả năng cạnh tranh liên quan đến giá cả, chất lượng, độ tin cậy, tính linh hoạt và khả năng đáp ứng (Markley và Davis, 2007). Nó cũng có thể mang lại sự hài lòng cao hơn cho khách hàng, sự đổi mới, hiệu quả, sự tin cậy, tính linh hoạt và bảo tồn môi trường, cũng như mức sống tốt hơn ( geron, Gunasekaran và cộng sự, 2011). Hơn nữa, một số vấn đề quan trọng về sự bền vững và quản lý chuỗi cung ứng bền vững đã được coi là tác động đến các mối quan hệ thượng nguồn của doanh nghiệp và sự hài lòng của khách hàng ở hạ nguồn (Ageron và cộng sự, 2012)
Ngày nay, ngành nông nghiệp phải thâm canh hơn để nuôi sống dân số thế giới đang bùng nổ, nhưng nó cũng cần phải phát triển bền vững. Quản lý chuỗi cung ứng nông nghiệp bền vững có thể được hiểu là quản lý các nguồn lực và rủi ro để tạo ra một mạng lưới chuỗi cung ứng hiệu quả, hiệu quả và hiệu quả hơn để sản xuất các mặt hàng nông nghiệp có giá trị và cạnh tranh hơn từ cùng một diện tích đất trong khi giảm tiêu cực tác động môi trường và tăng đóng góp cho cải thiện môi trường và sự phát triển của các xã hội (Pretty, Toulmin, và Williams, 2011). Hơn nữa, chuỗi cung ứng xuyên biên giới được thừa nhận ngày càng trở nên phổ biến trong nông nghiệp. Nông dân địa phương ở các nước đang phát triển có mối liên hệ với các thương nhân ở các nước phát triển để bán sản phẩm của họ với giá cao hơn, đạt được mạng lưới chuỗi cung ứng xuyên biên giới theo chiều dọc (Jaffee và Siegel, 2008). Chuỗi cung ứng xuyên biên giới không chỉ tạo ra lợi nhuận cho các cá nhân hoặc các công ty riêng biệt mà còn có thể kích thích sự phát triển của nông nghiệp địa phương, thúc đẩy nền kinh tế, giảm tỷ lệ thất nghiệp, phát triển sự bền vững của xã hội và môi. Chuỗi cung ứng nông sản bền vững được xây dựng dựa trên việc trồng trọt bền vững, quản lý chuỗi hiệu quả, phân phối bền vững, quản lý môi trường và kiểm soát dòng logistics ngược trong chuỗi cung ứng, cụ thể:
Nuôi tr ng bền vững. Điều này liên quan đến việc thay thế thuốc trừ sâu hóa học và phân bón với phân bón sinh học để kiểm soát cỏ dại và sâu bệnh. Việc quản lý các quy trình xử lý chất thải, kiểm soát nguồn và lượng nước tiêu thụ cho tưới tiêu và sử dụng các hệ thống tiết kiệm năng lượng cũng có thể thu hút nhiều sự chú ý.
Vận hành chuỗi cung ứng hiệu quả: Điều này chú ý đến sự đổi mới của chuỗi cung ứng và quản lý logistics để giảm tiêu thụ năng lượng và kiểm soát mức độ ô nhiễm từ quá trình vận chuyển và sản xuất, đặc biệt đối với những sản phẩm nông nghiệp cần giao hàng kịp thời và lạnh. Sự hỗ trợ của các hệ thống thông tin cũng chứng tỏ là rất quan trọng đối với khía cạnh này.
Phân phối bền vững: Điều này tập trung vào chính sách phân phối của các công ty đối với các sản phẩm cao cấp; phân biệt sản phẩm về nhãn mác, chiến lược quảng bá, v.v.; người tiêu dùng thái độ và nhận thức về các sản phẩm bền vững; và sự phát triển chiến lược của vòng đời sản phẩm.
Quản lý môi trường: Điều này tập trung sự chú ý lớn vào đa dạng sinh học; đất phẩm chất; tài nguyên thiên nhiên; khí hậu thay đổi; chất lượng không khí và nước; và khí thải giảm hoạt động sản xuất và logistics.
945
Dòng logistics ngược: Điều này liên quan đến việc tái chế container, vật liệu đóng gói và sử
dụng vật liệu thân thiện với môi trường.
Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR): Điều này liên quan đến sự hài hòa của việc sử dụng tự nhiên và nguồn nhân lực địa phương để giải quyết bất bình đẳng, mức sống kém và trình độ học vấn thấp ở khu vực nông thôn.
Việc hình thành nên các chuỗi cung ứng nông sản bền vững nhất thiết tạo ra được chuỗi liên kết chặt chẽ từ sản xuất đến chế biến và tiêu thụ sản phẩm là một trong những nhiệm vụ trọng tâm và thiết thực thực hiện. Trong mục tiêu chiến lược quy hoạch phát triển ngành nông nghiệp của Việt Nam đã chỉ ra những một số vấn đề cơ bản sau giúp phát triển ngành nông sản của Việt Nam phát triển, định hướng phát triển bền vững, lau dài như sau:
Trước hết, tham gia vào chuỗi liên kết ổn định, chặt chẽ, nhất là giữa các khâu sản xuất nguyên liệu và chế biến nông sản, các mặt hàng nông sản sẽ tăng giá trị gia tăng do tăng được khả năng đầu tư khoa học công nghệ trong cả khâu sản xuất lẫn khâu chế biến. Các doanh nghiệp chế biến nông sản sẽ ổn định được sản xuất do ổn định được nguồn cung cấp nguyên liệu, do có được nguồn nguyên liệu có chất lượng cao và do đó thị trường tiêu thụ sản phẩm cũng sẽ ngày càng ổn định hơn, uy tín, chất lượng nông sản vì vậy cũng được cải thiện và nâng cao.
Thứ hai, từ việc hình thành các chuỗi liên kết trong sản xuất, các nguồn lực tiềm năng sẽ được phát hiện và phát huy hiệu quả tạo ra nguồn sức mạnh vật chất cho sản xuất nông nghiệp. Nhờ vào các mối liên kết ổn định và chặt chẽ, người nông dân sẽ hoạch định được kế hoạch sản xuất của mình một cách lâu dài và có nhiều cơ hội trong việc hợp tác với nhau tạo ra các nguồn nông sản có sản lượng lớn, mang tính hàng hóa cao. Đồng thời, chất lượng nông sản sẽ được nâng cao do được thu hoạch đúng thời điểm, thời gian tàng trữ sau thu hoạch ngắn,… làm tăng lợi ích cho cả xã hội và người sản xuất. Các doanh nghiệp chế biến nông sản cũng nhờ đó mà có điều kiện để được thực hiện đúng các quy trình kỹ thuật cần thiết, nâng cao chất lượng sản phẩm.
Thứ ba, khi tham gia vào chuỗi liên kết, lợi ích của các bên liên quan trong chuỗi sẽ được ổn định và hài hòa hơn, đồng thời hạn chế được những rủi ro vốn luôn tiềm ẩn trong các quá trình sản xuất nông nghiệp. Tham gia vào chuỗi liên kết, một mặt, người nông dân do có đầu ra của sản phẩm ổn định nên có thể yên tâm sản xuất, không còn lo lắng về giá cả lên xuống, bấp bênh; doanh nghiệp chế biến do có đủ nguyên liệu, ổn định được sản xuất và thị trường tiêu thụ sản phẩm nên có nhiều cơ hội để đầu tư mở rộng sản xuất và cải thiện chất lượng, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm do mình tạo ra.
Thứ tư, phát triển nông nghiệp bền vững theo hướng sản xuất hữu cơ. Tập trung vào sản xuất sản phẩm sạch, sản phẩm an toàn theo hướng bền vững. Từ việc trồng trọt chăn nuôi hạn chế sử dụng chất hóa học, thực phẩm không đảm bảo. Đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe của các thị trường xuất khẩu khó tính và phù hợp với phát triển nông nghiệp hiện đại. Mặt khác, nhà nước đảm bảo thực hiện được mục tiêu đảm bảo lợi nhuận 30% trở lên đối vơi người nông dân, hạn chế được tình trạng “được mùa rớt giá”. Thậm chí thương lái, người thu mua nông sản khi tham gia vào chuỗi liên kết, cung ứng sản phẩm nếu tuân thủ những quy định chung cũng sẽ được đảm bảo lợi ích một cách hài hòa với các thành phần khác.
2.2. Ph ng pháp nghiên cứu
Về cơ sở lý luận tổng hợp các nghiên cứu về chuỗi cung ứung nông sản bền vững, nội dung của chuỗi cung ứng nông sản bền vững, từ sản xuất bền vững cho đến tiêu thụ và logistics ngược một cách bền vững. Dựa trên lý luận gắn với doanh nghiệp chế biến, thành viên quan trọng trong chuỗi cung ứng nông sản bền vững.
946
Nghiên cứu thực trạng hoạt động sản xuất chế biến của các doanh nghiệp chế biến nông sản Việt Nam dựa trên khía cạnh năng lực chế biến, quy mô và thị trường chế biến xuất khẩu. Dựa trên thực trạng đánh giá vai trò của doanh nghiệp chế biến trong chuỗi cung ứng nông sản bền vững.
Các dữ liệu trong bài viết chủ yếu sử dụng dữ liệu thứ cấp, các nghiên cứu về doanh nghiệp chế biến. Dựa vào đó tác giả tổng hợp và phân tích theo mục tiêu, định hướng của bài viết gắn với chuỗi cung ứng nông sản bền vững. Các phương pháp diễn giải, thống kê, bảng biểu được sử dụng để phân tích, so sánh và đánh giá thực trạng doanh nghiệp chế biến nông sản và trên cơ sở đó đề xuất giải pháp cho doanh nghiệp chế biến trong chuỗi cung ứng nông sản bền vững.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG
3.1. Vai trò của doanh nghiệp ch bi n trong chuỗi cung ứng nông sản bền vững
Doanh nghiệp chế biến có vị trí và vai trò rất quan trọng trong chuỗi cung ứng nông sản bền vững Việt Nam hiện nay, là cầu nối giữa sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông sản. Doanh nghiệp chế biến tạo tác động tới nguồn cung, kiểm soát nguồn cung có chất lượng hàng hóa tốt và chi phối thị trường tạo nên giá trị gia tăng cho các sản phẩm nông sản. Hình 1 dưới đây cho ta thấy vị trí doanh nghiệp chế biến trong cấu trúc chuỗi cung ứng nông sản.
Nhà sản xuất
Người tiêu dùng
Nhà phân phối
Nhà cung cấp đầu vào
Nhà chế biến (sơ chế và tinh chế)
Hình 1: Vị trí doanh nghiệp ch bi n trong chuỗi cung ứng nông sản
Ngu n: Võ Thị Thanh Lộc (2013)
Có thể thấy doanh nghiệp chế biến nông sản thực hiện khâu sơ chế, đây là khâu quan trọng tác động tới chất lượng sản phẩm đưa ra thị trường. Các sản phẩm nông sản được thu gom và xử lý như thế nào đảm bảo quá trình vận hành được tốt nhất. Doanh nghiệp chế biến thực hiện nhiệm vụ này. Khâu tiếp theo doanh nghiệp chế biến đảm nhiệm đó là tinh chế, hay nói cách khác là việc tạo ra sản phẩm chất lượng cao, sẵn sàng đưa vào tiêu dùng. Đây là nút thắt đầu ra của chuỗi cung ứng nông sản. Doanh nghiệp chế biến làm tốt vị trí của mình cũng là tạo ra một chuỗi cung ứng nông sản có thể canh tranh cao.
Doanh nghiệp chế biến nông sản thúc đẩy phát triển hàng hóa nông sản. Doanh nghiệp sử dụng nông sản làm nguyên liệu sản xuất chế biến nên nó giúp tiêu thụ nông sản tạo ra. Làm ra tăng giá trị, đa dạng hóa giá trị sử dụng, mở rộng khả năng tiêu thụ, tăng sức canh trạnh của nông sản trên thị trường.
- Doanh nghiệp chế biến thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Xu hướng ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất, chế biến nông sản là tất yếu. Việc ững dụng công nghệ này sẽ giúp cho việc sản xuất chế biến nâng cao được chất lượng, sản lượng chế biến và đặc biệt nâng cao được khả năng cạnh tranh đối với các sản phẩm nông sản của Việt Nam trên thị trường xuất khẩu. Đây là điều cơ bản tạo nên chuỗi cung ứng nông sản bền vững, lâu dài.
- Phát triển doanh nghiệp chế biến góp phần giải quyết vấn đề lao động- việc làm, sự phát triển doanh nghiệp chế biến không những tạo thêm việc làm mà còn cải thiện điều kiện lao động, nâng cao trình độ người lao động. Phát triển doanh nghiệp chế biến gắn với phát triển các vùng tập trung chuyên canh sản xuất nông sản nguyên liệu sẽ thúc đẩy việc cải tạo, xây dựng kết cấu hạ tầng
947
kinh tế, văn hóa, xã hội ở nông thôn, góp phần nâng cao dân trí, cải thiện đời sống văn hóa, tinh thần cho nhân dân lao động ở nông thôn.
- Doanh nghiệp chế biến góp phần quan trọng làm tăng kim ngạch xuất khẩu, tạo nguồn tích lũy. Phát triển sản xuất, tăng kim ngạch xuất khẩu, tạo nguồn tích lũy từ nội bộ là phát huy nội lực trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đó là một trong những quan điểm lớn nhất của Đảng ta trong công cuộc xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Doanh nghiệp chế biến là thành viên kết nối quan trọng trong chuỗi cung ứng nông sản, thực tế cho thấy nhiều chuỗi cung ứng nông sản của Việt Nam và trên thế giới doanh nghiệp chế biến luôn là thành phần chủ chốt. Thậm chí doanh nghiệp chế biết thực hiện luôn cả các chức năng của thành viên khác trong chuỗi cung ứng như là trồng trọt, thu gom cho đến thương mại và xuất khẩu hàng hóa.
- Doanh nghiệp chế biến bằng công nghệ sản xuất chế biến tạo ra sản phẩm nông sản có những tính chất, đặc điểm và chất lượng đáp ứng nhu cầu sản phẩm. Vì vậy họ cần nắm bắt được cà nguồn cung đầu vào và cả thị trường đầu ra. Vì vậy doanh nghiệp chế biến có vị trí đặc biệt trong chuỗi cung ứng nông sản.
3.2. Thực trạng năng lực quy mô doanh nghiệp ch bi n nông sản Việt Nam
Trong số hơn 700 nghìn doanh nghiệp đang hoạt hoạt động trên cả nước, thì doanh nghiệp chế biến nông sản riêng cho 12 mặt hàng chủ yếu (bảng 1) cả nước có khoảng gần 7000 doanh nghiệp và hàng ngàn hộ gia đình hoạt động trong lĩnh vực chiến biến nông sản. Trong đố số lượng doanh nghiệp chế biến gỗ chiếm tỷ trong nhiều nhất trong cả nước tới 54,52%, tiếp đó là doanh nghiệp chế biến thủy sản và chế biến gạo lần lượt là 13,07% và 8,8%. Đa phần số các doanh nghiệp chế biến nông sản tập chung ở khu vực phía nam. Số lượng các tỉnh thành phố phía bắc có trên 100 doanh nghiệp chế biến nông sản có 2 địa phương là Hà Nội (289 doanh nghiệp) và Bắc Ninh (102 doanh nghiệp).
Bảng 1. Số l ợng doanh nghiệp ch bi n nông sản phân theo ngành hàng 2018
Số lƣợng doanh nghiệp
TT
Ngành hàng chế biến nông sản
Tổng số
tỷ lệ (%)
1
L a g o
582
8,80
2
Cà phê
239
3,62
3
Cao su
147
2,22
4
Chè
257
3,89
5
Điều
328
4,96
6
Đường m a
38
0,57
7
Rau quả
145
2,19
8
Hồ tiêu
17
0,26
9
Thức n ch n nuôi
338
5,11
10
Ch i n Th t
51
0,77
11
Ch i n thủy sản
864
13,07
12
Ch i n g
3.604
54,52
Tổng số
6.610
100
Ngu n: Viện quy hoạch và thiết kế nông nghiệp
948
Trong các doanh nghiệp chế biến nông sản thì chủ yếu là doanh nghiệp dân doanh chiếm 85% tổng số doanh nghiệp chế biến cả nước. Số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp nhà nước chiến tỷ lệ khá thấp. Các doanh nghiệp trong ngành cao su có tỷ lệ doanh nghiệp nhà nước chiếm cao nhất 21,77% tổng số doanh nghiệp chế biến cao su. Một số mặt hàng khác như cà phê và chè có tỷ lệ 10,88 % doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang có xu hướng đầu tư mạnh vào ngành chế biến rau quả. Vì vậy các doanh nghiệp FDI chiếm tỷ lệ khá cao trong ngành này. Một số ngành như cà phê, chè, mía đường và chiến biến gỗ doanh nghiệp FDI chiếm từ 10% đến 13%. Nhìn chung các doanh nghiệp chế biến hình thức sở hữu ngoài nhà nước chiếm tỷ lệ cao trong các lĩnh vực chế biến nông sản nói chung. Đây là xu hướng phát triển tất yếu của ngành này. Chi tiết bảng 2 cho số liệu cụ thể về loại hình sở hữu các doanh nghiệp chế biến nông sản Việt Nam.
Bảng 2. Doanh nghiệp ch bi n nông sản theo h nh thức sở hữu (2018)
Ngu n: Viện quy hoạch và thiết kế nông nghiệp
Hình thức sở hữu Nhà nƣớc FDI Dân doanh TT Ngành chế biến nông sản Số doanh nghiệp chế biến Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Số lƣợng Số lƣợng Số lƣợng Tỷ lệ (%) 1 L a g o 582 21 3,61 14 2.41 547 93,99 2 Cà phê 239 26 10,88 24 10,04 189 79,08 3 Cao su 147 32 21,77 4 2,72 111 75,51 4 Chè 257 27 10,51 30 11,67 200 77,82 5 Điều 328 5 1,52 4 1.,2 319 97,26 6 Đường m a 38 1 2,63 5 13,16 32 84,21 7 Rau quả 145 6 4,14 38 26,21 101 69,66 8 Hồ tiêu 17 0 0,00 4 23,53 13 76,47 9 338 14 4,14 66 19,53 258 76,33 Thức n ch n nuôi 10 Ch i n Th t 51 3 5,88 2 3,92 46 90,20 11 Ch i n thủy sản 864 32 3,70 36 4,17 796 92,13 12 Ch i n g 3.604 105 2,91 475 13,18 3024 83,91 Tổng số 6.610 272 4,1 702 10,6 5636 85,3
Đa phần các doanh nghiệp chế biến nông sản hiện nay ở quy mô nhỏ, thiếu thiết bị máy móc, công suất thấp và sử dụng ít lao động. Trung bình số lao động cho một doanh nghiệp chế biến nông sản chỉ hơn 150 người. Doanh nghiệp chế biến trong những ngành chủ lực của Việt Nam có vài trò rất quan trọng trong việc tổ chức liên kết các tác nhân trong chuỗi cung ứng. Hơn nữa với mô hình chuỗi liên kết nhà nước sẽ có địa chỉ cụ thể cho sản xuất của chuỗi thông qua hệ thống chính sách và tổ chức hỗ trợ, người nông dân ý thức được hơn về vị thế của mình, có điều tiện tiếp cận những công nghệ sản xuất chế biến hiện đại và đáp ứng nhu cầu thị trường. Thương lái hay người thu gom nông sản sẽ có cơ hội được tổ chức lại đóng góp và phần giá trị gia tăng cho nông sản.
Tuy nhiên, năng lực, quy mô nhỏ của doanh nghiệp chế biến đang là một trong những rào cản để các doanh nghiệp chế biến là tốt vị trí của mình trong chuỗi cung ứng nông sản bền vững. Bảng 3 cho thấy các doanh nghiệp trong ngành đề chỉ sử dụng khoảng 130 -160 lao động mỗi năm. Các doanh nghiệp chế biến thủy sản sử dụng khoảng 280 lao động/doanh nghiệp. Các
949
doanh nghiệp trong lĩnh vực chè, điều và thủy sản tạo ra khối lượng thấp nhất, dưới 10 tấn sản phẩm/năm.
Bảng 3. Tổng công suất thi t k và số l ợng lao động trong các doanh nghiệp ch bi n nông sản (2018)
Công su t thiết kế ao ộng Sản phẩm
TT Ngành chế biến nông sản Đơn vị Công su t Khối lƣợng (tấn sp/năm) Số lƣợng (người) Bình quân (người/ số doanh nghiệp) SP theo lao ộng (tấn/SP/LĐ/năm) 1 Lúa g o tấn a n m 17.270.000 35.896 8.100.000 201,0 62 2 Cà phê tấn n m 1.469.948 26.780 112 1.245.870 46,5 3 Cao su tấn n m 1.175.370 72.839 496 913.866 12,6
Ngu n: Viện quy hoạch và thiết kế nông nghiệp
4 Chè 5.204 20.764 81 170.000 9,6 tấn p tươi ng y 5 Điều tấn n m 278.594 54.842 167 236.564 4,3 6 Đường m a tấn mía/ngày 129.900 17.631 464 1.295.878 73,5 7 Rau quả tấn n m 826.630 18.598 128 464.157 25,0 8 Hồ tiêu tấn n m 116.300 2.279 134 65.595 28,8 153 9 Thức n ch n nuôi tấn n m 18.908.780 51.749 13.814.078 267,5 10 Ch i n Th t tấn n m 195.661 8.432 165 147.974 17,6 11 Ch i n thủy sản tấn n m 2.882.115 241.417 279 1.834.375 7,6 12 Ch i n g m3 g n m 25.452.386 469.675 130 18.995.931 40,4 Tổng cộng 1.020.875 154
Về giá trị các doanh nghiệp nông sản cả nước đạt gần 800 nghìn tỷ đồng. Có bốn ngành hàng có giá trị đạt trên 100 ngàn tỷ đồng bao gồm thủy sản (147.241 tỷ đồng), chế biến gỗ (141.521 tỷ đồng), chế biến lúa gạo (114.783 tỷ đồng) và chế biến thức ăn chăn nuôi (135.024 tỷ đồng). Tổng giá trị bốn mặt hàng này là 538.570 tỷ đồng chiếm 68% tổng giá trị chế biến của cả 12 ngành hàng chế biến nông sản (bảng 4). Vấn đề này cho thấy các doanh nghiệp chế biến của nước ta chủ yếu tập chung vào bốn ngành này mà chưa thực sự tập chung đầu tư và những sản phẩm nông sản có nhiều tiềm năng khác. Hay các doanh nghiệp đang chỉ tập trung vào năng lực khả năng hiện tại của doanh nghiệp mà chưa quan tâm tới các sản phẩm định hướng nhu cầu thị trường hiện nay. Chỉ tập trung vào sản xuất cái doanh nghiệp có mà chưa sản xuất cái thị trường đang có nhiều tiềm năng và xu thế trong khu vực.
Các doanh nghiệp chế biến nông sản nhìn chung vẫn hướng đến hoạt động xuất khẩu. Tỷ lệ xuất khẩu khá cao trên 60% tổng giá trị chế biến trong cả nước phục vụ thị trường xuất khẩu. Mỗi ngành đề sử dụng trên 80% giá trị chế biến của mình cho hoạt động xuất khẩu. Ngoài ra một số ngành chủ yếu phục vụ thị trường trong nước như chế biến mía đường, hay chế biến thức ăn chăn nuôi sử dụng gần như toàn bộ giá trị sản xuất cho thị trường nội địa. Điều nay cho thấy sự mất cân đối trong tiêu thu sản phẩm chế biến của các doanh nghiệp chế biến nông sản trong thời điểm hiện nay. Các doanh nghiệp chỉ quan tâm tới thị trường xuất khẩu bỏ quên thị trường nội địa và ngược lại. Điều này có thể sẽ tạo ra rủi ro với doanh nghiệp khi sự biến động của thị trường trong nước hoặc nước ngoài các doanh nghiệp sẽ khó thích ứng được bởi sự mất cân đối trong thị trường tiêu thụ này.
950
Bảng 4. Giá trị ch bi n và tiêu thu sản phẩm của các doanh nghiệp ch bi n nông sản năm 2018
Giá trị chế biến (tỷ ồng) Giá trị ti u thụ sản phẩm
Xu t khẩu Nội ịa TT Ngành hàng Tống số Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Giá trị (1.000.000 USD) Giá trị (tỷ đồng)
1 Cả nƣớc 791.841 100 239.430 62,6 300.469 37,4
2 14,50 100.405 L a g o 114.783 3.672 39.490 33,9
3 11,19 60.765 Cà phê 88.579 3.672 13.286 14,7
4 8,48 46.471 Cao su 67.155 2.859 8.528 12,4
5 0,99 5.460 Chè 7.800 198 3.196 43,5
6 3,95 25.719 Điều 31.288 1.427 2.007 6,5
2,45 15.863 7 a đường 19.422 4.873 19.322 99,5
8 3,15 14.249 Rau quả 24.912 827 7.958 31,4
9 1,16 6.698 Hồ tiêu 9.175 387 1.237 13,2
17,05 51.309 10 Thức n ch n nuôi 135.024 72 133.548 98,9
0,62 2.862 11 Th t 4.935 62 3.608 73,2
18,59 130.161 12 Thủy sản 147.241 14,9 6.088 22.426
Ngu n: Viện quy hoạch và thiết kế nông nghiệp
17,87 13 G 141.521 31,8 4.670 68,2 45.786