
89
CHIẾN ƢỢC XUẤT KHẨU THÂN THIỆN M I TRƢỜNG
CỦA DOANH NGHIỆP THỔ NHĨ KỲ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
CHO DOANH NGHIỆP NÔNG SẢN VIỆT NAM TRONG XUẤT KHẨU
RAU QUẢ VÀO THỊ TRƢỜNG EU
ThS. Phùng Mạnh Hùng
TS. Đỗ Thị Bình
Trường Đại học Thương mại
TÓM TẮT
Nghiên cứu này đề cập tới một số lý thuyết có liên quan tới kinh doanh thân thiện môi trường,
sử dụng phương pháp nghiên cứu dữ liệu định tính và thứ cấp, cụ thể là các báo cáo kinh doanh của
doanh nghiệp Thổ Nhĩ Kỳ với quy mô mẫu là 22 doanh nghiệp. Từ các báo cáo này, tác giả phân
tích các hành động thân thiện môi trường tại doanh nghiệp và nhóm chúng vào các chiến lược chức
năng thân thiện môi trường gồm: chiến lược marketing xuất khẩu thân thiện môi trường, chiến lược
nghiên cứu và phát triển sản phẩm xuất khẩu thân thiện môi trường, chiến lược sản xuất xuất khẩu
thân thiện môi trường, chiến lược thu mua xuất khẩu thân thiện môi trường, chiến lược nguồn nhân
lực thân thiện môi trường, chiến lược tài chính thân thiện môi trường. Từng hành động sẽ được đo
lường tần suất xuất hiện tại các doanh nghiệp. Trên cơ sở các hành động chiến lược thân thiện môi
trường tại một số doanh nghiệp Thỗ Nhĩ Kỳ, tác giả đề xuất giải pháp gồm một số hành động thân
thiện môi trường đối với doanh nghiệp nông sản Việt Nam chuyên xuất khẩu rau quả vào thị trường
EU- một thị trường xem trọng bảo vệ môi trường.
Từ khóa: kinh doanh thân thiện môi trường, xuất khẩu, chiến lược, doanh nghiệp nông sản,
rau quả, thị trường EU
ABSTRACT
The research mentions theories related to eco-friendly business practices and using qualitative
research method with secondary data which includes business reports of 22 Turkey coporations.
Environmental practices will be analyzed and grouped into environmentally friendly functional
strategies such as: eco-friendly export marketing strategy, eco-friendly export research and
development strategy,eco-friendly export production strategy, eco-friendly export purchasing
strategy, eco-friendly human resource strategy, and eco-friendly financial strategy. Each strategic
action will be measured the frequency of occurrence in Turkey businesses. On the basis of eco-
friendly strategies in some Turkish businesses proposing solutions for Vietnamese agro enterprises
specializing in exporting vegetables and fruits into EU market which attaches great importance to
environmental protection.
Keywords:eco-friendly business, export, strategy, agro coporation, vegetables, fruit, EU market
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Các mối lo ngại về môi trường và sinh thái đang trở thành chủ đề thảo luận quan trọng tại các
hội nghị quốc tế trong những thập kỷ gần đây xuất phát từ thực trạng tăng cường các hoạt động
công nghiệp hóa ở nhiều quốc gia, từ đó gây ra những tác động nghiêm trọng tới môi trường và đe

90
dọa cuộc sống của con người, những tác động đó là: ô nhiễm không khí và nguồn nước, tình trạng
nóng lên toàn cầu, lũ lụt và xói mòn đất, thời tiết cực đoan và biến đổi khí hậu… (Leonidou và
Leonidou, 2011). Những ảnh hưởng này đã gây ra sức ép rất lớn lên các doanh nghiệp, buộc họ phải
chịu sự giám sát chặt chẽ từ phía: chính phủ các quốc gia, hiệp hội, người lao động, khách hàng…
(Baker và Sinkula, 2005; Gadenne, Kennedy, và McKeiver, 2009). Môi trường đang ngày càng
đóng vai trò quyết định và buộc doanh nghiệp cần phải để ý tới nó khi cân nhắc các hoạt động sản
xuất/ kinh doanh.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, ngày càng xuất hiện nhiều doanh nghiệp
kinh doanh quốc tế với phương thức xâm nhập phổ biến là xuất khẩu. Đây là phương thức phổ biến
bởi những lợi ích như: giảm thiểu rủi ro, các yêu cầu về nguồn lực không nhiều, tính linh hoạt chiến
lược cao (Hultman, Robson, và Katsikeas, 2009). Tuy nhiên, doanh nghiệp xuất khẩu cũng gặp phải
nhiều rào cản môi trường từ phía thị trường quốc tế, đặc biệt là ở những thị trường các nước phát
triển với trình độ dân trí và thu nhập cao, yêu cầu doanh nghiệp phải đáp ứng các tiêu chí không gây
tổn hại môi trường trong quá trình sản xuất, đảm bảo thương mại công bằng và phát triển bền
vững… Về phía các doanh nghiệp xuất khẩu cũng đang chuyển mình với những điều chỉnh trong
chiến lược kinh doanh nhằm hướng tới mục tiêu khai thác cơ hội từ nhu cầu bảo vệ môi trường của
khách hàng (Aragon-Correa và Sharma, 2003; Banerjee, 2001; Buysse và Verbeke, 2003).
Chủ đề nghiên cứu về chiến lược kinh doanh thân thiện môi trường đang trở thành một chủ đề
hấp dẫn, thu hút nhiều học giả thực hiện và công bố các kết quả nghiên cứu của mình trên nhiều tạp
chí uy tín, tuy nhiên phần lớn các nghiên cứu này có cách tiếp cận về chiến lược kinh doanh thân
thiện môi trường trên thị trường nội địa mà chưa có nhiều nghiên cứu về chiến lược kinh doanh thân
thiện môi trường với định hướng thị trường quốc tế. Không chỉ có chính quyền và khách hàng trong
nước mới quan tâm và đòi hỏi doanh nghiệp đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường mà chính quyền
nước ngoài cũng đang ngày càng gia tăng các quy định pháp luật hướng tới bảo vệ môi trường tự
nhiên (Rugman và Verbeke, 1998), khách hàng nước ngoài cũng đang ngày càng ý thức được các
vấn đề sinh thái và nhạy cảm với môi trường (Miles và Covin, 2000), xem đó như là những giá trị
trong chiến lược khác biệt hóa mà doanh nghiệp nên theo đuổi trong bối cảnh môi trường kinh
doanh có tính cạnh tranh và năng động cao (Bellesi, Lehrer, và Tal, 2005).
Các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu nông sản của Việt Nam không nằm ngoài xu hướng
này. Với điều kiện tự nhiên và thổ nhưỡng thuận lợi đã hỗ trợ cho người nông dân và các doanh
nghiệp chế biến nông sản Việt Nam sản xuất và xuất khẩu nông sản đi nhiều nước trên thế giới,
Việt Nam được đánh giá là có lợi thế cạnh tranh xuất khẩu nông sản và còn nhiều dư địa tăng
trưởng, kim ngạch xuất khẩu nông sản năm 2019 đạt khoảng 17 tỷ USD. Trong số các mặt hàng
nông sản xuất khẩu hàng đầu thì rau quả hiện tại có giá trị xuất khẩu lớn nhất với kim ngạch xuất
khẩu đạt 3,75 tỷ USD và được xem là mặt hàng xuất khẩu chủ lực trong thời gian tới. Bốn quốc gia
và vùng lãnh thổ mà Việt Nam xuất khẩu rau quả nhiều nhất xếp theo thứ tự giảm dần là: Trung
Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản và Liên minh châu u (EU). Trong đó đáng chú ý là thị trường EU được
dự báo sẽ có tốc độ tăng trưởng cao và vượt qua các thị trường còn lại về kim ngạch xuất khẩu. Tuy
nhiên, điểm đáng chú ý của thị trường EU chính là các rào cản kỹ thuật thương mại (TBT), rào cản
kiểm dịch động/thực vật (PSP), đặc biệt là rào cản về trách nhiệm xã hội và phát triển bền vững.
Trong đó, các yêu cầu về thực hiện hoạt động kinh doanh một cách có trách nhiệm, tuân thủ luật lao
động, bảo vệ môi trường tự nhiên của một bộ phận khách hàng tại khu vực Tây và Bắc u đang nổi
lên và không ngừng tăng trưởng chính là một rào cản quan trọng buộc các doanh nghiệp xuất khẩu

91
rau quả Việt Nam cần xem xét lại chiến lược kinh doanh theo hướng thân thiện với môi trường để
đáp ứng yêu cầu của thị trường này. Xuất phát từ những luận cứ trên, tác giả nghiên cứu chiến lược
kinh doanh xuất khẩu định hướng thân thiện môi trường của các doanh nghiệp xuất khẩu Thổ Nhĩ
Kỳ, tổng kết thành bài học kinh nghiệm và đề xuất giải pháp đối với các doanh nghiệp xuất khẩu
rau quả Việt Nam nhằm tăng cường khả năng xuất khẩu vào thị trường các quốc gia thuộc Liên
minh châu Âu (EU).
2. MỘT SỐ CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Các nghiên cứu có liên quan cho rằng, kinh doanh thân thiện môi trường là một lĩnh vực
nghiên cứu vượt ra ngoài các nguyên tắc thông thường, bởi vì nó là một quá trình thống nhất hoàn
toàn với kế hoạch chiến lược của doanh nghiệp, trong đó bao gồm các hoạt động: giảm chất thải,
ngăn chặn ô nhiễm, quản lý sản phẩm và thực thi trách nhiệm xã hội để đạt được lợi thế cạnh tranh
trong nỗ lực học hỏi và phát triển không ngừng (Hart, 2005). Có nhiều quan điểm khác nhau từ phía
các học giả khi định nghĩa về kinh doanh thân thiện môi trường, nhưng tựu chung lại đó là các
chính sách, các thủ tục và các hành động vì môi trường có thể được triển khai thông qua phát triển
các chiến lược quản trị môi trường nhằm nắm bắt các cơ hội kinh doanh như: giảm chi phí (chi phí
năng lượng, nguyên liệu, lao động), tăng doanh thu và lợi nhuận (thông qua khác biệt hóa sản
phẩm) và cải thiện mối quan hệ với các bên liên quan (Ambec và Lanoie, 2008; Banerjee, 2001;
Menon, Menon, Chowdhury, và Jankovich, 1999; Lee và Ball, 2003).
Trách nhiệm xã hội (CSR) và kinh doanh thân thiện môi trường đều có mối quan tâm chung là
các vấn đề môi trường. Do vậy, các nghiên cứu thực hiện trong hai lĩnh vực này bắt đầu có điểm
chung (Montiel, 2008). Một số học giả cho rằng kinh doanh thân thiện môi trường là một phần quan
trọng của trách nhiệm xã hội (CSR) vì mục tiêu cuối cùng hướng đến là mang lại lợi ích cho cộng
đồng (Babiak và Trendafilova, 2011). Ủy ban châu u định nghĩa CSR là một khái niệm kết hợp
giữa các mối quan tâm về xã hội với các mối quan tâm về môi trường trong các chức năng chiến
lược và tự nguyện tương tác với các bên liên quan (Ủy ban châu Âu, 2002).
Thêm vào đó, vấn đề kinh doanh thân thiện môi trường đã trở nên sáng tỏ ở nhiều khía cạnh
vào những năm 1990 và các nghiên cứu bắt đầu nở rộ từ những năm 2000. Những nghiên cứu đầu
tiên về kinh doanh thân thiện môi trường bắt nguồn từ những năm 1960 với sự ra đời của khái niệm
marketing xã hội (Kotler và Levy, 1969). Khi chủ đề nghiên cứu này bắt đầu gây được chú ý và thu
hút sự quan tâm của nhiều học giả, những khám phá mới trong nghiên cứu bắt đầu xuất hiện như:
marketing vì mục đích cao đẹp (Varadarajan và Menon, 1988), marketing môi trường (Drumwright,
1994), trách nhiệm xã hội (Brown và Dacin, 1997), chủ nghĩa môi trường bên trong doanh nghiệp
(Banerjee, Iyer, và Kashyap, 2003), sự bền vững dựa trên định hướng thị trường (Crittenden,
Crittenden, Ferrell, và Pinney, 2011).
Sự gia tăng các nghiên cứu về chủ đề này cũng xuất phát từ chính sự cải thiện trong mối quan
hệ giữa doanh nghiệp với các nhà hoạch định chính sách, các nhóm liên quan và khách hàng
(Banerjee, 2002; Menon & Menon, 1997). Sự gia tăng sức ép từ các bên liên quan như qua thể chế
luật pháp và sự lo ngại của cộng đồng là động cơ nhen nhóm cho sự nổi lên của những nét mới
trong nghiên cứu, tập trung vào những ảnh hưởng tới môi trường bắt nguồn từ hoạt động của doanh
nghiệp (Passarini, Pereira, de Brito Farias, Calarge và Satana, 2014). Những dẫn chứng có thể được
tìm thấy trong cách mạng công nghiệp bắt đầu từ những năm 1700 và chính nó đóng vai trò chính
cho sự gia tăng hàng hóa, rác thải và ô nhiễm môi trường, sự chuyển đổi sang nền kinh tế chủ nghĩa

92
tư bản (Hobsbawm, 1975), phong trào bảo tồn và tăng cường nhận thức sinh thái những năm 1850
(Buchholz, 1991), phong trào chủ nghĩa tiêu dùng những năm 1970 (Peattie, 1995), những quy định
chặt hơn của các chính phủ đối với vấn đề môi trường những năm 1980 (Menon và Menon, 1997).
Kinh doanh thân thiện môi trường cũng nhận được nhiều chú ý từ các học giả nghiên cứu
marketing và quản trị, sự phát triển của lĩnh vực nghiên cứu phân mảnh này là sự kết hợp của nhiều
học thuyết khác nhau (quan điểm dựa trên nguồn lực, lý thuyết năng lực động, thuyết các bên liên
quan, thuyết thể chế). Eric G. Olson (2008) cho rằng chiến lược thân thiện môi trường hay chiến
lược xanh là một chiến lược bổ sung vào trong các chiến lược kinh doanh và chiến lược chức năng,
chiến lược thân thiện môi trường là nền tảng để doanh nghiệp đưa ra các quyết dịnh ảnh hưởng tích
cực tới môi trường. Quan điểm dựa trên nguồn lực kết nối tới đánh giá chiến lược kinh doanh thân
thiện môi trường bằng cách tập trung vào các đánh giá bên trong doanh nghiệp (Shrivastava, 1995).
Theo quan điểm dựa trên nguồn lực cổ điển, các nguồn lực độc đáo là có giá trị và khó bắt chước có
thể giúp doanh nghiệp đạt được lợi thế cạnh tranh trong dài hạn (Conner, 1991). Penrose (1959)
xem doanh nghiệp là một tập hợp các nguồn lực và chú trọng tới vai trò của nguồn lực trong việc
đạt hiệu suất vượt trội. Tuy nhiên, Hart (1995) đã mở rộng thuyết này bằng việc xem xét ảnh hưởng
đến từ môi trường tự nhiên và biện luận rằng doanh nghiệp cần thích ứng với sự thay đổi của điều
kiện môi trường thông qua xây dựng và sử dụng những nguồn lực mới, doanh nghiệp cần phát triển
các nguồn lực độc đáo để đáp ứng nhu cầu xã hội về môi trường tự nhiên thông qua cải thiện tính
hợp pháp xã hội, tích hợp vai trò của các bên liên quan như là một phần trong quá trình phát triển
bền vững trong doanh nghiệp. Thuyết năng lực động là sự kết hợp giữa bản chất thay đổi của nguồn
lực và năng lực, nổi lên như là một học thuyết mở rộng của RBV (Eisenhardt và Martin, 2000).
Thuyết này cho rằng năng lực động là khả năng tích hợp, xây dựng và tái định hình lại các năng lực
bên trong và bên ngoài để thích ứng với sự thay đổi của môi trường (Teece et al., 1997). Teece và
cộng sự cũng cho rằng một chiến lược thân thiện môi trường chủ động bao gồm kết hợp những
năng lực không lặp lại và có thể so sánh, vì vậy chiến lược này là sự kết hợp giữa kinh doanh và
môi trường tự nhiên, có đặc điểm đặc trưng của năng lực động và cho phép doanh nghiệp thích ứng
với sự thay đổi của môi trường và dẫn tới những ảnh hưởng tích cực lên lợi thế cạnh tranh (Aragon-
Correa và Sharma, 2003). Freeman (1984) cho rằng bên liên quan là bất kỳ tổ chức hay cá nhân có
ảnh hưởng hoặc bị ảnh hưởng bởi các hành động của doanh nghiệp, các doanh nghiệp cần phải đáp
ứng kỳ vọng của bên liên quan bởi vì mọi quyết định quản trị đều bị chi phối bởi bên liên quan. Đó
là lý do doanh nghiệp kết hợp các chiến lược kinh doanh thân thiện môi trường vào trong các chức
năng kinh doanh chung chính là để kết nối và đáp ứng với mối lo ngại về sinh thái của bên liên
quan. Scott và Christensen (1995) khi bàn về thuyết thể chế thì cho rằng đó là cấu trúc các quy định
mang tính quy phạm và được nhận thức rõ ràng từ đó tạo nên sự ổn định trong hành vi xã hội.
Thuyết thể chế nhấn mạnh sự hợp tác của doanh nghiệp với môi trường, các áp lực về xã hội và văn
hóa lên doanh nghiệp, từ đó buộc doanh nghiệp thay đổi. Jennings và Zandbergen (1995) chỉ ra lợi
ích của thuyết thể chế là lý giải các yếu tố cưỡng chế bao gồm các quy định chung và các yêu cầu
luật pháp chính là động cơ thúc đẩy doanh nghiệp chấp nhận và triển khai các chiến lược kinh
doanh thân thiện môi trường.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Dữ liệu sử dụng trong nghiên cứu này là báo cáo kinh doanh của các doanh nghiệp xuất khẩu
Thổ Nhĩ Kỳ chuyên xuất khẩu vào thị trường EU ở các ngành nghề khác nhau. Các doanh nghiệp
được chọn đều là những doanh nghiệp đang triển khai chiến lược kinh doanh thân thiện môi trường

93
xuất phát từ đòi hỏi của một bộ phận người tiêu dùng châu Âu. Số lượng doanh nghiệp được chọn
là 22 doanh nghiệp ở các ngành nghề: nông sản, thủy sản, may mặc, chế biến gỗ, đồ uống giải khát,
đều là những ngành hàng có nguy cơ gây tổn hại cao đối với môi trường. Dữ liệu sẽ được bóc tách
thành các chủ đề (cấp 1) và khái niệm (cấp 2), trong đó chủ đề là các chiến lược kinh doanh thân
thiện môi trường đang triển khai: chiến lược marketing, chiến lược R&D, chiến lược sản xuất, chiến
lược nguồn nhân lực, chiến lược thu mua, chiến lược tài chính. Các khái niệm là các phương hướng
và hành động mà các doanh nghiệp Thổ Nhĩ Kỳ đang triển khai tại từng lĩnh vực chức năng, giải
thích cho từng chiến lược kinh doanh thân thiện môi trường. Từng khái niệm này sẽ được đo lường
tần suất xuất hiện trong phạm vi 22 doanh nghiệp là mẫu nghiên cứu.
4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Chi n l ợc marketing xuất khẩu thân thiện môi tr ờng
Bảng 1. Các hành động triển khai chi n l ợc marketing xuất khẩu
thân thiện môi tr ờng tại các doanh nghiệp Thổ Nhĩ Kỳ
Chủ ề
Các hnh ộng triển khai
Tần su t xu t hiện
Chi n ư c marketing
thân thin môi trưng
G n nh n v đ ng g i th n thin môi trưng
9
Phát tri n các sản ph m sinh thái
8
H p tác vi các thành viên kênh phân phi
4
S d ng d ch v logistics thân thin môi trưng
4
N l c truyền thông đ nh hưng bảo v môi trưng
1
Chi t khấu đ c bit khuy n khích hành vi mua thân thin môi trưng
1
Kết quả xử lý dữ liệu thể hiện 6 hành động để triển khai chiến lược marketing thân thiện môi
trường mà doanh nghiệp Thổ Nhĩ Kỳ áp dụng, đó là: gắn nhãn và đóng gói sản phẩm thân thiện môi
trường, phát triển các sản phẩm sinh thái, hợp tác với các thành viên kênh phân phối, sử dụng
logistics thân thiện môi trường, nỗ lực truyền thông định hướng bảo vệ môi trường, chiết khấu đặc
biệt để khuyến khích hành vi mua thân thiện môi trường. Trong đó, phần lớn doanh nghiệp háo hức
với thiết kế sản phẩm thân thiện môi trường để đáp ứng kỳ vọng xanh của khách hàng để tiếp tục
vận hành ở thị trường quốc tế. Một trong số các doanh nghiệp dẫn chứng các thùng hàng của họ
được đóng từ nguyên liệu gỗ lấy từ những cánh rừng công nghiệp tái tạo có kiểm soát, lấy gỗ từ đây
họ được cấp chứng nhận FSC là chứng nhận của hội đồng quản lý rừng (Forest Stewardship
Council), đây là yêu cầu bắt buộc của khách hàng quốc tế. Một doanh nghiệp khác thì quan tâm tới
làm cho 90% trong số các mặt hàng xuất khẩu trở nên nhẹ hơn thông qua đổi mới sản phẩm, đó là
một nỗ lực 4 năm và sử dụng hệ thống logistics thu hồi, kết quả là làm giảm lượng phát thải khí
CO2 do mức tiêu thụ năng lượng ít hơn và doanh nghiệp này cũng sử dụng ít xe tải hơn khi vận
chuyển hàng hóa.
4.2. Chi n l ợc nghiên cứu và phát triển sản phẩm thân thiện môi tr ờng
Chiến lược nghiên cứu và phát triển sản phẩm tập trung vào phát triển các sản phẩm và công
nghệ mới, sạch hơn để ít gây tổn hại tới môi trường (Shrivastava, 1995). Kết quả nghiên cứu chỉ ra
các hành động mà doanh nghiệp Thổ Nhĩ Kỳ đang triển khai trong khuôn khổ chiến lược R&D là:
hợp tác với các tổ chức bên ngoài để triển khai hoạt động kinh doanh thân thiện môi trường, phát
triển sản phẩm và công nghệ nhằm tối thiểu hóa ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường, có đội ngũ