Fukuzawa Yukichi (1835-1901)
Fukuzawa Yukichi (1835-1901)
Fukuzawa Yukichi (tên dch ra tiếng Việt là Phúc-Trạch Dụ-Cát, 1835-1901) là nhà tư
tưởng tiến bộ, nhà giáo dục có ảnh hưởng rất lớn tới phong trào Khaing ở Nhật Bản
o cuối thế k 19 và đầu thế k 20, tạo tiền đề cho Nhật Bản trở thành một cường quốc
trên thế giới. Lòng biết ơn của người Nhật đối với Fukuzawa được thể hiện qua việc hình
ông được in trên tờ tin 10.000 yên (ttiền có mệnh giá ln nhất của Nhật); cho dù ông
chẳng phải là mt đấng quân vương hay vị tướng lỗi lạc của đất nước mặt trời mc.
.
Tầm ảnh hưởng của Fukuzawa không chỉ giới hạn trong Nhật Bản. Ông đã dành khá
nhiều công sức thúc đẩy chương trình ci cách và khai sáng cho các quốc gia lân cận như
Trung Quc, Triều Tiên và Việt Nam [1]. Tại Việt Nam, các phong trào Duy Tân hi và
Đông Du của Phan Bội Châu, Đông Kinh Nghĩa Thục của Lương Văn Can, Phan Chu
Trinh đều chịu ảnh hưởng rất lớn từ tư tưởng tiến b của Fukuzawa. Rất tiếc rằng các tư
tưởng "canh tân" ở Việt Nam trong giai đoạn này, cũng ging như ở Trung Quốc và Triu
Tiên, đều bị thất bại. Bài viết này mong muốn giới thiệu ti người đọc mt số tư tưởng
lớn của Fukuzawa, bởi cho đến nay, chúng vẫn ý nghĩa thực tế ở Việt Nam.
Tư tưởng Thoát Á của Fukuzawa
dp được tiếp xúc vi n minh phương Tây qua sách vở và những chuyến viếng thăm
M và Châu Âu vào cui thế k 19, Fukuzawa nhận định rằng văn minh phương Tây
phát triển hơn Châu Á về nhiều mặt, và các nước Châu Á khó lòng duy t được nền độc
lập nếu cứ đóng cửa trước văn minh phương Tây. Theo ông, dành được quyn tự trị chưa
phải đã là độc lập, mà nền độc lập thật sự chỉ có ththành hiện thực thông qua việc trở
thành mt quốc gia tiên tiến và văn minh. Nếu không có sự khaing và văn minh, nền
độc lập dành được sẽ mau chóng mất đi để rồi li lệ thuộc vào các quốc gia tiên tiến khác
[1].
Nhận thức được các nước trong khu vực Châu Á mới chỉ mức "bán văn minh", không
thlà tấm gương cho Nhật Bản học hỏi, trong bài "Thoát Á Luận", Fukuzawa kêu gọi
nước Nhật hãy "tách ra khi hàng ngũ các nước Châu Á, đuổi kp và đứng vào hàng ngũ
các nước văn minh phương Tây". Ông chủ trương mở cửa giao thương với phương Tây,
học hỏi kiến thức và kinh nghiệm quản lý xã hội của phương Tây để phát trin Nhật Bản.
Quan điểm này của Fukuzawa đã được chứng minh bằng thực tế: Ở Châu Á, chỉ có Nhật
Bản và Thái Lan, hai nước chủ trương mở cửa, là tránh được sự xâm lược và thôn tính
của các nước phương Tây. Chính sự du nhập của những giá trị dân chủ và nền giáo dục
khoa học kiểu phương Tây đã khiến Nhật Bản không bị phương Tây xâm lược, mà ngược
lại, trở thành cường quốc t cuối thế kỷ 19 [2].
Fukuzawa tin rằng go dục là cách duy nhất để đạt tới văn minh, bởi bản chất của văn
minh là sự phát trin kiến thức và đạo đức nội tại của dân tộc:
Trích:
Fukuzawa viết:
"Văn minh nghĩa đạt được cả những tin nghi vật chất lẫn sự nâng cao tinh thần của
con người. Nhưng cái tạo ra những tin nghi vật chất và nâng cao tinh thần của con người
là kiến thức và đạo đức, [do đó] bản chất của văn minh chính là quá trình phát trin kiến
thức và đạo đức con người"[4]
Fukuzawa cho rằng nền giáo dục Nho học truyền thống ở Nhật Bản chính là sự cản trở
lớn nhất của nền văn minh: Nó vừa cổ hủ vừa chậm phát triển, hàng nghìn năm vẫn
không thay đổi, chỉ coi trng hình thức bên ngoài giả tạo mà coi thường chân lý và
nguyên tắc. Số lưng người đi học đã ít ỏi, lại chỉ được dạy đọc / viết mà không được
khuyến khích phát triển tư duy sáng to và độc lập. Chính vì vậy, Fukuzawa kêu gi
ngườin hãy theo đuổi nền giáo dục thực học của phương Tây, dựa trên nền tảng khoa
học và kỹ thuật. Mi người trong xã hi, từ các học giả uyên c, những viên chức nhà
nước địa vị cao đến nhng nông dân nghèo và nhng người buôn bán nhỏ đều có thđi
học để thực hiện tốt n chức năng riêng của mình, t đó đóng góp sức mình vào phát
trin xã hi, chứ không nhất thiết phải học để ra làm quan theo lối suy ng truyn thng
của Nho học hlậu. Fukuzawa phê phán li học ấy trong xã hi Nhật đương thời:
Trích:
Fukuzawa viết:
"Trong xã hi Nhật Bản, mười người thì cmười, trăm người thì cả trăm, tất cả đều mưu
cầu việc tiến thân, thăng quan tiến chức và trở thànhng chức"[2]
Hay:
Trích:
"Thỉnh thoảng có những hc sinh tu nghiệp ở nước ngoài v và nhiều người rất nghiêm
chỉnh đến chỗ tôi, lòng đầy nhiệt huyết bảo rằng không bao giờ có ý nghĩ sẽ làm quan
chức suốt đời cho chính phủ. Vì tđầu tôi đã không kì vọng gì điều đó, nên cũng chỉ
nghe cho qua chuyn. Nhưng lâu lâu không thấy tiên sinh giương tinh thần độc lập” ấy
đâu, hỏi ra mi biết đã chễm chệ thành mt thư kí cho bộ nào đó. Theo kiểu kẻ nào gặp
vận may thì thành quan to ở địa phương, nên tôi không ngăn gì chuyện đó. Sự tiến thoái
của mi con người là tự do, tự tại của họ, nhưng việc tt cả mọi người trên đất nước này
đều hướng đến mục đích duy nhất là chính phủ và nghĩ chắc chắn rằng, không còn cách
lập thân nào khác chính hủ phong còn rớt lại của nền giáo dục Nho gia."[2]
Fukuzawa là người đưa ra nguyên tắc nổi tiếng: "Độc lập quốc gia thông qua độc lập cá
nhân" (national independence through personal independence), tức là mt xã hi muốn
phát triển phải dựa trên những cá nhân có khả năng tư duy độc lập và sáng tạo, chứ không
phải dựa vào chính phủ. Ông kêu gi các sĩ phu Nhật Bản làm việc theo phương châm
"coi trọng quốc gia và coi nhẹ chính phủ", tự tin vào sức mạnh cá nhân (individual
strength) mà không phụ thuộc vào sức mnh của người khác (đây chính là tư tưởng Khai
Sáng của Kant).
Để phổ biến kiến thức văn minh và tư tưởng tiến bộ phương Tây tớin chúng,
Fukuzawa đã viết trên 100 cuốn sách giải thích và bin minh cho thchế cnh quyền
ngh viện, giáo dục phổ thông, cải cách ngôn ngữ và quyền của phụ nữ [3]. Ông còn m
trường Đại học Keio (Trường Khánh Ứng Ng Thục), nay trở thành mt trong những
trường đại học hàng đầu của Nhật Bản, để đào to những thế hệ thanh niên Nht Bản theo
phương thức mới. Cùng với mt nhóm trí thức cùng tư tưởng, Fukuzawa cho ra mắt tờ
o Jiji Shimpo năm 1882, đây là một cơ quan tuyên truyền có tác động rất lớn đếnng
chúng Nhật Bản. Ông không coi nh người làm chính tr, mà chỉ là "bác sĩ bắt mạch
chính tr": Ông không tham gia chính quyền, dù được mi nhiều ln, nhờ đó có cơ hội
phê phán chính quyền mt cách mạnh mẽ và kiên quyết hơn.
______________________________
i liệu tham khảo:
[1] Fukuzawa Yukichi (1835-1901) - Nhà tư tưởng công cuộc duy tân Minh Tr của Nhật
bản Nguyễn Cảnh Bình (Bài đăng trên tạp chí Tia Sáng số tháng 8/2002)
[2] Lời tựa cuốn "Phúc ông t truyn"
[3] Fukuzawa Yukichi - Nhà canh tân giáo dục Nhật Bản thời Minh Tr
[4] Fukuzawa Yukichi (written by Nishikawa Shunsaku)
Thoát Á Luận
(Chủ trương thoát khỏi Châu Á)
Fukuzaw Yukichi (1885)
Giao thông ngày nay đã trở nên thuận tin đến mức, mt khi làn gió văn minh phương
y thổi sang phương Đông, mi cành cây ngn cỏ ở phương Đông đều phải ngả theo.
Người phương Tây từ thời cổ kim tới nay đều cùng dòng giống và họ chẳng khác nhau
mấy. Chỉ điều người phương Tây ngày xưa di chuyển chậm chạp, còn những người
phương Tây đương thời di chuyển hoạt bát và nhanh chóng hơn nhiều. Đó là vì người
phương Tây ngày nay biết cách tận dụng thế mnh của các phương tiện giao thông sẵn
có. Đối với chúng ta, nhng người sống ở phương Đông, tr phi chúng ta muốn ngăn cản
xu thế văn minh phương Tây với quyết tâm không thay đổi, cách tốt nhất là chúng ta hãy
làm như họ. Nếu quan sát kỹ lưỡng tình nh thế giới hiện nay, chúng ta sẽ nhn thy
được rằng không ai thể chống lại sự tấn công dữ dội của văn minh phương y. Vậy
tại sao chúng ta không cùng h nổi trên biển văn minh y, cùng cưỡi ngọn sóng văn minh
ng tận hưởng thành quả của nn văn minh?
Sự lan truyền của nền văn minh cũng giống như sự lan truyền của dch sởi. Dịch sởi
kyô bắt nguồn từ Nagasaki và lan dần sang phía Đông cùng với tiết trờim áp của mùa
xuân. Chúng ta có thể không tch sự lây lan của bệnh truyền nhiễm này, nhưng liệu có
cách nào hiệu quả để ngăn chặn nó không? Tôi thể chứng minh rằng đây là điều không
thể. Với mt bệnh truyn nhiễm, người ta chỉ nhận được những thiệt hại. Với mt nền
văn minh, thiệt hại thể đi kèm với lợi ích, nhưng lợi luôn ln nhiều hơn hại, và sức
mạnh của chúng không gì thể ngăn cản nổi. Trong trường hợp này, slà vô nghĩa nếu
tìm cách ngăn cản sự lan truyn. Một người thông minh sẽ khuyến khích sự lan truyn và
tìm cách để người ta làm quen dần với nó.
Quá trình mở cửa đón nền văn minh hiện đại của phương Tây bắt đầu từ thời Gia Vĩnh
(Kaei, 1848-1854). Người dân trong nước đã bắt đầu biết đến những giá trị hữu ích của
nền văn minh này dn dần, nhưng tích cực, tiến tới chấp nhận nó. Tuy nhiên, con
đường tiến bộ tiếp cận nền văn minh đã b chính phủ già nua li thời cản trở. Nếu chính
phủ đó còn tn tại, chắc chn nền văn minh sẽ không thể xâm nhập. Văn minh hiện đại và
các tc lệ cổ lcủa Nhật Bản không thể song song tồn tại. Nếu chúng ta muốn loại bỏ các
tục lcổ lỗ, chính phủ cổ l cũng phải được loại bỏ. Chúng ta có thể ngăn cản sự xâm
nhp của nền văn minhy, nhưng điều đó cũng có nghĩa là chúng ta đánh mất độc lập
dân tc. Cuộc tranh đấu đang din ra trong nền văn minh thế giới không cho phép mt
quc đảo phương Đông nằm ngủ yên trong sự cô lập. Tới thời điểm đó, nhng người
tâm huyết đã nhận ra nguyên tắc "Quốc gia quan trọng hơn chính phủ", dựa vào ý ch của
Thiên Hoàng, đã loại bỏ chính phủ cũ để lập nên mt chính phủ mới. Với cnh phủ mới,
không phân biệt quan lại triều đình hay thần dân, toàn dân trong nước tiếp thu nền văn
minh hiện đại của phương Tây. Chúng ta không chỉ đã loi bỏ lề thói cổ hủ của Nhật Bản,
mà chúng ta còn thành công trong việc tạo ra mt động lc mi hướng tới phát trin
Châu Á. Chủ trương của chúng ta có thgói gọn trong hai chữ: "Thoát Á".
Nước Nhật nằm tại min cực Đông của Châu Á, nhưng tinh thần của chúng ta đã di khỏi
những thói quen cổ hủ của Châu Á mà tiếp cận nềnn minh phương Tây. Thật không
may cho Nhật Bản, có hai nước láng giềng, một gọi là Trung Quc và một gọi là Triều
Tiên. Cả hai dân tộc này, ging như dân tộc Nhật, từ lâu đã được nuôi dưỡng bởi những
suy nghĩ và thái độ chính trị Á Châu. Tuy nhiên, cũng có những điểm khác biệt đáng kể
giữa ba dân tộc, đó là những khác nhau về chủng tộc, di truyền hay giáo dục. Người
Trung Quc và Triu Tiên có nhiều nét giống nhau hơn và bọn họ ítđim ging với
người Nhật Bản. Những người này không biết cách tiến b, cho dù là ở mức cá nhân hay
mức quốc gia. Trong thời đại hiện nay, khi mà giao thông trở nên rất thuận tin, h
không thể nào không nhìn thấy sự hiện hữu của nền văn minh phương Tây. Nhưng họ
cho rằng nhng điều mắt thấy tai nghe về văn minh phương Tây không đáng để họ động
tâm động não. Trong khung cnh mới mẻ và đầy khí thế của văn minh, trong khi chúng ta
bàn về giáo dục, họ lại chỉ nói vđạo Khổng. Nói về go dục ở trường lớp, họ chỉ giảng
v các khái niệm "Nhân, Nghĩa, Lễ, T" [tư tưởng của Mạnh Tử]. Trong khi dy cho học
trò căm ghét sự phô trương, chính họ lại thể hiện sự thiếu hiểu biết về các chân lý và
nguyên tắc. Nói về đạo đức, aing thấy nh động của họ thhiện sự tàn bạo vàliêm
x mà không lời nào tả xiết. Đã vậy h vẫn kiêu căn tự phụ và không chịu tự kiểm kiểm
bản thân mình.
Theo đánh giá của tôi, hai quốc gia này không thể tồn tại như những quốc gia độc lập
trước sự tấn công của nền văn minh phương Tây sang phương Đông. Những quốc dân có
trách nhim của hai quốc gia này có thể sẽ tìm ra phương thức để thực hiện những cuộc
cải cách toàn din, tầm cỡ phong trào Duy Tân (Meiji Restoration) như ở nước ta, và h
có th thay thế cnh phủ và đem đến niềm tin mới cho ngườin trong nước. Nếu điều
này xảy ra, các quốc gia này thực sự rất may mắn. Tuy nhiên, ít có khả năng điều này xảy
ra, và trong vòng vài năm nữa hsẽ bị xóa sổ khỏi thế gii và đất đai của họ sẽ bị chia
nhỏ bởi các quốc gia văn minh. Tại sao như vậy? Bởi vì vào lúc slan truyền của nền
văn minh và sự khai sáng có sức mnh tương tự như bệnh dch sởi, Trung Quốc và Triều
Tiên đã vi phạm quy luật tự nhiên, c gắng nn cản sự lây lan này. H quyết liệt tìm
cách tránh nền văn minh này bng cách đóng kín tất cả các cửa thông khí trong phòng.
Không có không khí, họ sẽ ngạt thở đến chết. Người ta cho rằng các nước láng giềng phải
giang tay giúp đỡ lẫn nhau, bởi quan hệ "môi hở ng lạnh" gia chúng ta. Nhưng hiện
trạng của Trung Quốc và Triều Tiên chẳng mang lại điều gì cho Nhật Bản. Dưới nhãn
quan của người phương Tây văn minh, họ có thể nhìn những gì diễn ra ở Trung Quốc và
Triu Tiên để phán xét Nhật Bản, bởi vì sự gần gũi địa lý của ba nước. Chính quyền
Trung Quc và Triu Tiên vẫn duy trì cách hành xử độc tài của mình và không chấp nhận
điều hành đất nước bằng pp luật. [Do đó] Người phương y thể nghĩ Nhật Bản
cũng là xã hi không luật pháp. Người dân Trung Quốc và Triều Tiên chìm sâu trong
tín hlậu, không biết đến khoa học là gì. [Do đó] Các học giả phương Tây có thể nghĩ
Nht Bản vẫn là quc gia chỉ biết tới Âm Dương Ngũ Hành. Người Trung Quốc hèn h
vô liêm x, và [do đó] tinh thần võ sĩ đạo của người Nhật cũng bị hiểu nhầm. Người
Triu Tiên thực hiện hình phạt thảm khc đối với tù nhân thì người Nhật cũng bị coi là vô
nhân đạo. Tôi còn có thể đưa ra nhiều ví dụ khác. Nước Nhật ở bên cnh hai ớc này
không khác gì mt người chính trực sống trong khu làng ni tiếng bởi những người ngu
dốt, hung bạo, không biết đến pháp luật và vô nhân đạo. Hành động tốt của con người
chính trực sẽ bị che phbởi những cái xấu của hàng xóm. Khi những vụ việc rắc rối này
sinhi nảy nở, chúng có thể ảnh hưởng tới con đường ngoại giao của chúng ta. Thực tế
này là một bất hạnh cho Nhật Bản!
Vậy chúng ta phải làm gì y giờ? Chúng ta không có thời giờ để chờ đợi sự khai sáng
của các nước láng giềng, để từ đó cùng nhau hướng tới phát trin Châu Á. Tốt hơn hết là
chúng ta hãy tách ra khi hàng ngũ các nước Châu Á, đứng chung vào hàng ngũ các quốc
gia văn minh phương Tây. Còn về các đối xvới Trung Quc và Triều Tiên, chúng ta
không có tránh nhiệm phải làm điều gì đặc biệt cho họ chỉ bởi vì h là hàng xóm của
chúng ta. Chúng ta ch cần học theo cách của người phương y đối xvới họ. Tục ngữ
câu "gần mực thì đen, gần đèn t rạng", ai chơi với bạn xấu không thể tránh khỏi
tiếng xấu. Đơn giản là chúng ta đoạn tuyệt kết giao với những người bn xấu ở Châu Á!
LUẬT CẦN RÕ RÀNG, ĐƠN GIN NHƯNG PHẢI NGHIÊM MINH
Những người không tôn trọng phép nước, không thấy sự quý giá của quốc pháp, ngoài
mặt luôn tỏ vẻ nghiêm chỉnh, đứng đắn, nsợ cán bộ công quyn, nhưng bên trong thì
ngấm ngầm vi phạm luật pháp mà không chút my may hổ thẹn. Họ ln tìm mi kẽ h
trong luật để luồn lách, né tránh. Nhng kẻ gii luồn lách luật li được dư luận khen ngợi
là "tài ba". Họ rất khoái chí khi khoe khoang cùng đồng bọn về thủ đoạn của mình: "B
ngoài phải làm như thế này. Muốn tránh được luật thì phải thế kia..." Tệ hại hơn, họ còn
mật móc ngoặc với các công chức, để tạo lợi thế cho họ trong công vic làm ăn. Đổi li
là hai phía cùng chia chác món hời, cùng tham nhũng và giấu nhẹm tội lỗi.
Phải thừa nhận rằng "đại pháp do các đấng bề trên" lập ra có nhiều đim rất nhiêu khê,
phiền phức, thậm chí có khi còn trái hẳn với thực tế, nên mới xảy ra tình trạng như trên.
Nhưng, nếu xem xét vấn đề trên góc độ chính trị của một quốc gia thì các vụ việc đó là
những tập quán xấu đáng sợ. Một khi coi thường luật pháp, quốc dân đã trthành những
người không trung thực với đất nước, thản nhiên vi phm luật, dửng dưng trước mi tội
li.