GIÁ TRỊ CỦA ĐẬU NÀNH
(Kỳ 1)
ĐẬU NÀNH
GIỚI THIỆU
Hầu như người Việt nam chúng ta ai ai cũng biết đậu nhưng ít ai biết
đến chất isoflavone và các hóa chất thảo mộc khác trong đậu nành, khnăng
phòng ngừa và trliệu một số bệnh như bệnh đau tim, bệnh tai biến mạch máu não,
bệnh ung thư vú, ung thư nhiếp hộ tuyến và ung thư kết tràng.
tính chất đa năng đa hiệu của đậu nành do những khám phá gần đây
của khoa học nên chúng tôi đã cố gắng soạn thảo tập tài liệu dưới đây để cống hiến
quý bạn đồng thời cũng để làm sáng tnghi vấn ăn đậu không tốt cho nhiều
người. Tất cả những điều chúng tôi trình bầy đều lấy từ các nguồn liệu thẩm
quyền như kết quả của các công trình khảo cứu khoa học của Viện Ung Thư Quốc
Gia và các viện đại học danh tiếng ở Mỹ
LỊCH SỬ ĐẬU NÀNH
Đậu nành xuất hiện đầu tiên tại Trung Hoa khoảng 5000 m trước đây
nhưng mãi đến năm 300 trước Thiên Chúa giáng sinh mi được ghi vào cthư là
một nông phẩm chính của miền Bắc Trung Hoa. Từ đây, đậu nành được lan truyền
qua Triều Tiên, Nhật Bản, xuống miền Nam Trung Hoa các nước Đông Nam Á
Châu. Đến Nhật Bản vào thế kỷ thứ 8 sau y lịch và khoảng một ngàn m sau
đó qua đến Âu Châu.
Bởi vì đậu nành sản sinh nhiều protein n bất cứ loại nông sản nào nên
được ưa chuộng và trthành thực phẩm chính của nhiều quốc gia Á Châu. Những
thực phẩm được biến chế từ đậu nành như sữa, đậu và tầu ky đã thai
ngàn năm trước đây, ngày nay đậu hũ là món thực phẩm được ưa chuộng và ph
thông nhất trên thế giới. Tại một vài thành ph Trung Hoa, các xưởng làm sữa đậu
nành vào sáng sm để giao sữa nóng đến từng nhà, cho đến gần đây, sữa đậu
nành tiêu thHồng Kông đã nhiều hơn số tiêu thụ Coca-Cola. Người Trung Hoa
tin rằng đậu nành khng chữa lành các chứng bệnh về thận, phù thũng, da,
tiêu chẩy, anemia và leg ulcers.
Đậu nành được du nhập vào lục địa Hoa Kỳ năm 1765 nhưng chỉ được xem
một loại hạt đậu mới thôi cho đến khi Dr. John Harvey Kellog cách mạng
thức ăn sáng của người Hoa Kỳ bằng sữa đậu nành, cereal và các thức ăn biến chế
từ protein đậu nành vào những năm 1920s.
Năm 1931, Dr. A.A. Horvath xuất bản tài liệu mang nhan đề là "Soya Flour
as a National Food." Trong tài liệu này ông nói rằng dinh dưỡng bằng thực phẩm
đậu nành rất là bổ khỏe và có giá trị cao.
Nhnhững nỗ lực của ông mà ngày nay Hoa Ksản xuất trên 12 tdollars
đậu nành mỗi m tức khoảng 50 triệu metric tons, hay bằng phân nửa số lượng
sản xuất trên thế giới. Bất hạnh thay, ngoại trừ 1/3 được xuất cảng qua các nước
như Nhật Bản v..v.., chúng ta đã dùng 95% slượng còn li để làm thức ăn cho
súc vật, thay vì cho người ăn !
NHỮNG LỢI ÍCH CỦA ĐẬU NÀNH
Hầu như ai cũng biết đậu nành chứa rất nhiều protein bao gồm tất cả 8
loại amino acids thiết yếu. Đậu nành cũng là nguồn phong phú cung cấp calcium,
chất xơ, chất sắt và chất sinh tố B.
Cái các khoa học gia thích thú nhất trong những m nghiên cứu gần
đây sự khám phá ra các hóa chất thảo mộc, mà chúng tôi tạm gọi là hóa thảo
(PHYTOCHEMICALS), trong đậu nành những ng dụng của chúng, trong
lãnh vực y khoa trị liệu.
Viện Ung Thư Quốc Gia Hoa Kỳ, Viện Đại Học Havard, Viện Đại Học
Alabama, Minnesota, Iowa và Helsinki, Finland, đã thực hiện nhiều công trình
khảo cứu khoa học để xác định những lợi ích của các hóa thảo đậu nành này. H
đã thấy rằng sự tiêu thnhững chất này không những có khnăng ngăn ngừa mà
còn khnăng trị liệu các bệnh như đã nói ti trên. Những hóa thảo đậu
nành gm có: protease inhibitors, phytates, phytosterols, saponins, phenolic acids,
lecithin, omega 3 fatty acids, và isoflavones (phytoestrogens).
PROTEASE INHIBITORS - khnăng ngăn ngừa sự tác động của một
sgene di truyền gây nên chứng ung thư. cũng bảo vệ các tế bào thể không
cho hại gây nên bởi những môi trường sống xung quanh như tia nắng mặt trời
các chất ô nhim trong không khí. Năm 1980 c khoa học gia đã khám phá ra
đậu nành nguyên chất tác dụng ngăn cản không cho bệnh ung thư phát triển nơi
các loài động vật và những m sau đó họ đã xác nhận sự c dụng chống ung thư
cho nhiều loại bệnh ung thư. Tuy nhiên protease inhibitors bmất bớt đi sau khi
đậu nành được biến chế qua phương pháp làm nóng. Thí dnhư sữa đậu nành loi
dehydrated soymilk còn lại 41%, đậu còn lại 0.9% so với bột đậu nành nguyên
chất. [1]
PHYTATES - một hợp thể phosphorus và inositol, khnăng ngăn trở
tiến trình y nên bệnh ung thư kết tràng (colon cancer) ung thư (breast
cancer). Ngoài racũng cònkhả năng trừ khử những chất làm cho tế bào d b
ung thư (oxygen free radicals) phục hồi những tế bào đã bhại. Được biết
chất sắt thặng trong thể thường sản sinh ra oxygen free radicals, nhưng khi
shiện diện của phytate, chất này sbị hủy diệt khả năng sản sinh và thế
phytate hành xử giống như chất antioxydants.
Cũng nên biết, sau nhiều m lưu ý dân chúng rằng phytate th gây
phương hại đến tình trạng thiếu chất sắt trong thể vì ngăn cản shấp thụ
chúng, nay các nhà khoa học đã khám phá ra rằng phytate bảo vệ chúng ta khỏi có
quá nhiều chất sắt. [2]
PHYTOSTEROLS - cũng khả năng phòng ngừa các bệnh về tim mạch
bằng ch kiểm soát lượng cholesterol trong máu, đồng thời cũng khả năng
làm gim thiểu sự phát triển các bứu ung thư kết tràng và chống lại ung thư da. [3]
Những nhóm dân số tiêu th nhiều sản phẩm đậu nành như Nhật Bản, Triều Tiên
Giáo hội Đốc Phục Lâm Hoa Kỳ đã t lệ thấp căn bệnh ung thư kết
tràng.
SAPONINS - giống như phytate, hành xnhư chất anti-oxidants để bảo vệ
tế bào cơ thể chúng ta khỏi bị hư hại do tác dụng free radicals. Nó cũng còn có kh