
527
GIÁM ĐỊNH VỀ NHÃN HIỆU - CƠ CHẾ BẢO VỆ DOANH NGHIỆP FDI
TRONG XÂM PHẠM NHÃN HIỆU
CN. Nguyễn Thị Thùy Dung
Đại học Luật Hà Nội
T M TẮT:
Trong hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp FDI gặp phải không ít khó khăn, vướng mắc
trong hoạt động sản xuất, cạnh tranh không lành mạnh, giả mạo hoặc xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp (SHCN) nói chung và nhãn hiệu nói riêng. Cùng với sự phát triển của xã hội, vấn đề phát
triển bền vững đối với hoạt động kinh doanh ngày càng trở nên quan trọng, Luật Sở hữu trí tuệ
(SHTT) năm 2005 kể từ khi ra đời đã phát huy vai trò to lớn trong việc tạo hành lang pháp lý cho
các tổ chức, cá nhân, đặc biệt là các doanh nghiệp FDI trong việc bảo vệ quyền SHTT, tạo môi
trường kinh doanh lành mạnh, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đáp ứng nhu cầu
thực tiễn của hội nhập kinh tế quốc tế…. Trong đó, hoạt động giám định về nhãn hiệu tuy không
phải là hoạt động bắt buộc nhưng là “cơ chế bảo vệ đặc biệt” cho các cá nhân, tổ chức, đặc biệt là
các doanh nghiệp FDI bảo vệ quyền SHTT của mình, tránh những hành vi cạnh tranh không lành
mạnh, xâm phạm nhãn hiệu hoặc giả mạo nhãn hiệu giữa các doanh nghiệp nói chung và doanh
nghiệp FDI nói riêng trên thị trường. Trong phạm vi bài viết này, tác giả sẽ tập trung phân tích khái
niệm, đặc điểm, quy trình, nội dung giám định nhãn hiệu trên cơ sở giám địnhvề nhãn hiệu là cơ chế
bảo vệ doanh nghiệp FDI trong xâm phạm nhãn hiệu tại Việt Nam.
Từ khóa: Giám định về nhãn hiệu, doanh nghiệp FDI, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
ABSTRACT:
In business activities, FDI enterprises face many difficulties and problems in production activities,
unfair competition, counterfeiting or infringement of industrial property rights (IP) in general and
trademarks say private. Along with the development of the society, the issue of sustainable development
for business activities has become increasingly important, the Law on Intellectual Property (IP) 2005
since its inception has played a great role in creating a legal corridor for organizations and individuals,
especially FDI enterprises to protect IP rights, create a healthy business environment, and promote the
socio-economic development of the country, meet the practical needs of international economic
integration…. In particular, the trademark assessment, although not a compulsory activity, is a "special
protection mechanism" for individuals and organizations, especially FDI enterprises to protect their IP
rights. avoid unfair competition, trademark infringement or trademark counterfeiting between
enterprises in general and FDI enterprises in particular in the market. In the scope of this article, the
author will focus on analyzing the concept, characteristics, process, and content of trademark
assessment on the basis of trademark assessment, which is a mechanism to protect FDI enterprises from
infringing on trademarks in Vietnam.
Keywords: Trademark inspection, FDI enterprise, protection of intellectual property rights
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo báo cáo của Tổ chức Thương mại và Phát triển Liên hợp quốc năm 2017, Việt Nam nằm
trong Top 12 quốc gia thành công nhất về thu hút FDI, trở thành điểm đến tin cậy, hiệu quả trong

528
mắt các nhà đầu tư nước ngoài với mức đóng góp của khu vực đầu tư nước ngoài trong GDP của cả
nước tăng từ 9,3% năm 1995 lên 19,6% năm 2017, năng suất lao động của khu vực FDI luôn ở mức
cao. Dự báo, xung lực thu hút FDI của Việt Nam thời gian tới vẫn tiếp tục được duy trì nhờ những
nỗ lực mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế, cam kết mở cửa thị trường, xóa bỏ các rào cản đầu tư,
thương mại, thông qua việc ký kết và triển khai các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như
CPTPP và EVFTA... (Phạm Thế Hùng, Trần Thị Lan Hương, Vũ Thị Tuyết Nhung, 2020). Có thể
thấy, trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, SHTT luôn là một trong những nội dung quan trọng
và mang lại nhiều cơ hội cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức, đặc biệt là các doanh nghiệp, tổ chức
FDI. Tuy nhiên, đây cũng là nội dung đặt ra cho Việt Nam những thách thức trong việc hoàn thiện
các chính sách, thể chế pháp luật, cải cách thủ tục hành chính, tư pháp về SHTT nhằm đáp ứng yêu
cầu hội nhập, thu hút FDI của Việt Nam.
Thực tiễn những năm gần đây cho thấy, trong quá trình sản xuất, kinh doanh, các doanh
nghiệp FDI thường bị đối thủ cạnh tranh bắt chước, thiết kế và sử dụng nhãn hiệu tương tự, trùng
hoặc giống nhau gây thiệt hại cho chủ sở hữu nhãn hiệu làm cho môi trường kinh doanh bị biến
dạng, làm cho nhà đầu tư, doanh nghiệp FDI mất niềm tin và người tiêu dùng mất định hướng. Bởi
trong các đối tượng SHTT thì nhãn hiệu là dấu hiệu đầu tiên để người tiêu dùng nhận dạng về sản
phẩm, dịch vụ của một doanh nghiệp thông qua quảng cáo, tuyên truyền và là “một trong các loại
tài sản vô hình, không thể xác định dựa trên các đặc điểm vật chất thông thường nhưng lại được
dùng để phân biệt với các sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ với nhau”, luôn được xem là “công cụ
quan trọng”, “cơ chế bảo vệ” để nhà sản xuất, doanh nghiệp FDI có thể chiếm lĩnh thị trường.
Trong khi đó, việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu và định hình giá trị của doanh nghiệp FDI vẫn còn
nhiều hạn chế. Xuất phát từ nhiều nguyên nhân, tình trạng xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu diễn
ra phổ biến mà nguyên nhân chủ yếu chính là hệ thống pháp luật còn chưa rõ ràng, thiếu đồng bộ,
các chế tài xử phạt chưa đủ sức răn đe; hoạt động của các cơ quan thực thi còn chồng chéo, năng
lực của cán bộ có thẩm quyền còn hạn chế, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan còn chưa hiệu quả; ý
thức tự bảo vệ quyền của các chủ thể còn chưa cao; các quy định về hoạt động giám định nhãn hiệu
còn chưa được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật.
Kể từ khi thành lập (9/2009) đến tháng 8/2018, Viện khoa học sở hữu trí tuệ (Viện KH
SHTT) đã tiến hành tiếp nhận, xử lý gần 5.000 hồ sơ liên quan đến xâm phạm quyền SHCN, trung
bình mỗi tháng Viện KH SHTT tiếp nhận khoảng 60 - 70 hồ sơ mới
2
, trong đó có rất nhiều vụ việc
liên quan đến hoạt động giám định nhãn hiệu của các doanh nghiệp FDI. Hoạt động giám định nhãn
hiệu mặc dù không phải là hoạt động bắt buộc, nhưng kết luận giám định lại là một “nguồn chứng
cứ quan trọng” không thể thiếu trong công cuộc bảo vệ quyền SHTT tại Việt Nam, là công cụ hỗ trợ
cơ quan nhà nước giải quyết các vụ án xâm phạm về nhãn hiệu hoặc giúp các chủ thể, doanh nghiệp
FDI có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến nhãn hiệu nếu xét thấy “nhãn hiệu đang được bảo hộ
đang bị xâm phạm, tranh chấp” hoặc muốn “phản đối cáo buộc của người khác về việc xâm phạm
quyền SHTT đối với nhãn hiệu”. Hoạt động giám định nhãn hiệu được thể hiện thông qua các kết
luận giám định của Viện KH SHTT, các kết luận giám định này có giá trị lớn trong việc hỗ trợ
doanh nghiệp FDI bảo vệ quyền SHTT của mình, hạn chế các hành vi cạnh tranh không lành mạnh,
xâm phạm, hoặc giả mạo các nhãn hiệu nổi tiếng, được người tiêu dùng ưa chuộng và sử dụng rộng
rãi trên thị trường. Chính vì vậy, việc hoàn thiện quy định của pháp luật về giám định SHTT nói
2
Viện Khoa học Sở hữu trí tuệ, “Thực trạng hoạt động giám định Sở hữu công nghiệp tại Việt Nam từ 9/2009- 5/2018”,
Báo cáo tổng hợp

529
chung, giám định về nhãn hiệu nói riêng là một trong những cơ chế đặc biệt giúp các doanh nghiệp
nói chung, doanh nghiệp FDI nói riêng bảo vệ quyền SHTT của mình trong xâm phạm nhãn hiệu.
2. CƠ SỞ L LUẬN - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. C sở lý luận
2.1.1. Khái niệm “Giám định nhãn hiệu”
Ở Việt Nam, hoạt động giám định về SHTT tại Điều 201 Luật SHTT 2005 bao gồm 03 (ba)
lĩnh vực cơ bản, đó là: (i) giám định về quyền tác giả và quyền liên quan; (ii) giám định về quyền
SHCN; (iii) giám định về quyền đối với giống cây trồng
3
. Các chuyên ngành giám định về quyền
SNCN bao gồm: (i) chuyên ngành giám định sáng chế và thiết kế mạch tích hợp bán dẫn; (ii)
chuyên ngành giám định kiểu dáng công nghiệp; (iii) chuyên ngành giám định nhãn hiệu và chỉ dẫn
địa lý
4
; (iv) chuyên ngành giám định các quyền SHCN khác
5
. Là một đối tượng của quyền SHCN,
nhãn hiệu đã được đăng ký bảo hộ tại Cục SHTT và đã được cấp văn bằng bảo hộ. Tuy nhiên, trong
quá trình kinh doanh, có nhiều hành vi được thực hiện mà không được phép của chủ sở hữu nhãn
hiệu thì bị coi là xâm phạm đối với nhãn hiệu (Điều 129.1, Luật SHTT 2005), chẳng hạn như: hành
vi “sử dụng dấu hiệu trùng với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hoá, dịch vụ tương tự hoặc liên
quan tới hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó, nếu việc sử dụng có
khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hoá, dịch vụ” (Điều 129.1.b, Luật SHTT 2005) và hành
vi “sử dụng dấu hiệu tương tự với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hóa, dịch vụ trùng, tương tự
hoặc liên quan tới hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó, nếu việc sử
dụng có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hoá, dịch vụ” (Điều 129.1.c, Luật SHTT 2005)
bị coi là hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu... Chính vì vậy, cần phải có một tổ chức thực
hiện giám định nhãn hiệu để xác định nhãn hiệu của bên kia có dẫn đến mức gây nhầm lẫn cho
người tiêu dùng hay không. Từ những phân tích nêu trên, tác giả có thể đưa ra định nghĩa “giám
định về nhãn hiệu” như sau: “Giám định nhãn hiệu là việc cá nhân, tổ chức có chức năng giám định
chuyên ngành nhãn hiệu sử dụng kiến thức, chuyên môn nghiệp vụ để đánh giá, kết luận về những
nội dung liên quan đến nhãn hiệu”.
2.1.2. Đặc điểm của hoạt động giám định nhãn hiệu tại Việt Nam
Hoạt động giám định về nhãn hiệu - cơ chế bảo vệ quyền SHTT đối với các doanh nghiệp FDI
được thể hiện thông qua các nội dung, đặc điểm sau:
Hoạt động giám định về nhãn hiệu không phải là một hoạt động bắt buộc nhưng là bộ phận
quan trọng trong hệ thống bảo vệ quyền SHTT của các doanh nghiệp FDI
Thực tiễn hiện nay cho thấy, hoạt động giám định nhãn hiệu vẫn còn mới mẻ và khá phức tạp ở
Việt Nam, trong hệ thống bảo vệ quyền SHTT, xử lý các tranh chấp, xâm phạm, giải quyết khiếu nại,
tố cáo liên quan tới quyền SHTT đối với các doanh nghiệp FDI. Do đó, đòi hỏi phải có một tổ chức,
3
Điều 39.2 Nghị định số 105/2006/NĐ - CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ, được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số
119/2010/NĐ - CP ngày 30/12/2010 của Chính phủ - gọi tắt là “Nghị định 105/NĐ - CP”.
4
Chuyên ngành giám định nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý được thực hiện nhiều nhất trong hoạt động giám định về
quyền SHCN.
5
Điểm I.1 Thông tư 04/2012/TT - BKHCN ngày 13/12/2012 sửa đổi, bổ sung một số quy định của Thông tư 01/2008/TT
- BKHCN ngày 25/02/2008 hướng dẫn việc cấp, thu h i th giám định viên SHCN và giấy chứng nhận tổ chức đủ điều
kiện hoạt động giám định SHCN, được sửa đổi, bổ sung theo Thông tư số 04/2009/TT - BKHCN và Thông tư số
18/2011/TT - BKHCN ngày 22/7/2011) (sau đây gọi tắt là Thông tư 04/2009/TT - BKHCN)

530
cá nhân được pháp luật công nhận thực hiện hoạt động giám định để đưa ra các kết luận giám định
một cách chính xác về những nội dung cần giám định của Viện KH SHTT. Khi có yêu cầu bằng đơn
hoặc quyết định của chủ thể có quyền và nghĩa vụ liên quan đến nhãn hiệu, Viện KH SHTT thực hiện
hoạt động giám định về nhãn hiệu nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu hoặc chủ
thể có quyền và nghĩa vụ liên quan đến nhãn hiệu. Trong thực tiễn bảo hộ quyền SHTT trên thế giới
và Việt Nam hiện nay, giám định nhãn hiệu “được coi là một yếu tố bổ trợ đắc lực cho việc bảo đảm
các điều kiện để bảo vệ, xử lý hành vi xâm phạm quyền SHTT, góp phần nâng cao tính hiệu quả của
cơ chế bảo hộ và thực thi quyền SHTT nói chung”
6
. Hoạt động giám định nhãn hiệu được thực hiện
thông qua việc thừa nhận và bảo vệ bằng pháp luật đối với các quyền SHTT, bảo đảm các điều kiện
thuận lợi nhất trong một thời gian nhất định đủ để các chủ thể quyền khai thác đối tượng quyền SHTT
của mình đồng thời bù đắp các chi phí đầu tư tạo ra giá trị của các đối tượng đó và thu lợi nhuận để tái
đầu tư, tiếp tục tạo ra các thành tựu sáng tạo mới. Tuy nhiên hiện nay, pháp luật SHTT mới chỉ quy
định về giám định SHTT mà chưa quy định hoạt động giám định nhãn hiệu nên trong quá trình tạo
dựng, củng cố giá trị của đối tượng quyền SHTT (nhãn hiệu), hiện tượng xâm phạm quyền đối với
nhãn hiệu ngày càng có nguy cơ thường xuyên và nghiêm trọng hơn, đặc biệt là các nhãn hiệu nổi
tiếng, được người tiêu dùng ưa chuộng của doanh nghiệp FDI. Để bảo vệ lợi ích chính đáng của người
tiêu dùng trước những “nguy cơ” xâm phạm nhãn hiệu nói trên, đồng thời, giúp các doanh nghiệp FDI
bảo vệ các “tài sản vô hình” của mình, cần có “cơ chế bảo vệ”
7
bằng việc áp dụng các quy định của
pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia về thực thi quyền SHTT và tổng hợp bằng các kết luận giám
định của chủ thể giám định (Viện KH SHTT). Các cơ quan thực thi quyền đối với nhãn hiệu bằng
cách thực hiện các biện pháp chế tài (dân sự, hành chính, hình sự) và hệ thống bổ trợ cho việc thực thi
quyền, trong đó có hoạt động giám định nhãn hiệu. Vì vậy có thể nói, hoạt động giám định về nhãn
hiệu không phải là một hoạt động bắt buộc nhưng là một bộ phận quan trọng trong hệ thống bảo vệ
quyền SHTT đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp FDI.
Kết luận giám định về nhãn hiệu là ngu n chứng cứ quan trọng trong hoạt động bảo vệ
quyền SHTT của các doanh nghiệp FDI
Kết luận giám định nhãn hiệu là một sản phẩm dịch vụ được chủ thể giám định sử dụng kiến
thức, kỹ năng chuyên môn để đưa ra trên cơ sở xem xét, đánh giá những vấn đề có liên quan đến
quyền SHCN đối với nhãn hiệu. Việc xem xét, đánh giá để đưa ra kết luận giám định phải dựa trên
các căn cứ pháp luật và các thông tin, dữ liệu được cung cấp hoặc tra cứu nhằm phục vụ cho việc
giải quyết các vụ việc tranh chấp, xâm phạm, khiếu nại, tố cáo. Do đó, kết luận giám định nhãn hiệu
là một trong những “nguồn chứng cứ chứng minh rất quan trọng”, bởi các lý do sau đây: (1)Kết
luận giám định nhãn hiệu được thể hiện thông qua các nội dung liên quan đến nhãn hiệu như: giám
định tình trạng bảo hộ hoặc giám định xâm phạm nhãn hiệu hoặc giám định tính tương tự của nhãn
hiệu hoặc giám định giá trị nhãn hiệu; (2) Kết luận giám định là “nguồn chứng cứ quan trọng”, có ý
nghĩa, vai trò to lớn trong việc làm sáng tỏ nội dung vụ án
8
. Theo đó, chứng cứ là bất cứ thức gì: (i)
có thật; (ii) được cung cấp hay thu thập một cách hợp pháp; (iii) có liên quan đến vấn đề hoặc sự
6
Nguyễn Hữu Cẩn, (2010), “Giám định về sở hữu trí tuệ: Công cụ hỗ trợ doanh nghiệp bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ”,
Viện khoa học sở hữu trí tuệ
7
Cơ chế bảo vệ đó có vai trò ngăn cản và xử lý bất kỳ hành vi xâm phạm quyền SHTT nào, dù đã diễn ra trên quy mô nào và
với mức độ nguy hiểm cỡ nào, nhờ đó chủ thể quyền được yên tâm khai thác thành quả của mình và chính các thành quả đó
làm cho trình độ công nghệ và kinh doanh của toàn bộ nền kinh tế được nâng cao. Công cụ đó được thực hiện bằng cách bảo
đảm các điều kiện để bảo vệ quyền đã xác lập và xử lý các hành vi xâm phạm quyền (Nguyễn Hữu Cẩn, 2010)
8
Điều 87.1.d Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, Điều 94.5 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Điều 81.5 Luật Tố tụng hành chính 2015

531
kiện được xem xét; (3)“văn bản kết luận giám định là một trong các nguồn chứng cứ để cơ quan có
thẩm quyền giải quyết vụ việc”
9
. Các chứng cứ có trong bản kết luận giám định bao gồm: tên, địa
chỉ của tổ chức giám định, giám định viên; đối tượng, nội dung, phạm vi giám định; phương pháp
thực hiện giám định; kết luận giám định; thời gian, địa điểm thực hiện, hoàn thành giám định (Điều
51.2 Nghị định 105/NĐ - CP). Hoạt động giám định nhãn hiệu không chỉ có giá trị pháp lý phục vụ
riêng cho quá trình tố tụng mà còn phục vụ cho bất cứ yêu cầu nào liên quan đến nhãn hiệu do chủ
thể có quyền yêu cầu hoặc trưng cầu giám định nhãn hiệu, chủ thể giám định không cần biết yêu
cầu đó nhằm mục đích gì, có cần thiết hay không… mà họ chỉ cần biết yêu cầu đó thuộc chuyên
môn mà họ được phép thực hiện thì họ có quyền thực hiện. Do đó, kết luận giám định không phải là
chứng cứ mà là “nguồn chứng cứ quan trọng” chứa đựng các thông tin “có thật”; “được cung cấp
hay thu thập một cách hợp pháp” và “có liên quan đến vấn đề hoặc sự kiện được xem xét” trong
hoạt động bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu.
Kết luận giám định về nhãn hiệu là công cụ hữu hiệu giúp doanh nghiệp FDI tự bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ
Kết luận giám định nhãn hiệu được coi là “công cụ bảo vệ” các doanh nghiệp FDI tránh khỏi
những hành vi cạnh tranh không lành mạnh, xâm phạm nhãn hiệu… của các chủ thể kinh doanh
khác. Các yêu cầu hoặc trưng cầu giám định nhãn hiệu thường được thực hiện trong trường hợp các
bên có tranh chấp gặp khó khăn trong việc tự mình đánh giá vụ việc tranh chấp và/hoặc có hành vi
xâm phạm nhãn hiệu. Do đó, cần có ý kiến chuyên môn hoặc ý kiến chuyên gia xác định có hay
không hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu. Thực tiễn hiện nay cho thấy, các chủ thể có
quyền yêu cầu hoặc trưng cầu giám định nhãn hiệu sử dụng dịch vụ giám định nhãn hiệu như một
công cụ để bảo vệ quyền SHTT nhằm thực hiện một số mục đích như: (1) Yêu cầu giám định nhãn
hiệu nhằm mục đích xử lý các cạnh tranh không lành mạnh hoặc xâm phạm nhãn hiệu do người thứ
ba thực hiện; (2) Yêu cầu giám định nhãn hiệu nhằm mục đích phản đối cáo buộc của người khác về
việc xâm phạm quyền SHTT. (3) Yêu cầu giám định nhãn hiệu nhằm mục đích xem xét hiệu lực
bảo hộ và/hoặc phạm vi bảo hộ đã được xác lập. (4) Yêu cầu giám định nhãn hiệu nhằm mục đích
khác phục vụ việc bảo vệ quyền SHTT. Trên cơ sở xem xét các yêu cầu giám định, Viện KH SHTT
sau khi phân tích, đánh giá sẽ đưa ra bản kết luận giám định, giúp các doanh nghiệp FDI có thêm cơ
sở để tự bảo vệ quyền SHTT của mình.
2.1.3. Đối sánh hoạt động giám định nhãn hiệu với giám định tư pháp và hoạt động cung cấp ý
kiến chuyên môn của Cục Sở hữu trí tuệ
Đối sánh giám định nhãn hiệu với giám định tư pháp
Hoạt động giám định tư pháp (Điều 2.1, Luật Giám định tư pháp 2012) và hoạt động giám
định SHTT (Điều 201 Luật SHTT 2005) đều có bản chất giống nhau là việc người giám định sử
dụng kiến thức, nghiệp vụ cần thiết cho hoạt động giám định để kết luận chuyên môn nhằm phục vụ
cho hoạt động tố tụng (vụ việc dân sự, vụ án hành chính hoặc hình sự) mà trọng tâm là bảo đảm
việc phán quyết của Tòa án được kịp thời, khách quan, đúng quy định của pháp luật; tạo điều kiện
cho các cá nhân, tổ chức nói chung, doanh nghiệp FDI nói riêng chủ động thu thập chứng cứ chứng
minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, góp phần thực thi có hiệu quả chủ trương mở
rộng dân chủ, tăng cường tranh tụng tại phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp. Như vậy có thể
9
Điều 51.1 Nghị định 105/2006/NĐ - CP sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 119/2010/NĐ - CP; Điều 26.3 Nghị định
99/2013/NĐ - CP của Chính phủ ngày 29/8/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp