14 LÊ CẨM LY
HÁT KHÓC TRONG LÊ TANG CỦA NGƯỜI VIỆT
(ở một số làng thuộc huyện Phú Xuyên, Hà Tây)
LÊ CẨM LY/?
X3 thức tang lễ truyền thống của người Việt là một hiện tượng phức tạp, bao gồm những yếu tố của sinh hoạt tín ngưỡng, của những hình thái văn hóa - nghệ thuật tín ngưỡng mang đậm bản sắc văn hoá người Việt. Việc nghiên cứu nghi thức tang lễ sẽ góp phần làm sáng tỏ những vấn đề về nghi lễ và tín ngưỡng truyền thống, những vấn để về đời sống tâm linh, về phong tục tập quán, những quan niệm về cái sống và cái chết của người Việt cũng như các hiện tượng văn hóa nghệ thuật, diễn xướng nghi lễ, tín ngưỡng có cội nguồn từ văn hóa - nghệ thuật, điển xướng dân gian rất đặc sắc, thường xuất hiện trong nghi thức này. Chỉ riêng trong điển xướng nghệ thuật. trong các nghỉ thức tang lễ thường xuất hiện nhiều hình thức phong phú. đa dang.
Qua việc tìm hiểu nghi thức tang lễ của người Việt ở bốn làng: Phượng Vũ, Xuân La, Nội và Văn Minh thuộc huyện Phú Xuyên, Hà Tây, chúng tôi đã bắt gặp một vài hình thức điện xướng nghệ thuật bao gồm ca, múa, nhạc và trò diễn được trình bày trong diễn trình của lễ tang, trong đó có hát khóc. Hát bhóc là hình thức điền xướng thanh nhạc, tức là hình thức diễn xướng nghệ thuật trong đó chỉ có sự tham gia của nghệ thuật đm nhạc mà không có sự phối hợp của các loại hình nghệ thuật khác.
Tiếng khóc không thể thiếu trong lễ tang bởi nó thể hiện tấm lòng tiếc thương, đau xót của người còn sống đối với người đã khuất. Theo PGS.TS Nguyễn Thụy Loan "... không chỉ niềm vui, sự sảng khoái phấn chấn mới dẫn tới sự phấn hứng cho sáng tạo nghệ thuật, mà cä nỗi buồn cũng vậy. Đó là vào những dịp lễ tang, khi con người phải vĩnh viễn chia lìa người thân vừa bỏ thế giới này để đi vào cõi vĩnh hằng. Nỗi đau đón xé ruột bật thành tiếng khóc thương - những tiếng khóc thường và cä những tiếng khóc có nhạc điệu”. Trong một vài lần có địp quan sát trực tiếp một buổi lễ tang, chúng tôi cũng đã bắt gặp những tiếng khóc có nhạc điệu như vậy. Đó là tiếng khóc khi trầm, khi bổng tạo thành những cung bậc gắn với từng lời ea. Dưới đây là những lời khóc đầy nhạc điệu của người mẹ khóc người con trai quá cố mà chúng tôi ghi âm được trong một buổi lễ tang ở làng Xuân La:
"Viện Nghiên cứu văn hóa dân gian. NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 45


MẸ KHÓC CON





TEEEE—EHHEL “EU


khổ thế này ơi trời ơi ơi con ơi.
Cũng theo PGS.TS.Nguyễn Thụy Loan “Những tiếng khóc có nhạc điệu dường như trở nên lâm lï thống thiết và có lẽ đó là khởi điểm gợi ý cho sự hình thành đội ngũ của những người khóc chuyên nghiệp sau này. Những người này khóc thay thân nhân của người quá cế và họ ý thức được rất rõ công việc vừa mang tính thông tục vừa mang tính nghệ thuật ấy. Bởi vì, trong khi một số tộc người trên đất nước ta vẫn coi lối khóc có nhạc tính đó là “khóc”, thì ở người Việt, việc mà người đời gọi là “khóc mướn” lại được những người trong nghề gọi là “ca” ”. Tác giả đoạn trích này còn cho biết những lối khóc có nhạc tính đó trở thành một hình thức ca.
Khi đi sâu tìm hiểu hình thức diễn xướng này, chúng tôi thấy hét khóc thường diễn ra trong những trường hợp sau:
Sau giờ phút thi hài uừa được đưa uèo linh cứu, thân nhần người quá cố ngồi bên linh cữu than khóc. Vừa than khóc họ vừa gục đầu vào linh cữu hoặc dang tay ôm lấy linh cữu.
Trong lễ uiếng, trước khi tụng kinh, niệm Phật, các già ngồi thành hàng ngang phía trước bàn vong rồi than lên những bài viếng vong hồn. Trong khoảng thời gian điễn ra buổi lễ này còn có một thành viên của đội nhạc hiếu chuyên khóc thay cho những người vào viếng người đã khuất. Tất nhiên hình thức này chỉ được thực hiện tùy theo ý muốn của người tới viếng. Nếu một ai đó muốn nhờ thành viên của đội nhạc hiếu khóc thay mình thì họ phải đưa tiền và nói cho người này biết tên, tuổi, mối quan hệ của mình với người đã khuất. Liền sau đó người khóc thay sẽ ngồi trước bàn vong và ea lên bài khóc với lời lẽ phù hợp giữa hai dối tượng: người đã khuất và người tới viếng.
Vào thời điểm chuẩn bị đưa linh cữu ra bhỏối nhè, thân nhân người quá cố chạy ùa vào giữ lấy linh cữu và kêu khóc. Dường như họ muốn níu kéo, giữ người thân quá cố “ở lại” với gia đình, nơi mà họ và người này lúc sinh thời đã cùng chung sống. 46 LÊ CẨM LY


Đến khi linh cữu được hạ xuống huyệt, thân nhân người quá cố lại vừa khóc than vừa lao về phía linh cữu với tình cảm xót thương tột độ, bởi họ biết rằng chỉ vài giây phút nữa thôi, người thân quá cố sẽ vĩnh viễn nằm sâu dưới lớp đất kia, "âm đương” sẽ mãi mãi cách biệt (xưa kia, theo tục lệ còn có người lăn cả xuống huyệt).
Những trường hợp có sự tham gia của hình thức hát bkhóc vừa nói phía trên đều thấy ở cả bốn làng. Cá biệt có làng, hát khóc còn được thực hiện trong một số trưởng hợp khác:
Trong nghi thức tang lễ ở làng Văn Minh, vào ban đêm bhi linh cứu còn quàn tại nhà, chúng ta lại bắt gặp hình thức khóc thay. Đối tượng muốn được khóc thay lúc này thường là những người thân trong gia đình người quá cố.
Trong nghi thức tang lễ ở làng Xuân La, vào buổi lễ Phục hồn (phần Triệu linh), một vị thầy cúng ca một bài khóc. Ông Đặng Đình Phác, người đã diễn xướng bài khóc đó cho biết, đây là bài khóc người quá cố thay cho thân nhân của người này. Lúc đó ông thầy ngồi trước bàn vong diễn xướng. Hình thức khóc thay này lại được thầy cúng diễn xướng trong buổi lễ 49 ngèờy tại chùa (ở gian thờ vong) hoặc tại nhà (phần Triệu linh). Trong buổi lễ này, ngoài phần diễn xướng của thầy cúng, còn có sự tham gia diễn xướng của một vị sư (trước khi kết thúc phần Triệu linh). Ngồi trước bàn vong, vị sư ca bài Gọi uong. Tương tự như bài khóc do thầy cúng thực hiện, cụ sư Đàm Mùi, người đã ca bài Gọi uong cho biết, đây là một hình thức khóc thay cho thân nhân người quá cố.
Khái quát lại có thể đưa ra một số nhận xét như sau:
- Về địa điểm diễn xướng: Hát bhóc được thực hiện ở ba địa điểm: trong chùa. trong nhà và ngoài trời.
- Về phương thức diễn xướng: Hát hhóc được thực hiện một cách độc lập mà không có phần đệm của nhạc cụ. Ngoài ra còn xuất hiện hai lối diễn xướng:
+ Lõi bhóc được nghệ thuật hóa. Lối khóc này do thân nhân của người quá cố, thành viên trong đội nhạc hiếu, nhà sư và thầy cúng thực hiện.
+ Lốt than được nghệ thuật hóa: Lối than này được các già thực hiện.
- Về bài bản hát bhóc được sử dụng: Gắn với hai lối diễn xướng kể trên chúng tôi thấy xuất hiện hai loại bài bản hát bhóc được dùng trong nghi thức tang lễ: loại thứ nhãt là những bài khóc, loại thứ hai là những bài uiêng.
Đối với những bài bhóc, có hai dạng: những bài khóc được sáng tác thông qua sự ngẫu hứng của người diễn xướng và những bài khóc đã được ghi chép thành văn từ trước. Những bài khóc do thân nhân người quá cố thực hiện thuộc dạng bài thứ nhất còn những bài khóc do thành viên trong đội nhạc hiếu, nhà sư và thầy cúng thực hiện lại bao gồm ca hai dạng: có bài đã được ghi chép thành văn từ trước, có bài được sáng tác qua sự ngâu hứng của người diễn xướng NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 41


Đối với những bài uiếng, hầu như chúng đã được ghi chép thành văn và hiếm khi có sự ngẫu hứng của người diễn xướng, đó là những bài do các già thực hiện.
Mặc dù có đôi nét khác biệt giữa hai loại bài bản nói trên nhưng chúng vẫn có sự tương đồng ở chỗ: số lượng bài bản khá phong phú. Tùy theo đối tượng quá cố là nam hay nữ và mối quan hệ của người đó với người diễn xướng mà có nhiều bài bản mang nội dung khác nhau, chẳng hạn như: con khóc cha mẹ, cháu khóc ông bà, cha mẹ khóc con, vợ khóc chồng, bạn bè khóc nhau, viếng cụ ông, viếng cụ bà, viếng hồn trẻ, ....
- Về hình thức uà nội dung ca từ của bài bản hát bhóc: Bài bản trong hát khóc được cấu trúc theo dạng văn vần. Những bài khóc do thân nhân người quá cố thực hiện thường được cấu trúc theo thể thơ tự do. Phần lớn những bài khóc do thành viên trong đội nhạc hiếu, nhà sư và thầy cúng thực hiện có cấu trúc theo thể thơ lục bát là chính.
Như trên đã nói, hát khóc có nhiều bài mang nội dung khác nhau. Cái chết trước tiên đem tới sự đau thương, mất mát cho người còn sống, sự mất mát đó mang đến nỗi nhớ thương người đã khuất.
Mẹ già mất đi, con cái nhớ thương mẹ đến "rụng rời chân tay". Với tình nghĩa vợ chồng, chăng may người vợ mất đi thì:
Vì ai đến nối nhớ thương Vì ai đến nỗi trăm đường sầu bị Nào khi đồng tịch đồng sàng Bây giờ chẳng thấy mặt nàng ở đâu Hai hàng nước mắt thấm sâu Ruột gan chín khúc quặn đau bồi hồi (...) Từ hôm hồn thác đến nay Thương nhớ đêm ngày trong dạ chẳng yên.
Cũng biết rằng sự chết là quy luật của tạo hoá, thế nhưng khi phải gánh chịu
nỗi đau thương, mất mát thì người còn sống lại có ý "trách" ông trời, ông "tạo hoá"
rằng:
Ới ông trời ơi, sao ông mang con tôi đi thế này. hay:
Đường bây giờ âm dương cách biệt
Trời hỡi trời ác nghiệp làm gì. vn:
Ông tạo hóa ơi làm chỉ mà nỗi quá đa Mà chia duyên phận của đôi ta. Có lẽ "trách" ông trời thì không biết ông có "nghe" thấy không và cũng chưa thỏa hết nỗi "đau" nên người còn sống "trách" luôn cả người đã khuất: 48 LÊ CẨM LY


Mẹ gọi con sao con không trả lời mẹ eon ởi (...) Nhà cao cửa rộng con không ở con ơi Nằm gối đất, nằm sương con ơi.
rồi thì: Hồn ơi hỡi hồn sao không ở lại Để một đàn con đại mình tôi. hoặc:
Hồn bao nhiêu tuôi năm nay
Mà hồn lại thác đi ngay hỡi hồn
Hồn chăng thương vợ nhớ eon
Hồn chẳng nhớ đến anh em họ hàng (...) Nöõ nào hồn bỏ trăm đường hồn đi.
Một nội dung khác được thể hiện qua bài bản trong hát khóc là sự tưởng nhớ về công lao sinh thành và nuôi dưỡng của cha mẹ đối với con cái: Mẹ ơi đạo cù lao nghĩa nặng cao sâu Công cha nghĩa mẹ ân sâu nghĩa tình (...) Trăm năm nghìn kiếp muôn đời nào quên (...) Lấy ai bằng mẹ bằng cha trên đời (...) Công cha nghĩa mẹ biết là làm sao Mẹ ơi công cha như núi non cao Nghĩa mẹ như nước tuôn trào biển khơi.
Có thể nói, nội dung bao trùm trong những bài hét khóc là sự thể hiện tình cảm nhớ thương sâu sắc tới người đã khuất của người còn sống, đặc biệt là của thân nhân người quá cố.
- Về tính chất am nhạc: Những bài khóc được sử dụng trong nghi thức tang lễ ở bốn làng: Phượng Vũ, Xuân La, Nội và Văn Minh đều mang khá rõ tính nhạc. Tất cả những bài đó đều được ca bằng giọng buồn, thảm. Tuy nhiên, giữa chúng lại có những mức độ khác nhau về tính nhạc.
Đối với những bài do các già diễn xướng, tính nhạc không đậm nét bằng những bài do thân nhân người quá cố và người khóc thay (bao gồm thành viên đội nhạc hiếu. nhà sư và thầy cúng) diễn xướng. Phần lớn những bài vang lên từ giọng của các già được cấu trúc trên ba cao độ. Mỗi từ trong lời ca thường ứng với hai hoặc ba cao độ khác nhau, dưới đây là một ví dụ:
VIẾNG MẸ

Đếnkh me thác lòng càng xót xa NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 49

Chả bảng có mẹ có cha trên đời.
Những bài khóc do những người khóc thay ca lại không thấm đượm tính nhạc bằng những bài khóc mà thân nhân người quá cố ca lên. Đó là bởi họ ca bằng cá tấm lòng, cả "cái hồn" của những người cùng "ruột thịt" với người đã khuất (xem ví dụ ở trang trên). Còn tình cảm xót thương trong những lời khóc thay chỉ được tạo nên một cách gượng ép, do đó âm nhạc thiếu đi "cái hồn" của người diễn xướng:
CON KHÓC CHA

trong nguồn chảy Ta.
Diễn xướng nghệ thuật trong nghĩ thức tang lễ là một bộ phận không thể thiếu trong diễn trình của lễ tang người Việt. Sự có mặt của hình thức hát khóc nói riêng và một số hình thức diễn xướng khác trong nghi thức tang lễ ở bốn làng nói trên là một minh chứng. Đó chính là một phần trong di sản văn hóa - nghệ thuật cổ truyền của cha ông được gìn giữ và lưu truyền trong nghi thức tang lễ. Bởi vậy, đối với việc phục hồi nghi thức tang lễ cổ truyền hiện nay, trong đó có nghi thức tang lễ của người Việt, chúng ta cần phải tiếp tục kế thừa và phát triển các hình thức sinh hoạt diễn xướng nghệ thuật gắn với nghi thức này, coi đó là một phần trong việc thừa kế và giữ gìn các đi sản văn hóa của cha ông, thừa kế và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.fƒT
L.C.L