
409
THE 4TH INTERNATIONAL CONFERENCE PROCEEDINGS COMMERCE AND DISTRIBUTION
HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ DỊCH VỤ
LOGISTICS TRONG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
Th.S Châu Thị Ngọc Tuyết
Khoa Luật, Đại học Duy Tân
Email: chautngoctuyet@dtu.edu.vn
Th.S Trương Thị Hồng Nhung
Khoa Luật & Sư phạm, Phân hiệu Đại học Đà Nẵng
Email: tthnhung@kontum.udn.vn
Tóm tắt: Logistics là một ngành kinh tế đang phát triển mạnh m, tham gia
ngày càng sâu rộng vào mọi mặt của nền kinh tế - xã hội, đồng thời là mắt xích
quan trọng trong việc hoàn tất quy trình đơn hàng thương mại điện tử. Trong bối
cảnh đó, logistics trong thương mại điện tử đã ra đời và nhanh chóng lan rộng
trên thế giới. Bài viết phân tích thực trạng quy định của pháp luật về logistics
trong bối cảnh chuyển đổi số. Từ đó đưa ra một số kiến nghị để hoàn thiện quy
định pháp luật về vấn đề này.
Từ khóa: Logistics, e-logistics, thương mại điện tử.
COMPLETING THE LEGAL PROVISIONS ON LOGISTICS
SERVICES IN E-COMMERCE
Abstract: Logistics is not only a rapidly expanding economic sector that is
becoming more and more involved in all socio-economic aspects but also a crucial
step in completing the e-commerce order process. In that setting, e-commerce
logistics emerged and spread quickly throughout the world. This article analyzes
the current situation of legal regulations on logistics in the context of digital
transformation. This is the basis for proposing solutions to the completion of
legal regulations on this issue.
Keywords: Logistics, e-logistics, e-commerce.
1. Đặt vấn đề
Trong những năm gần đây, mô hình kinh doanh trên toàn cầu thay đổi đáng
kể với sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của thương mại điện tử (TMĐT), đặc biệt
là trong giai đoạn đại dịch Covid-19. Thị trường TMĐT ở Việt Nam được dự
đoán vẫn sẽ tiếp tục tăng trưởng với tốc độ cao trong thời gian tới. Theo Báo cáo
e-Conomy SEA 2019 của Google và Temasek, tốc độ tăng trưởng hàng năm kép

410
KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ “THƯƠNG MẠI VÀ PHÂN PHỐI” LẦN THỨ 4 NĂM 2023
(Compound Average Growth Rate - CAGR) của giai đoạn 2015 - 2025 là 49%, và quy mô thị
trường dự kiến đạt 23 tỷ USD vào năm 2025. Khi đó, Việt Nam sẽ trở thành nước có quy mô
TMĐT lớn thứ hai Đông Nam Á, sau Indonesia (82 tỷ USD) (Hồ Công Duy, 2022). Sự bùng
nổ của các giao dịch thương mại điện tử đã thúc đẩy cho sự đổi mới tiên phong trong dịch
vụ logistics - khâu kết nối giữa sản xuất và tiêu dùng. Do đó, để bắt kịp với xu thế phát triển
của logistics trong thời kỳ phát triển công nghệ 4.0 và tạo điều kiện cho dịch vụ logistics phát
triển, nhà nước cần đưa ra chính sách pháp luật rõ ràng, phù hợp đối với dịch vụ logistics.
Tuy nhiên, quy đinh của pháp luật Việt Nam hiện nay về dịch vụ logistics còn một số bất cập
như chưa xác định rõ ràng về dịch vụ logistics, có quá nhiều văn bản điều chỉnh loại hình
dịch vụ này và chưa có quy định cụ thể để điều chỉnh vấn đề pháp lý liên quan đến dịch vụ
logistics trong thương mại điện tử. Từ những lý do nêu trên, nhóm tác giả nhận thấy việc
nghiên cứu vấn đề hoàn thiện pháp luật về dịch vụ logistics trong bối cảnh chuyển đổi số là
cần thiết.
2. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
2.1. Tổng quan nghiên cứu
Qua quá trình tìm hiểu nhóm tác giả nhận thấy đã có một số công trình nghiên cứu về
dịch vụ logistics trong thương mại điện tử, tuy không nhiều nhưng cũng đề cập và nghiên
cứu dưới nhiều khía cạnh khác nhau, cụ thể như sau:
- Nguyễn Thị Bình và Trịnh Thị Thu Hương, “Phát triển thương mại điện tử: Cơ hội và
thách thức cho ngành dịch vụ logistics”, Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế, số 134 (2021);
Đỗ Đình Nam, Đỗ Văn Dũng và Trương Thị Thanh Loan, “Doanh nghiệp E-logistics
ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp”, Tạp chí Công thương, số 22 (2021);
Nguyễn Xuân Quyết, Trần Thị Ngọc Lan, “Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến dịch vụ
hậu cần điện tử (E-logistics) tại Tp. Hồ Chí Minh”, Tạp chí Khoa học Công nghệ và Thực
phẩm, số 19 (2019);
Võ Thị Thanh Linh, Nguyễn Thị Thu Hoài, “Một số bất cập và giải pháp hoàn thiện
pháp luật Việt Nam về dịch vụ logistics”, Tạp chí Công Thương, số 12 (2019);
Tạ Thị Thùy Trang, “Pháp luật về dịch vụ logistics trong hoạt động thương mại điện
tử”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 17 (2018).
Những công trình trên đã nghiên cứu một cách khái quát về dịch vụ logistics trong
hoạt động thương mại điện tử. Tuy nhiên, các nghiên cứu trên đa phần chỉ nghiên cứu về
khía cạnh kinh tế nhưng chưa nghiên cứu về khía cạnh chính sách pháp lý. Chỉ có bài nghiên
cứu của tác giả Tạ Thị Thùy Trang đã đề cập đến vấn đền pháp lý về dịch vụ logistics trong
thương mại điện tử.
2.2. Cơ sở lý thuyết
a) Khái niệm dịch vụ logistics
Hiện nay, logistics được biết đến với những khái niệm chủ yếu như:
Hội đồng quản trị logistics Hoa Kỳ (The Council of Logistics Management) năm 1991
đã đưa ra định nghĩa như sau: “Logisitics là quá trình lập kế hoạch, tổ chức thực hiện và

411
THE 4TH INTERNATIONAL CONFERENCE PROCEEDINGS COMMERCE AND DISTRIBUTION
kiểm soát một cách có hiệu quả về mặt chi phí của quá trình lưu chuyển và dự trữ nguyên
vật liệu, bán thành phẩm và thành phẩm cùng những thông tin liên quan từ điểm xuất phát
của quá trình sản xuất đến nơi tiêu thụ cuối cùng nhằm mục đích thỏa mãn được yêu cầu của
khách hàng”. Định nghĩa này đưa ra một cái nhìn tổng thể về hoạt động logistics trong quá
trình kinh doanh, từ việc lên kế hoạch, tổ chức, thực hiện đến việc vận chuyển và tiêu thụ sản
phẩm. Bên cạnh đó, định nghĩa này còn đề cao vai trò của khách hàng xuyên suốt trong quá
trình vận hành, hướng đến mục đích duy nhất là đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
Theo tài liệu giảng dạy của World Maritime University 1999, logistics dưới góc nhìn
của quản trị chuỗi cung ứng được định nghĩa như sau: “Logistics là quá trình tối ưu hóa về
vị trí, lưu trữ và chu chuyển các tài nguyên / yếu tố đầu vào từ điểm xuất phát đầu tiên là
nhà cung cấp, qua nhà sản xuất, người bán buôn, bán lẻ đến tay người tiêu dùng cuối cùng
thông qua hàng loạt các hoạt động kinh tế”. Định nghĩa này cho thấy đối tượng tác động
của logistics không phải là hàng hóa mà logistics chỉ thực hiện việc chu chuyển hàng hóa từ
khi còn là yếu tố đầu vào cho đến khi trở thành sản phẩm đến tay người tiêu dùng cuối cùng.
Theo Martin Christopher (UK) (1986,52) “Logistics là quá trình quản trị chiến lược
thu mua, di chuyển và dự trữ nguyên vật liệu, bán thành phẩm, thành phẩm (và dòng thông
tin tương ứng) trong một công ty và qua các kênh phân phối của công ty để tối đa hóa lợi
nhuận hiện tại và tương lai thông qua việc hoàn tất các đơn hàng với chi phí thấp nhất”.
Quan điểm này cho rằng logistics chính là quá trình quản trị chiến lược từ khâu chuẩn bị
nguyên vât liệu để sản xuất đến việc phân phối sản phẩm nhằm tối ưu hóa lợi nhuận và hoàn
tất các đơn hàng với chi phí thấp nhất.
Tại Việt Nam, theo tác giả Đoàn Thị Hồng Vân (2010, 31) đã đưa ra quan điểm về dịch
vụ logistics như sau: “Logistics là quá trình tối ưu hóa về vị trí và thời điểm vận chuyển và
dự trữ nguồn tài nguyên từ điểm đầu tiên của dây chuyền cung ứng đến tay người tiêu dùng
cuối cùng, thông qua hàng loạt các hoạt động kinh tế”. Quan điểm này đã nhấn mạnh mục
đích của hoạt động logistics là chu chuyển các yếu tố đầu vào và các yếu tố đầu ra từ nhà
cung cấp, nhà sản xuất, nhà phân phối đến tay người tiêu dùng cuối cùng một cách hiệu quả
nhất.
Trong Luật Thương mại 2005, khái niệm về dịch vụ logistics được quy định như sau
“Dịch vụ logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc
nhiều công đoạn bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan,
các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc
các dịch vụ khác có liên quan tới hàng hóa theo thỏa thuận với khách hàng để hưởng thù
lao”. Từ khái niệm cho thấy, logistics không phải là một dịch vụ đơn lẻ. Logistics luôn là
một chuỗi các dịch vụ liên quan đến hàng hóa như: làm các thủ tục giấy tờ, tổ chức vận tải,
bao bì đóng gói, ghi nhãn hiệu, lưu kho, lưu bãi, phân phát hàng hóa (nguyên liệu hay thành
phẩm) tới các địa chỉ khác nhau do bên cung cấp dịch vụ thực hiện theo yêu cầu của bên sử
dụng dịch vụ và được nhận thù lao. Chính vì vậy, khi nói tới logistics người ta bao giờ cũng
nói tới một chuỗi hệ thống dịch vụ (logistics system chain).
b) Đặc điểm của dịch vụ logistics
Dịch vụ logistics là một ngành dịch vụ đặc thù nên dịch vụ logistics có một đặc điểm
riêng biệt so với các hoạt động thương mại khác như sau:
Chủ thể của dịch vụ logistics bao gồm chủ thể cung ứng dịch vụ logistics và khách

412
KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ “THƯƠNG MẠI VÀ PHÂN PHỐI” LẦN THỨ 4 NĂM 2023
hàng. Chủ thể cung ứng dịch vụ logistics và khách hàng thiết lập mối quan hệ thông qua hợp
đồng dịch vụ logistics. Cụ thể, khách hàng là bên sử dụng dịch vụ logistics, thanh toán thù
lao cho bên cung ứng dịch vụ và bên cung ứng dịch vụ là bên thực hiện công việc đối với
hàng hóa theo mong muốn, chỉ dẫn của khách hàng để hưởng thù lao.
Nội dung của dịch vụ logistics bao gồm nhiều dịch vụ khác nhau liên quan đến sự
dịch chuyển hàng hóa và kiểm soát hàng hóa từ nơi sản xuất đến điểm tiêu thụ cuối cùng. Các
hoạt động kinh doanh dịch vụ logistics bao gồm “dịch vụ xếp dỡ container, trừ dịch vụ cung
cấp tại các sân bay; dịch vụ kho bãi container thuộc dịch vụ hỗ trợ vận tải biển; dịch vụ kho
bãi thuộc dịch vụ hỗ trợ mọi phương thức vận tải, dịch vụ chuyển phát, dịch vụ đại lý vận tải
hàng hóa; dịch vụ đại lý làm thủ tục hải quan (bao gồm cả dịch vụ thông quan...” theo Điều
3 Nghị định 163/2017/NĐ-CP của Chính phủ ngày 30 tháng 12 năm 2017 quy định về kinh
doanh dịch vụ logistics.
Dịch vụ logistics có tính rủi ro cao. Dịch vụ logistics bao gồm những hoạt động liên
quan trực tiếp đến hoạt động vận tải hoặc hỗ trợ hoạt động vận tải. Có thể nhận thấy đối
tượng của dịch vụ logistics không phải là hàng hóa, mà là những công việc liên quan trực
tiếp đến hàng hóa. Dịch vụ logistics, đặc biệt là dịch vụ vận tải chịu rủi ro rất lớn từ các yếu
tố khách quan và đặc biệt là chịu ảnh hưởng rất lớn bởi thiên nhiên như bão, sóng lớn, biển
động và tai nạn như mắc cạn, chìm đắm, cháy nổ hay đâm va.
Dịch vụ logistics là hoạt động cung ứng những công việc liên quan đến hàng hóa,
không tác động đến số lượng, chất lượng của hàng hóa. Bản chất của dịch vụ logistics
chính là loại hình dịch vụ được thực hiện với rất nhiều công đoạn khác nhau từ nhận hàng,
vận chuyển hàng hóa, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, đóng gói, ghi ký mã hiệu,... Đặc
thù của dịch vụ logistics là người làm dịch vụ có nghĩa vụ quản lý toàn bộ hàng hóa do khách
hàng hoặc người được khách hàng ủy quyền giao. Công việc mà thương nhân kinh doanh
dịch vụ logistics thực hiện cho khách không trực tiếp tác động đến hàng hóa, không làm gia
tăng giá trị của hàng hóa một cách trực tiếp.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
Nhóm tác giả sử dụng phương pháp phân tích, bình luận và phương pháp tổng hợp để
phân tích một cách tổng quan những vấn đề pháp lý liên quan đến dịch vụ logistics nói chung
và dịch vụ logistics trong thương mại điện tử nói riêng và quy định của pháp luật. Trên cơ sở
đó tổng hợp những bất cập của luật thực định và hướng kiến nghị hoàn thiện quy định pháp
luật về dịch vụ logistics trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay.
3. Thực trạng quy định pháp luật về dịch vụ logistics trong thương mại điện tử
Ngành dịch vụ logistics Việt Nam hình thành và phát triển từ những năm 70 của thế kỷ
20 trên cơ sở phát triển của dịch vụ giao nhận vận tải (freight forwarding). Mặc dù, tại Việt
Nam ngành dịch vụ này phát triển khá muộn so với dịch vụ logistics của thế giới, nhưng lại
phát triển rất nhanh và vững chắc, nhất là trong bối cảnh chuyển đổi số, khi mà thương mại
điện tử phát triển bùng nổ. Dây chuyền thương mại từ người bán đến người mua với quy
trình hoàn tất đơn hàng bao gồm các khâu đóng gói, vận chuyển, thu tiền và thậm chí chăm
sóc khách hàng sau bán hàng thể hiện vai trò và mối quan hệ liên kết chặt chẽ tương trợ đắc
lực cho nhau giữa dịch vụ logistics và thương mại điện tử. .
Nhằm quản lý hiệu quả và tạo điều kiện thuận lợi cho ngành dịch vụ logistics phát
triển, pháp luật Việt Nam có nhiều quy định điều chỉnh hoạt động này như: Luật Thương mại

413
THE 4TH INTERNATIONAL CONFERENCE PROCEEDINGS COMMERCE AND DISTRIBUTION
2005, Nghị định số 163/2017/NĐ-CP quy định về kinh doanh dịch vụ logistics, Nghị định
số 144/2018/NĐ-CP về vận tải đa phương thức... Tuy nhiên qua nghiên cứu thực trạng hệ
thống pháp luật Việt Nam về logistics, nhóm tác giả nhận thấy một số vấn đề còn tồn tại và
tạo nên bất cập cho việc áp dụng quy định pháp luật về dịch vụ logistics trong thương mại
điện tử như sau:
Thứ nhất, khái niệm dịch vụ logistics trong Luật Thương mại 2005 chưa thể hiện rõ
bản chất “chuỗi” của dịch vụ logistics và quy định pháp luật hiện nay chưa đưa ra khái niệm
cụ thể về e-logistics. Dịch vụ logistics là dịch vụ mang tính hỗ trợ cho các hoạt động khác,
đặc biệt là hoạt động mua bán hàng hóa. Logistics là một mắt xích quan trọng trong nền kinh
tế hàng hóa, góp phần đưa hàng hóa đến tay người tiêu dùng, tham gia vào quá trình điều
phối dòng chảy hàng hóa một cách hiệu quả. Như đã phân tích ở phần đặc điểm của dịch vụ
logistics, đây là loại hình dịch vụ mang bản chất “chuỗi”. Vì dịch vụ logistics bao gồm nhiều
dịch vụ khác nhau liên quan đến sự dịch chuyển hàng hóa và kiểm soát hàng hóa từ nơi sản
xuất đến điểm tiêu thụ cuối cùng. Vì vậy, bản chất của logistics là một chuỗi các dịch vụ
liên hoàn chứ không phải là từng dịch vụ đơn lẻ. Do đó, theo quy định hiện hành của Luật
Thương mại 2005: “Dịch vụ logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức
thực hiện một hoặc nhiều công việc...”, thì kể cả những thương nhân chỉ cung cấp một dịch
vụ trong chuỗi logistics cũng được pháp luật công nhận là thương nhân kinh doanh dịch vụ
logistics. Quy định như vậy chưa phù hợp với tính chất bao gồm nhiều dịch vụ của logistics.
Bên cạnh đó, cùng với sự bùng nổ của các giao dịch thương mại điện tử, dịch vụ
logistics trong thương mại điện tử (e-logistics) cũng được hình thành và phát triển nhanh
chóng. Tuy nhiên, nếu TMĐT đã có các quy định pháp luật cụ thể điều chỉnh và gần như tách
bạch với các hoạt động thương mại thông thường, thì logistics truyền thống và e-logistics
vẫn chưa có sự phân biệt bằng các khái niệm pháp lý cũng như quy định pháp luật. Các quy
định hiện hành chỉ điều chỉnh hoạt động logistics truyền thống. Ngoài ra, đặc thù của các
giao dịch thương mại điện tử là có độ phủ thị trường rộng, độ phân tán hàng hóa cao, quy mô
nhỏ lẻ, tần suất mua lớn, mặt hàng đa dạng, thường yêu cầu thời gian giao hàng nhanh chóng,
miễn phí và thu tiền tận nơi. Các dòng di chuyển hàng hóa lúc này mở rộng đáng kể về phạm
vi, khoảng cách, tính phức tạp, nên e-logistics có những khác biệt rất lớn với logistics truyền
thống. Dịch vụ logistics truyền thống đòi hỏi phải có sự xuất hiện của các chứng từ văn bản
cụ thể. Tuy nhiên, trong giao dịch thương mại điện tử, e-logistics gắn liền với giao dịch đó
tạo thành một chuỗi khép kín để thực hiện các thao tác đặt hàng, lệnh vận chuyển thông qua
phương tiện điện tử, với sự xuất hiện các chứng từ điện tử, hợp đồng vận chuyển được xác
lập bằng phương thức điện tử... Ngoài ra, trong Nghị định số 85/2021/NĐ-CP sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định số 52/2013/NĐ-CP của Chính phủ đã ghi nhận tại khoản 6
Điều 1 bổ sung các thương nhân, tổ chức dịch vụ logistics vào danh sách các chủ thể tham
gia hoạt động TMĐT. Tuy nhiên, quy định pháp luật chưa có quy định cụ thể về khái niệm
dịch vụ logistics trong thương mại điện tử (e-logistics).
Thứ hai, việc phân loại các hoạt động logistics hiện nay đã được quy định cụ thể trong
Nghị định 163/2017/NĐ-CP bằng cách liệt kê các dịch dụ logistics được cung cấp bao gồm
các dịch vụ chuyển phát, các loại hình vận tải, xếp dỡ container, kho bãi container,... Khi
quy định của phát luật liệt kê những dịch vụ đơn lẻ như thế này có thể gây ra cách hiểu nhầm
lẫn là khi các chủ thể kinh doanh cung ứng dịch vụ này cũng được xem là thương nhân kinh
doanh dịch vụ logistics. Ví dụ như thương nhân kinh doanh dịch vụ xếp dỡ container cũng